Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Xử lý vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại, từ thực tiễn giải quyết trên địa bàn tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.24 KB, 82 trang )

LỜI CẢM ƠN
Luận văn tốt nghiệp cao học được hoàn thành tại Viện đại học mở Hà Nội. Có
được bản luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc
tới đến Viện đại học mở Hà Nội, Khoa đào tạo sau đại học, đặc biệt là TS. Đồng Ngọc
Ba đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp đỡ tác giả với những chỉ dẫn khoa học quý giá
trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu và hoàn thành đề tài "Xử lý vi phạm trong
quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại, từ thực tiễn giải quyết trên địa
bàn tỉnh Hải Dương". Tác giả xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo - Các nhà khoa
học đã trực tiếp giảng dạy truyền đạt những kiến thức khoa học chuyên ngành Luật
kinh tế cho bản thân tác giả trong nhưng năm tháng qua. Xin gởi tới Tòa án nhân dân
tỉnh Hải Dương, Các Tòa án địa phương và các cơ quan tư pháp trên địa bàn tỉnh Hải
Dương lời cảm tạ sâu sắc vì đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tác giả thu thập số liệu
ngoại nghiệp cũng như những tài liệu nghiên cứu cần thiết liên quan tới đề tài tốt
nghiệp. Xin ghi nhận công sức và những đóng góp q báu và nhiệt tình của các bạn
học viên lớp, nhóm thực tập lớp Cao học Luật kinh tế K 32 đã đóng góp ý kiến và giúp
đỡ, cùng tác giả triển khai, điều tra thu thập số liệu ngoại nghiệp. Có thể khẳng định sự
thành công của luận văn này, trước hết thuộc về công lao của tập thể, của nhà trường,
cơ quan và xã hội. Đặc biệt là quan tâm động viên khuyến khích cũng như sự thơng
cảm sâu sắc của gia đình. Nhân đây tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu đậm.Một
lần nữa tác giả xin chân thành cảm ơn các đơn vị và cá nhân đã hết lòng quan tâm tới
sự nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ ngành Luật. Tác giả rất mong nhận được sự đóng
góp, phê bình của q Thầy Cơ, các nhà khoa học, đọc giả và các bạn đồng nghiệp. Tôi
xin chân thành cảm ơn!
Hải Dương, ngày 15 tháng 12 năm 2016
Tác giả

ĐÀM NHÂN TRÁC


MỤC LỤC
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng..........................................17




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BLDS
2. CP
3. GĐT
4. GS
5. HĐTP
6. KDTM
7. LTM
8. Nxb
9. PGS
10. PT
11. TS
12. TAND
13. TANDTC
14. TNHH
15. ST

: Bộ luật dân sự
: Cổ phần
: Giám đốc thẩm
: Giáo sư
: Hội đồng thẩm phán
: Kinh doanh thương mại
: Luật thương mại
: Nhà xuất bản
: Phó Giáo Sư
: Phúc thẩm
: Tiến sĩ

: Tòa án nhân dân
: Tòa án nhân dân tối cao
:Trách nhiệm hữu hạn
: Sơ thẩm

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Trong cuộc sống hàng ngày, trong các mối quan hệ kinh tế, thương mại, hay
dân sự, Hợp đồng là một trong những phương tiện pháp lý chủ yếu để cá nhân, tổ


chức trao đổi lợi ích nhằm thỏa mãn các nhu cầu nhân sinh. Đặc biệt là trong quá
trình sản xuất kinh doanh thương mại không thể không nhắc đến hợp đồng thương
mại, vì nó đóng vai trị quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế, là hình
thức pháp lý cơ bản của sự trao đổi hàng hóa, là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh
doanh với nhau và với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt
các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại. Hợp đồng thương mại chính là
một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường.
Trong thực tiễn, quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng luôn nảy sinh
những vấn đề rắc rối do nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho việc ký kết, thực
hiện hoặc thanh lý hợp đồng gặp trở ngại. Nhiều trường hợp dẫn đến tranh chấp
phải đưa đến các cơ quan pháp luật hoặc cơ quan trọng tài giải quyết gây tốn kém
về thời gian và tài chính, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các bên và
gây áp lực trong xã hội. Trong những trường hợp như vậy ln xảy ra tình trạng
hoặc là vi phạm chính hợp đồng đã ký kết hoặc là vi phạm các quy định pháp luật
về hợp đồng dẫn đến làm hợp đồng vơ hiệu.
Để có thể xử lý hiệu quả các vi phạm trong giao kết và thực hiện hợp đồng
thương mại nhằm giúp các bên tham gia được đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp,
tạo hành lang pháp lý để các cá nhân, tổ chức tránh được các rủi ro, hạn chế được
các tranh chấp xảy ra khi tham gia vào việc giao kết và thực hiện hợp đồng thương

mại là một vấn đề quan trọng.
Với cách nhìn nhận như trên và qua thực tiễn công tác nhiều năm trong
nghành Tòa án. Tác giả nhận thấy việc nghiên cứu vấn đề xử lý vi phạm trong quá
trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại là rất cần thiết. Vì mặc dù pháp
luật Việt Nam và các điều ước quốc tế đều quy định khá cụ thể và rõ ràng. Tuy
nhiên trong quá trình áp dụng và thực hiện các quy định của pháp luật để xử lý các
vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại còn nhiều vấn
đề bất cập, gây khó khăn cho cơng tác giải quyết các tranh chấp, một số vấn đề còn
gây nhiều tranh cãi trong giới luật học, nhiều điểm chưa phù hợp với thực tế và
khơng khả thi, ví dụ như điều kiện hình thức và đường lối xử lý các hợp đồng

4


thương mại vi phạm hình thức, vi phạm qui định về thời điểm giao kết và thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng. Những bất cập trên đây cần phải được nghiên cứu làm rõ và đề
xuất các giải pháp pháp lý nhằm khắc phục, hoàn thiện. Trong bối cảnh Việt Nam hội
nhập kinh tế ngày càng sâu rộng vào các thể chế kinh tế quốc tế đòi hỏi cần phải có sự
cải cách thích ứng hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về giao kết và thực hiện hợp
đồng thương mại. Việc nghiên cứu vấn đề này một cách thấu đáo, có hệ thống và đầy
đủ dựa trên các quy định của pháp luật và thực tiễn giải quyết trên địa bàn tỉnh Hải
Dương sẽ đem lại hiệu quả thiết thực và to lớn cho xã hội.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “ Xử lý vi phạm trong quá trình
giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại, từ thực tiến giải quyết trên địa bàn tỉnh
Hải Dương” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý, pháp luật điều chỉnh về hợp đồng thương mại và việc
xử lý vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại là một
lĩnh vực pháp luật cũng đã được nhiều nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước
quan tâm.

2.1. Ở nước ngồi
Có nhiều cơng trình nghiên cứu về pháp luật hợp đồng nói chung, trong đó
có đề cập đến các vấn đề có liên quan đến việc xử lý các vi phạm trong quá trình
giao kết và thực hiện hợp đồng, giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi, như: các sách chuyên khảo về Luật hợp đồng The Modern Law of
Contract, 5th ed của Richard Stone [341], European Contract Law, Vol 1 –
Formation, Validity and Content of Contract…của Hein Kotz & Axel Flessner
[321], Elements of the Law of Contract của MacMillanC.A. & R. Stone [324], The
Oxford Handbook of Comparative Law của M. Reinmann& R. Zimmermann [336],
The German Law of Contract – A Comparative Treaties, 2nded. của Basil
Markesinis & others [328], Bài báo Competing Approaches to Force Majeure and
Hardship của Catherine Kessedjian [318]…

5


Các cơng trình này khơng nghiên cứu chun biệt về vấn đề xử lý các vi
phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại theo quy định cùa
pháp luật Việt Nam nói riêng, nhưng cũng có một số phần đề cập đến đề tài mà tác
giả đang nghiên cứu.
2.2. Ở trong nước
Đã có một số sách nghiên cứu về việc xử lý do vi phạm trong quá trình giao
kết và thực hiện hợp đồng thương mại như Giáo trình luật thương mại của một số
cơ sở đào Luật (Trường đại học Luật Hà Nội, Khoa luật Đại học Quốc Gia Hà
Nội.v,..), Pháp luật thương mại dịch vụ Việt nam và Hội nhập kinh tế quốc tế của
PGS.TS Nguyễn Như Phát và TS. Phan Thảo Nguyên; Chuyên khảo Luật kinh tế
của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa; Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư
của TS. Nguyễn Thị Dung, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Chế độ hợp đồng
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay của TS. Phạm
Hữu Nghị; Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vô

hiệu” của TS. Lê Thị Bích Thọ ; Giao dịch dân sự vơ hiệu và việc giải quyết hậu
quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu của TS. Nguyễn Văn Cường.
Hiện cịn có một số sách chun khảo, cơng trình nghiên cứu có liên quan tới
một số khía cạnh pháp lý của vấn đề tác giả đang nghiên cứu như: quyển Việt Nam
Dân luật - luợc khảo của GS. Vũ Văn Mẫu; Pháp luật về hợp đồng của TS. Nguyễn
Mạnh Bách; Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam của TS. Nguyễn
Ngọc Khánh ; Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử của
GS.TS. Nguyễn Thị Mơ ; Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án
của TS. Đỗ Văn Đại …
Ngoài các sách chuyên khảo, ở phạm vi và mức độ khác nhau có một số bài
viết, cơng trình nghiên cứu của các nhà luật học bàn về một số khía cạnh pháp luật
liên quan được cơng bố qua các tài liệu, báo cáo và tạp chí chuyên nghành như:
Hợp đồng thương mại và pháp luật về hợp đồng thương mại của một số nước trên
thế giới của TS. Vũ Thị Lan Anh - Tạp chí Luật học (2008); Vấn dề áp dụng Bộ luật
dân sự trong điều chỉnh quan hệ hợp đồng thương mại của TS. Nguyễn Viết Tý- Tạp

6


chí Luật học (2008),
Những cơng trình khoa học trên là tài liệu vơ cùng q báu giúp tác giả có
thêm nhiều thông tin quan trọng, phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn, nhưng các
cơng trình kể trên khơng nghiên cứu riêng và toàn diện đề tài mà tác giả đang
nghiên cứu. Bởi vậy, việc lựa chọn đề tài “Xử lý vi phạm trong quá trình giao kết
và thực hiện hợp đồng thương mại, từ thực tiễn giải quyết trên địa bàn tỉnh Hải
Dương” để làm luận văn thạc sỹ luật của tác giả là không trùng lặp với các cơng
trình khoa học đã được cơng bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý cũng như cơ sở lý luận
về hợp đồng thương mại, giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại, các hành vi vi

phạm và việc xử lý vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương
mại. Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn
giải quyết trên địa bàn tỉnh Hải Dương, cũng như đánh gia xu hướng của việc áp
dụng các biện pháp xử lý vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng
thương mại của Việt Nam, của các nước trên thế giới, và các tổ chức thương mại
trong khu vực. Qua đó nêu lên những kiến nghị để sửa đổi, bổ sung các qui định còn
bất cập, thiếu sót trong pháp luật hiện hành, hồn thiện cơ chế pháp lý điều chỉnh
việc xử lý vi phạm theo xu hướng hiện đại và hội nhập, qua đó nâng cao hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về xử lý vi phạm trong quá trình giao kết và thực
hiện hợp đồng thương mại, đồng thời xây dựng cơ chế cho việc áp dụng chúng một
cách phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề xử lý vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương
mại nói chung và cụ thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng từ đó tìm ra những
vấn đề cần sửa đổi bổ sung đối với các quy định còn bất cập, gây nhiều tranh cãi,
nhằm hoàn thiện hơn cơ chế pháp lý trong việc xử lý vi phạm trong quá trình giao

7


kết và thực hiện hợp đồng thương mại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về hợp đồng
thương mại, về giao kết và thực hiện hợp đồng, tập chung chuyên sâu vào việc phân
tích các biện pháp xử lý vi phạm trong giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại.
Về mặt thời gian: Cùng với việc nghiên cứu các qui định của pháp luật, đề tài
cũng dành một liều lượng thích hợp để nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật trong
xử lý các vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại trên

địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 2013 đến năm 2016. Sử dụng các báo cáo, số liệu
thống kê, hồ sơ các vụ án kinh doanh thương mại của TAND cấp huyện và TAND
tỉnh Hải Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp phân tích, trình bày các quy định của pháp luật Việt Nam về xử
lý vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại.
Phương pháp thu thập kinh nghiệm từ thực tiễn của một số quốc gia trong
việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hợp đồng trong thương mại quốc tế, từ đó
rút ra những ưu điểm trong quy định của pháp luật quốc tế và luật pháp của một số
nước điển hình trên thế giới về vấn đề xử lý vi phạm hợp đồng thương mại; xem xét
tính phù hợp với điều kiện của Việt Nam, để hướng tới việc hoàn thiện các quy định
của pháp luật Việt Nam trong việc xử lý các vi phạm trong quá trình giao kết và
thực hiện hợp đồng thương mại.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn thông qua các tài liệu, báo cáo, tổng kết
của các cơ quan chức năng.
Phương pháp thống kê qua các vụ án kinh doanh thương mại để làm rõ thực
trạng vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại.
Phương pháp tổng hợp, phân tích nhằm làm sáng tỏ các biện pháp xử lý vi
phạm hợp đồng thương mại.
Phương pháp nghiên cứu từ những vụ án điển hình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn

8


Từ việc nghiên cứu đề tài xử lý vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện
hợp đồng thương mại, từ thực tiễn giải quyết trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm
2013 đến năm 2016. Tác giả chỉ rõ các yếu tố là nguyên nhân và điều kiện dẫn đến
các hành vi vi phạm và các biện pháp xử lý vi phạm cụ thể trên địa bàn tỉnh Hải

Dương nói riêng, để từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro khi ký kết và thực
hiện hợp đồng thương mại. Do đó, kết quả nghiên cứu của đề tài cần được xem xét
là những đóng góp mới của Luận văn.
Đây là cơng trình nghiên cứu khoa học, vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý
nghĩa thực tiễn.
Ý nghĩa lý luận; Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu,
giảng dạy, học tập.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu được áp dụng vào thực tế giảm thiểu
những rủi ro trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại và cách xử
lý khi có những vi phạm xảy ra.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục các từ viết tắt, luận văn bao gồm ba chương.
Chương 1; Lý luận chung về xử lý vi phạm trong quá trình giao kết và thực
hiện hợp đồng thương mại.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết, xử lý vi phạm trong giao kết và thực hiện
hợp đồng thương mại trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý vi
phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại.

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XỬ LÝ VI PHẠM TRONG QUÁ
TRÌNH GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI

9


1.1. Khái quát chung về hợp đồng và hợp đồng thương mại
1.1.1.Khái quát về hợp đồng và hợp đồng thương mại

Khi xã hội lồi người có sự phân cơng lao động và xuất hiện hình thức trao
đổi hàng hóa thì hợp đồng đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều
tiết các quan hệ tài sản. Hợp đồng là sự khái quát một cách toàn diện các hình thức
giao lưu dân sự phong phú của con người, là một trong những phương thức hữu
hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình.
Khái niệm về hợp đồng dân sự cần phải được xem xét ở nhiều phương diện
khác nhau. Theo phương diện khách quan thì hợp đồng dân sự là do các quy phạm
pháp luật của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Theo
phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà trong đó các
bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm phát
sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Điều 385 Bộ luật dân sự số
91/2015/QH13 định nghĩa: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Các quy định về hợp đồng
dân sự được áp dụng cho các hợp đồng nói chung kể cả hợp đồng thương mại.
Cùng với sự phát triển chung của xã hội, các thành phần kinh tế ngày một đa
dạng và phong phú làm cho các quan hệ kinh tế cũng thay đổi theo. Hợp đồng
thương mại trở thành phương tiện phục vụ cho mục đích kinh doanh trên nguyên tắc
các chủ thể tự nguyện, bình đẳng với nhau. Một cách khái quát, hợp đồng thương
mại chính là hình thức pháp lý chủ yếu của các quan hệ kinh doanh trong nền kinh
tế thị trường.
Hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Do đó, hợp
đồng thương mại đều là những giao dịch có bản chất dân sự, thiết lập trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng và thỏa thuận của các bên; đều hướng tới lợi ích của mỗi bên và
lợi ích chung khi tham gia giao kết hợp đồng; đều có những vấn đề cơ bản như: giao
kết hợp đồng, nguyên tắc và các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, hợp đồng

10



vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu… Tuy nhiên, do xuất phát từ đặc điểm và yêu
cầu của hoạt động thương mại nên hợp đồng thương mại có những vấn đề được quy
định có tính chất là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống
như: chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải quyết tranh
chấp hợp đồng…
Hiện nay, Luật thương mại năm 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng
thương mại nhưng có thể hiểu “hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các chủ
thể kinh doanh với nhau và với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, hoặc
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại”. Các hoạt động
thương mại ở đây được xác định theo Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại năm 2005
“là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
1.1.2. Một số vấn đề cần lưu ý khi nghiên cứu hợp đồng thương mại
Theo quy định hiện hành có thể nhận diện hợp đồng thương mại theo một số
tiêu chí pháp lý chủ yếu như sau:
Về chủ thể hợp đồng: Hợp đồng thương mại được thiết lập chủ yếu giữa các
chủ thể kinh doanh (chủ yếu là thương nhân). Theo quy định của Luật thương mại
(2005), thương nhân bao gồm: tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động kinh doanh một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Có những quan hệ hợp đồng trong thương mại đòi hỏi các bên đều phải là thương
nhân, như: Hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại, hợp
đồng dịch vụ quảng cáo thương mại… Có những hợp đồng thương mại chỉ địi hỏi
ít nhất một bên là thương nhân, như: Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp
đồng dịch vụ xây dựng, hợp đồng bảo hiểm… Cá biệt, có những hợp đồng thương
mại không nhất thiết chủ thể hợp đồng phải là thương nhân, như: hợp đồng giao kết
giữa các chủ thể kinh doanh là những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến,
kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập thấp ( những người này khơng phải
đăng ký kinh doanh, do đó họ khơng phải là thương nhân).
Về hình thức: Hợp đồng trong thương mại được thiết lập theo cách thức mà


11


hai bên thỏa thuận, có thể được thể hiện bằng hình thức lời nói, văn bản hoặc hành
vi cụ thể. Trong một số trường hợp, pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập hợp
đồng bằng hình thức văn bản hoặc hình thức khác có giá trị tương đương với văn
bản (Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc thế, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng
ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển
lãm thương mại…)
Mục đích của hợp đồng thương mại là lợi nhuận: Mục đích lợi nhuận là
đặc trưng của các giao dịch thương mại. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp một bên
của hợp đồng trong thương mại không có mục đích lợi nhuận. Những hợp đồng này,
về ngun tắc không đương nhiên chịu sự điều chỉnh bởi những quy định riêng của
pháp luật thương mại. Theo khoản 3, Điều 1, Luật Thương mại 2005 “ Hoạt động
không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực
hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên
thực hiện hoạt động khơng nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này” thì
sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại 2005.
Luật Thương mại năm 2005, BLDS 2005, BLDS năm 2015 ra đời đánh dấu
bước phát triển mới của pháp luật về hợp đồng và là sự thống nhất pháp luật về hợp
đồng ở Việt Nam. Các quy định về hợp đồng trong thương mại đó có những thay
đổi cơ bản cả về kỹ thuật lập pháp và nội dung pháp lý. Luật Thương mại (2005) là
nguồn quan trọng điều chỉnh các giao dịch thương mại giữa các thương nhân với
nhau và với các bên có liên quan nhằm triển khai hoạt động kinh doanh…Luật
thương mại xây dựng trên cơ sở tiếp tục phát triển các quy định mang tính chất
nguyên tắc của Bộ luật dân sự, cụ thể hóa các ngun tắc này cho thích hợp để điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh.
1.2 Giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại
1.2.1 Giao kết hợp đồng thương mại

a) Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại
Giao kết hợp đồng thương mại là giai đoạn thiết lập mối liên hệ pháp lý giữa

12


các chủ thể trong quan hệ trao đổi. Quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng nhằm
bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao kết, hướng dẫn xử sự của các
chủ thể trong quá trình giao kết và thiết lập quan hệ hợp đồng hợp pháp.
Về cơ bản, các nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại chính là nguyên tắc
trong giao kết hợp đồng dân sự được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 1995, tiếp
tục được duy trì tại Điều 389 Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật dân sự năm 2015
không quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng nhưng vẫn duy trì các quy định về
nguyên nhân dẫn đến giao kết hợp đồng vô hiệu được quy định từ Điều 123 đến
Điều 133 của Bộ luật này và cơ bản cũng giống như các nguyên tắc giao kết hợp
đồng trong bộ luật dân sự năm 2005, nên việc giao kết hợp đồng thương mại phải
tuân theo các nguyên tắc sau đây:
Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội
Các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng nhằm tạo điều kiện cho các chủ
thể có thể thoả mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Dựa trên nguyên tắc này,
mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư cách chủ thể đều có thể tham gia
giao kết bất kỳ một giao dịch / hợp đồng dân sự nào nếu muốn, kể cả hợp đồng
thương mại. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp luật, được pháp luật cơng
nhận và bảo vệ khi ý chí của các bên giao kết hợp đồng phù hợp với ý chí của Nhà
nước. Hay nói cách khác, sự tự do ý chí giao kết hợp đồng của các chủ thể phải nằm
trong khuôn khổ, giới hạn nhất định – giới hạn lợi ích của các cá nhân khác, lợi ích
chung của xã hội và trật tự công cộng. Nếu để các bên tự do vơ hạn, thì hợp đồng sẽ
trở thành phương tiện để kể giàu bóc lột người nghèo và sẽ là nguy cơ đối với lợi
ích chung của xã hội. Vì vậy, phải đi xa hơn nữa trong vấn đề tăng cường sự can
thiệp của nhà nước vào các quan hệ pháp luật tư, các việc dân sự… không được bỏ

qua một khả năng tối thiểu nào để mở rộng sự can thiệp của nhà nước vào các quan
hệ dân luật. Chính vì vậy, trong xã hội ta – xã hội xã hội chủ nghĩa, lợi ích chung
của tồn xã hội (lợi ích cộng đồng) và đạo đức xã hội không cho phép bất cứ cá
nhân, tổ chức nào được lợi dụng ý chí tự do để biến những hợp đồng dân sự, hợp
đồng thương mại thành phương tiện bóc lột. Bên cạnh việc bảo đảm lợi ích của

13


mình, các chủ thể phải chú ý tới quyền, lợi ích của người khác, của toàn xã hội; tự
do của mỗi chủ thể không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng
đồng, của tồn xã hội được quy định bởi pháp luật và đạo đức xã hội trở thành giới
hạn cho sự tự do ý chí của các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng nói riêng, và
trong mọi hành vi của chủ thể nói chung.
Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng
Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp đồng
không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình; đồng thời thể
hiện bản chất của quan hệ pháp luật. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên chủ thể khi
tham gia các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau; khơng ai được viện lý do
khác biệt về hoàn cảnh kinh tế, thành phần xã hội, dân tộc, giới tính hay tơn giáo…
để tạo ra sự bất bình đẳng trong quan hệ dân sự. Hơn nữa, ý chí tự nguyện của các
bên chủ thể tham gia hợp đồng chỉ được bảo đảm khi các bên bình đẳng với nhau
trên mọi phương diện. Chính vì vậy, pháp luật không thừa nhận những hợp đồng
được giao kết thiếu sự bình đẳng và ý chí tự nguyện của một trong các bên chủ thể.
Tuy nhiên, trên thực tế thì việc đánh giá một hợp đồng có được giao kết bảo đảm ý
chí tự nguyện của các bên hay chưa, trong một số trường hợp lại là một công việc
hồn tồn khơng đơn giản và khá phức tạp bởi nhiều nguyên do chủ quan và khách
quan khác nhau.
Như chúng ta đã biết, ý chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí chủ quan
bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngồi của chủ thể. Chính vì vậy, sự thống nhất ý

chí của chủ thể giao kết hợp đồng, với sự bày tỏ ý chí đó trong nội dung hợp đồng
mà chủ thể này đã giao kết, chính là cơ sở quan trọng để xác định một hợp đồng đã
đảm bảo nguyên tắc tự nguyện hay chưa. Hay nói cách khác, việc giao kết hợp đồng
chỉ được coi là tự nguyện khi hình thức của hợp đồng phản ánh một cách khách
quan, trung thực mong muốn, nguyện vọng của các bên chủ thể tham gia hợp đồng.
Do đó, theo quy định của pháp luật thì tất cả những hợp đồng được giao kết do bị
nhầm lẫn, lừa dối hay bị đe doạ đều không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi
giao kết và do đó bị vô hiệu.

14


Tóm lại, việc xác định các nguyên tắc khi giao kết hợp đồng thương mại có
một ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tiễn áp dụng chế định
hợp đồng, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ hợp
đồng thương mại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu nó một cách khoa học vấn
đề này luôn được đặt ra nhằm ngày càng làm hoàn thiện hơn các quy định pháp luật
về hợp đồng, giúp các chủ thể có thể tự bảo đảm được lợi ích cá nhân cũng như lợi
ích cộng đồng khi tham gia giao kết hợp đồng.
b) Thủ tục giao kết hợp đồng trong kinh doanh, thương mại
Một hợp đồng thương mại có thể được hình thành theo bất cứ cách thức nào,
theo đó chứng tỏ giữa các bên đã đạt được sự thỏa thuận. Thời điểm giao kết hợp
đồng trong kinh doanh, thương mại là thời điểm mà các bên đã đạt được sự thỏa
thuận. Trong quá trình xác lập hợp đồng trong kinh doanh, thương mại, các vấn đề
pháp lý cơ bản cần được làm rõ là:
Đề nghị giao kết hợp đồng;
Chấp nhận đề nghị hợp đồng;
Thời điểm giao kết và hiệu lực của hợp đồng.
Những vấn đề này không được Luật Thương mại quy định cụ thể, vì vậy các
quy định của Bộ luật Dân sự sẽ được áp dụng đối với việc giao kết hợp đồng trong

kinh doanh, thương mại.
Đề nghị giao kết hợp đồng thương mại
Đề nghị giao kết hợp đồng nói chung có bản chất là hành vi pháp lý đơn
phương của một chủ thể, có nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể
khác theo những điều kiện xác định. Từ quy định của Điều 386 Bộ luật Dân sự năm
2015 có thể định nghĩa “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao
kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã
được xác định hoặc tới công chúng”.
Bộ luật Dân sự cũng như Luật Thương mại không quy định về hình thức của
đề nghị giao kết hợp đồng thương mại, song có thể dựa vào quy định về hình thức

15


của hợp đồng (Điều 24 Luật Thương mại) để xác định hình thức của đề nghị giao
kết hợp đồng, theo đó đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thể hiện bằng văn bản,
lời nói hoặc hành vi cụ thể hoặc kết hợp giữa các hình thức này.
Đề nghị giao kết hợp đồng được gửi đến cho một hay nhiều chủ thể đã xác
định. Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng thông thường được bên đề nghị ấn
định. Trường hợp bên đề nghị không ấn định thời điểm có hiệu lực của đề nghị hợp
đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận
được đề nghị đó. Căn cứ xác định bên được đề nghị đã nhận được đề nghị giao kết
hợp đồng là:
- Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú (bên được đề nghị là cá nhân) hoặc trụ
sở của bên được đề nghị (trường hợp bên được đề nghị là pháp nhân);
- Đề nghị được đưa vào hệ thống thơng tin chính thức của bên được đề nghị;
- Bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các
phương thức khác.
Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về đề nghị của mình. Trong thời hạn đề
nghị hợp đồng có hiệu lực, nếu bên được đề nghị thông báo chấp nhận vô điều kiện

đề nghị hợp đồng thì hợp đồng thương mại hình thành và ràng buộc các bên. Nếu
các bên khơng thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải chịu các hình thức chế
tài do vi phạm hợp đồng.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết
hợp đồng trong các trường hợp:
- Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị
trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;
- Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề
nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.
Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền huỷ bỏ đề
nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải thơng báo cho bên được đề nghị
và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước

16


khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp:
-Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận;
- Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
- Thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;
- Thơng báo về việc huỷ bỏ đề nghị có hiệu lực;
- Theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn
chờ bên được đề nghị trả lời.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối
với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Thời hạn trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng được xác định khác nhau trong các trường hợp sau:
- Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có
hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó;

- Nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả
lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.
- Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý
do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thơng
báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời
ngay khơng đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị.
Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện
thoại hoặc qua các phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp
nhận hoặc khơng chấp nhận, trừ trường hợp có thoả thuận về thời hạn trả lời.
Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao
kết hợp đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị
nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
Thời điểm giao kết hợp đồng trong kinh doanh, thương mại
Về nguyên tắc chung, hợp đồng thương mại được giao kết vào thời điểm các

17


bên đạt được sự thỏa thuận. Thời điểm giao kết hợp đồng được quy định khác nhau
phụ thuộc vào cách thức giao kết và hình thức của hợp đồng. Theo Điều 400 Bộ luật
Dân sự (2015) có thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng kinh doanh, thương mại
theo các trường hợp sau:
- Hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản: thời điểm giao kết hợp
đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản;
- Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản (thông qua các tài liệu giao
dịch): thời điểm đạt được sự thỏa thuận được xác định theo thuyết "tiếp nhận", theo
đó, hợp đồng được giao kết khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng;
- Hợp đồng được giao kết hợp đồng bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp
đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Các bên có thể

sử dụng những biện pháp, chứng cứ hợp pháp để chứng minh việc "các bên đã thỏa
thuận" về nội dung của hợp đồng trong kinh doanh, thương mại bằng lời nói.
Ngồi ra, sự im lặng của bên được đề nghị cho đến khi hết thời hạn trả lời
cũng có thể là căn xác định hợp đồng kinh doanh, thương mại đã được giao kết, nếu
có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
Hợp đồng thương mại có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Tuy nhiên để xác định rõ được thời điểm giao kết hợp đồng nhiều khi cũng
gặp phải những khó khăn nhất định mà khi các cơ quan có thẩm quyền hoặc các bên
xử lý vi phạm cũng không thống nhất được thời điểm giao kết hợp đồng. Trên thực
tế, không phải lúc nào các bên cũng giao kết hợp đồng với nhau chỉ bằng một văn
bản, mà có thể bằng nhiều văn bản khác nhau, có thể giao kết qua phương tiện
thông tin, liên lạc như qua thư tín, điện tín, fax, telex, hoặc gửi thơng điệp dữ liệu,
hoặc thậm chí các bên bàn bạc trực tiếp và giao kết hợp đồng tại phịng cơng chứng,
trước sự chứng kiến của công chứng viên; hoặc các bên đàm phán hợp đồng làm
nhiều lần, mỗi lần đều có làm biên bản ghi nhớ về nội dung đàm phán; hoặc một

18


bên có thể đề nghị giao kết hợp đồng bằng văn bản, cịn bên kia trả lời bằng lời nói,
bằng hành vi cụ thể, hoặc bằng telex hay thư điện tử (email).v.v. Cũng có trường
hợp một bên cấp cho bên kia một văn bản để xác nhận đồng ý giao kết hợp đồng,
với chữ ký đơn phương của bên đó (ví dụ: giấy vay tiền thường chỉ do một bên vay
lập ra). Do vậy, nếu chỉ dựa vào qui định “bên sau cùng ký vào văn bản”, thì các
trường hợp trên rất khó xác định đâu là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản. Ví
dụ: trong các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc của chủ xe cơ giới (ví
dụ xe gắn máy dùng cho cá nhân), người mua bảo hiểm đề nghị giao kết
hợp đồng bằng việc điền vào phiếu yêu cầu được bảo hiểm, và nộp tiền bảo phí. Đại
lý bảo hiểm (được công ty bảo hiểm ủy quyền hợp pháp) chấp nhận giao kết bằng

cách điền các thông tin liên quan vào Giấy chứng nhận bảo hiểm đã có đầy đủ chữ
ký của giám đốc và đã được đóng dấu của cơng ty bảo hiểm, và giao giấy đó cho
người mua bảo hiểm. Tại thời điểm đó, hợp đồng bảo hiểm được giao kết. Ở đây,
khơng có việc “bên sau cùng ký vào văn bản”. Thực tiễn này được doanh nghiệp
bảo hiểm, người tiêu dùng, cơ quan chức năng chấp nhận, và cũng được các luật gia
đồng tình. Trong những trường hợp như vậy, qui định “bên sau cùng ký vào văn
bản” không thể áp dụng để xác định thời điểm giao kết hợp đồng. Bởi vậy, qui định
này cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Vấn đề
chứng minh việc “bên sau cùng ký vào văn bản” cũng gặp nhiều khó khăn. Thực
tiễn pháp lý ở Việt Nam cho thấy, những giấy tờ giao dịch chính thức của tổ chức,
nhất là các doanh nghiệp là pháp nhân, thì phải có chữ ký, ghi rõ họ tên của người
đại diện hợp pháp và phải được đóng dấu. Theo ý kiến của các luật gia, thực tế cũng
có quan niệm cho rằng, hợp đồng bằng văn bản của tổ chức phải được đóng dấu thì
mới có giá trị pháp lý. Đơi khi, thực tiễn xét xử cũng xem việc “đóng dấu là một
hình thức ký vào văn bản” . Do đó, nội dung cụm từ “bên sau cùng ký vào văn bản”
rất cần được làm rõ. Trong thực tiễn xét xử, nhận thức của các tòa án, cũng như
giữa các bên liên quan về vấn đề giao kết hợp đồng bằng văn bản vẫn chưa có sự
nhất quán.
c) Nội dung của hợp đồng thương mại
Nội dung của hợp đồng thương mại là các điều khoản do các bên thỏa thuận,

19


thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Trong thực tiễn,
các bên thỏa thuận nội dung hợp đồng càng chi tiết thì càng thuận lợi cho việc thực
hiện hợp đồng.
Việc pháp luật quy định nội dung của hợp đồng thương mại có ý nghĩa
hướng các bên tập trung vào thỏa thuận những nội dung quan trọng của hợp đồng,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện, đồng thời phòng ngừa những tranh chấp

xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật Thương mại không quy định bắt
buộc các bên phải thỏa thuận những nội dung cụ thể nào trong hợp đồng kinh
doanh, thương mại. Mặc dù các nội dung chủ yếu của hợp đồng thương mại có thể
xác định được dựa trên những quy định mang tính "khuyến nghị", "định hướng" của
pháp luật, thói quen và tập quán thương mại, nhưng trong điều kiện nhận thức của
nhà kinh doanh còn nhiều hạn chế, thì điều này tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến những rủi
ro pháp lý, những tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
Trên cơ sở các quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại, xuất phát
từ tính chất của quan hệ hợp đồng thương mại, có thể thấy những điều khoản quan
trọng của hợp đồng thương mại bao gồm: đối tượng, chất lượng, giá cả, phương
thức thanh toán, thời hạn và địa điểm thực hiện hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của
các bên, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng... Cũng cần lưu ý rằng, đối với từng loại
hợp đồng cụ thể, pháp luật có thể có quy định về những nội dung bắt buộc phải có
(điều khoản chủ yếu) của hợp đồng.
1.2.2 Thực hiện hợp đồng thương mại
a) Nguyên tắc thực hiện hợp đồng thương mại
Những thỏa thuận trong hợp đồng có hiệu lực sẽ có giá trị ràng buộc các bên.
Các bên phải thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận theo đúng hợp đồng. Bởi hợp
đồng có tính chất là “Luật nội bộ” đối với các bên. Để đảm bảo việc thực hiện lợi
ích nghĩa vụ cho các bên, đồng thời khơng xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật
bảo vệ, pháp luật quy định những ngun tắc có tính chất bắt buộc phải tuân theo
đối với các chủ thểtrong quá trình thực hiện hợp đồng. Như vậy, việc thực hiện hợp
đồng phải tuân theo những nguyên tắc sau:
- Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng

20


loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác;
- Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho

các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau;
- Khơng được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền
lợi ích hợp pháp của người khác.
Đây là nguyên tắc bắt buộc đối với các bên trong hợp đồng dân sự nói chung
và hợp đồng thương mại nói riêng . Nguyên tắc trở nên có ý nghĩa khi các bên thỏa
thuận khơng đầy đủ các nội dung trong hợp đồng, đang thực hiện thì phát sinh
những vấn đề mới mà các bên khơng thể lường trước được. Vấn đề sẽ được giải
quyết khi các bên áp dụng các nguyên tắc trung thưc, hợp tác cùng có lợi và đảm
bảo tín cậy lẫn nhau.
b) Cách thức thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Luật thương mại 2055 không quy định về cách thức thực hiện hợp đồng
thương mại nên cách thức thực hiện hợp đồng thương mại được dựa trên quy định
chung cho các hợp đồng được quy định trong Bộ luật dân sự 2005 và tiếp tục duy trì
trong Bộ luật dân sự 2015 từ Điều 409 đến Điều 420. Theo đó, đối với hợp đồng
đơn vụ, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng như đã thỏa thuận; chỉ được
thực hiện trước hoặc sau thời hạn nếu được bên có quyền đồng ý. Cịn đối với hợp
đồng song vụ thì khi các bên đã thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên
phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Nếu nghĩa vụ phải thực hiện mà
khơng thể thực hiện đồng thời thì nghĩa vụ nào thực hiện mất nhiều thời gian hơn
thì nghĩa vụ đó phải được thực hiện trước. Đối với hợp đồng được thực hiện vì lợi
ích của bên thứ ba thì người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải
thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Khi có tranh chấp xảy ra về việc thực hiện hợp
đồng thì người thứ ba khơng có quyền u cầu thực hiện nghĩa vụ cho đến khi tranh
chấp được giải quyết. Bên có quyền cũng có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện
hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.
1.3 Xử lý vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại
1.3.1 Các vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại
a) Giao kết hợp đồng không đúng đối tượng chủ thể.

21



b) Giao kết hợp đồng khơng tn thủ hình thức hợp đồng đã được pháp luật
quy định.
c) Đối tượng giao kết hợp đồng bị pháp luật cấm.
d) Hợp đồng thể hiện không rõ ràng và thiếu các nội dung cơ bản của hợp đồng.
đ) Nội dung hợp đồng do các bên ký kết không bảo đảm các nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, trung thực, bị ép buộc, hoặc giả tạo, nhầm lẫn,
c) Hợp đồng được ký kết có nội dung vi phạm các điều cấm của pháp luật,
trái với đạo đức xã hội.
1.3.2. Xử lý vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại
1.3.2.1 Các hình thức giải quyết tranh chấp khi có vi phạm trong quá trình giao kết
và thực hiện hợp đồng thương mại
Khi phát sinh một vụ việc vi phạm hợp đồng thương mại thì vấn đề mâu
thuẫn và tranh chấp là không thể tránh khỏi, vấn đề là ở chỗ xử lý như thế nào có
lợi nhất cho các bên bằng các biện pháp thích hợp, phù hợp với pháp luật. Để có
thể xử lý có hiệu quả các vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng
khi xảy ra, tùy theo tính chất sự việc, có thể tiến hành một hoặc các biện pháp sau:
a) Thương lượng – hịa giải
b) Đơn phương hủy bỏ hoặc đình chỉ thực hiện hợp đồng
c) Yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài thương mại giải quyết
d) Yêu cầu cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát xem xét khởi tố vụ án hình sự
1.3.2.2. Các chế tài được áp dụng khi xử lý các vi phạm trong quá trình giao kết và
thực hiện hợp đồng
Việc vi phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại dẫn
đến hậu quả bên vi phạm phải gánh chịu các hình thức chế tài, các chế tài khi đó gọi
là chế tài hợp đồng. Nói cách khác, đó là chế tài được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm
các chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại mà bên có quyền bị vi phạm
được lựa chọn áp dụng hoặc yêu cầu áp dụng do pháp luật quy định. Căn cứ pháp lý
để áp dụng chế tài hợp đồng thương mại đó là Luật thương mại năm 2005 ( Từ Điều

292 đến Điều 316 Luật thương mại 2005). Khi các chủ thể có hành vi vi phạm cam

22


kết hợp đồng trong thương mại, khi người bị vi phạm có yêu cầu, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền sẽ áp dụng các chế tài để xử lý vi phạm. Việc quy định cụ thể các
căn cứ áp dụng các chế tài hợp đồng trong thương mại có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc phòng ngừa mọi biểu hiện vi phạm pháp luật trong giao kết và thực hiện
hợp đồng thương mại và nhằm bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của các bên tham
gia giao kết và thực hiện hợp đồng. Theo quy định của pháp luật hiện hành các chế
tài thương mại bao gồm:
a) Buộc thực hiện hợp đồng:
Là hình thức chế tài, theo đó bên bị vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán
phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của bên bị vi phạm. Khoản 1 Điều 297
Luật thương mại 2005 quy định: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi
phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác
để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải gánh chịu chi phí phát sinh”. Mục
đích của việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng nhằm đảm bảo thực
hiện trên thực tế hợp đồng đã được ký kết. Trong nhiều trường hợp, các loại chế tài
khác như bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm không thể thay thế lợi ích từ việc
thực hiện hợp đồng đã ký kết của các bên. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, trong
thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện dudngs hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được áp dụng các chế tài
khác. Việc áp dụng các chế tài khác chỉ được thực hiện sau thời hạn cho phép thực
hiện đúng hợp đồng.
b). Phạt vi phạm hợp đồng là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo
đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi ophamj hợp đồng một khoản tiền
nhất định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận theo quy định hoặc do
các bên thỏa thuận trên cơ sở pháp luật. Điều 300 Luật thương mại 2005 quy định;

“Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt
do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ trường miễn trách
nhiệm quy định tại 294 Luật này”. Mặc dù cũng là chế tài tiền tệ giống như chế tài
bồi thường thiệt hại nhưng phạt vi phạm có chức năng hồn tồn khác. Nếu như chế

23


tài bồi thường thiệt hại nhằm mục đích chủ yếu là bù đắp thiệt hại vật chất cho
người bị thiệt hại thì phạt vi phạm chủ yếu nhằm răn đe, trừng phạt. Căn cứ duy
nhất để bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt là do hành vi khơng thực
hiện hợp đồng hoặc thực hình khơng đúng hợp đồng. Yếu tố lỗi ở đây chỉ có ý
nghĩa suy đốn. Tức là, bên vi phạm có lỗi do việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng hợp đồng. Bên vi phạm chỉ cần chứng minh có sự vi phạm mà không
cần phải chứng minh yếu tố lỗi. Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc
tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng đều
không được quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Tuy nhiên, đối với
cùng một vi phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm chỉ được quyền lựa chọn áp dụng
một trong hai chế tài là phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại, nếu như các bên
khơng có thỏa thuận khác. Nói cách khác, việc áp dụng đồng thời hai loại chế tài
này đối với vi phạm chỉ xảy ra trong trường hợp các bên đã có thỏa thuận trước
trong hợp đồng.
c) Bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài nhằm khơi phục bù đắp những
lợi ích vật chất bị mất của bên bị vi phạm hợp đồng trong kinh doanh. Khoản 1
Điều 302 Luật thương mai 2005 quy định: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm
bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi
phạm”. Việc bồi thường thiệt hại chỉ xảy ra khi có đầy đủ 4 yếu tố sau:
- Có hành vi vi phạm;
- Có thiệt hại thực tế;
- Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại;

- Có lỗi của bên vi phạm
Do chức năng chủ yếu của chế tài này là bồi hồn, bù đắp, khơi phục lợi ích
vật chất, bên vi phạm phải bồi thường tồn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi
phạm. Thiệt hại vật chất ở đây là giá trị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra
và khoản lợi trực tiếp mà vên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành vi vi
phạm hợp đồng. Mặc dù vậy, việc tính chính xác giá trị thiệt hại vật chất là việc rất

24


khó có thể đạt được mọi trường hợp do đặc điểm cụ thể của từng loại hàng hóa dịch
vụ. Tuy nhiên, cá khoản thiệt hại địi bồi thường khơng thể cao hơn giá trị tổn thất
thực tế và khoản loại đáng lẽ được hưởng.
d). Tạm ngừng thực hiện hợp đồng thương mại là hình thức chế tài, theo đó
một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong kinh doanh. Điều 308
Luật thương mại 2005 quy định: “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định
tại Điều 294 của Luật này, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời
không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm
ngừng thực hiện hợp đồng;
2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”.
Khi hợp đồng vị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn có hiệu lực. Bên vi
phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với những tổn thất đã xảy ra do
hành vi vi phạm của bên kia.
đ) Đình chỉ thực hiện hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm
dứt thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng trong kinh doanh . Điều 310 Luật thương mại
2005 quy định: “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của
Luật này, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thưc hiện nghĩa vụ
hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ

hợp đồng;
2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”
Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời
điểm một bên nhận được thơng báo đình chỉ. Các bên khơng phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng. Bên thực hiện nghĩa vụ có quyền u cầu bên kia thanh tốn
hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
e) Hủy bỏ hợp đồng là hình thưc chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng và làm cho hợp đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao

25


×