Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài tại việt nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.78 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TẠ TÙNG HOA

VẤN ĐỀ KẾT HƠN CĨ YẾU TỐ NƢỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 60380108

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Vũ Thị Phƣơng Lan

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan luận văn này là do tự bản thân thực hiện và không sao
chép các cơng trình nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm của riêng mình.
Các thơng tin được sử dụng trong luận văn là có nguồn gốc và được trích dẫn rõ.
Tác giả hồn tồn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn.
Tác giả

Tạ Tùng Hoa



LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc và cảm ơn chân thành tới
Tiến sĩ Vũ Thị Phương Lan, cô đã chỉ bảo và giúp đỡ tơi rất tận tình trong suốt
thời gian hồn thành luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn các đồng nghiệp nơi
tôi đang công tác; Khoa Pháp luật Quốc tế, Khoa sau đại học – Trường Đại học
Luật Hà Nội đa tạo điều kiện và giúp đỡ tơi hồn thành tốt luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bạn bè và gia đình đã động viên, ủng hộ, chia sẻ
và là chỗ dựa tinh thần giúp tôi tập trung nghiên cứu và hồn thiện luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐTTTP

Hiệp định tương trợ tư pháp

HN&GĐ

Hơn nhân và gia đình

UBND

Ủy ban nhân dân

BLDS

Bộ luật Dân sự

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
4. Phương pháp nghiên cứu
5.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
6. Đóng góp của luận văn
7. Kết cấu của luận văn
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾT HƠN CĨ YẾU TỐ NƢỚC
NGOÀI VÀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY

1.1. Khái qt về kết hơn có yếu tố nước ngoài
1.1.1.Một số khái niệm
1.1.2. Xung đột pháp luật về kết hơn có yếu tố nước ngồi
1.2. Giải quyết xung đột pháp luật về kết hơn có yếu tố nước ngoài
1.2.1. Phương pháp giải quyết xung đột
1.2.2. Giải quyết xung đột pháp luật về kết hơn có yếu tố nước ngoài
theo pháp luật một số nước
CHƢƠNG 2. VẤN ĐÊ KẾT HƠN CĨ YẾU TỐ NƢỚC NGỒI TẠI VIỆT NAM. 21


2.1. Vấn đề kết hơn có yếu tố nước ngồi theo pháp luật Việt Nam
2.1.1. Quá trình phát triển chế định kết hơn có yếu tố nước ngồi
2.1.2. Giải quyết xung đột pháp luật về kết hơn có yếu tố nước ngồi
2.2. Vấn đề kết hơn có yếu tố nước ngoài theo Hiệp định tương trợ tư
pháp mà Việt Nam đã ký kết
2.2.1. Giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn
2.2.2. Giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hơn
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG KẾT HƠN GIỮA CƠNG DÂN VIỆT NAM
VỚI NGƢỜI NƢỚC NGỒI TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY

3.1. Thực trạng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngồi giai
đoạn 2002 - 2012
3.1.1. Tình hình kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với đàn ông Đài Loan,
Hàn Quốc
3.1.2. Tình hình kết hơn giữa phụ nữ Việt Nam với đàn ông Trung


Quốc
3.1.3. Nguyên nhân
3.2. Khó khăn, vướng mắc
3.2.1. Khó khăn trong việc áp dụng các quy định pháp luật về hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngồi
3.2.2. Khó khăn trong thực tiễn
3.3. Đề xuất, kiến nghị
3.3.1. Hoàn thiện pháp luật
3.3.2.Những đề xuất, kiến nghị khác
KẾT LUẬN…………………………………………………………….



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của các quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài,
Đảng và Nhà nước ta đã đổi mới chính sách, pháp luật góp phần quan trọng vào
q trình giao lưu dân sự quốc tế điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và
quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi nói riêng. Cụ thể, để giải quyết vấn đề kết
hơn có yếu tố nước ngồi Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật: Luật
hơn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành:
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 của Chính Phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật HN& GĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngồi (gọi tắt NĐ 68/NĐ-CP); Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày
21/07/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngồi (gọi tắt là Nghị định 69/NĐ-CP); Nghị định số 24/2013/NĐ-CP
hướng dẫn Luật HN&GĐ về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngồi; Thơng tư số 22/2013/TT-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28 tháng 3 năm 2013 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình
về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi.
Bên cạnh đó, Việt Nam cịn ký kết rất nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp
(HĐTTTP) với các nước để giải quyết vấn đề về kết hơn có yếu tố nước ngồi.
Có thể nói, đây là một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối hồn
chỉnh điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài, từ luật, các văn bản
hướng dẫn và các HĐTTTP. Các văn bản pháp luật này điều chỉnh tồn diện
vấn đề HN&GĐ từ kết hơn, ly hơn, quan hệ pháp lý giữa vợ chồng, quan hệ cha
mẹ và con, vấn đề nuôi con nuôi, giám hộ, xung đột pháp luật và xung đột thẩm
quyền. So với giai đoạn trước đó (giai đoạn trước năm 1986), pháp luật cịn đơn

giản, chưa có hệ thống, chưa điều chỉnh đầy đủ các quan hệ. Có thể thấy, lý do
một phần là trình độ lập pháp, một phần do hồn cảnh lịch sử nước ta khi đó
mới đang dần củng cố quan hệ với các nước sau khi đất nước thoát khỏi chiến


2

tranh, các mối quan hệ quốc tế này cũng mới chỉ đặt ra với các nước cùng chế
độ Xã hội chủ nghĩa, quan hệ với các nước tư bản hầu như chưa có.
Luật HN&GĐ năm 2000 đã dành hẳn một chương (chương XI) quy định
về quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngồi, trong đó xác định rõ ngun tắc,
cách giải quyết xung đột quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài. Mặc dù trong
thời gian vừa qua, các quy định pháp luật về kết hơn có yếu tố nước ngồi đã có
những đóng góp nhất định nhưng vẫn cịn thiếu sót và bộc lộ một số nhược
điểm, nhất là trong xu thế ngày càng phát triển của quan hệ quốc tế. Ví dụ: điều
luật quy định về việc kết hơn vi phạm “thuần phong mỹ tục” hay vì mục đích
“trục lợi” chưa rõ ràng cụ thể dẫn đến khó áp dụng hoặc dễ bị lợi dụng khi áp
dụng; chưa có điều luật quy định về hơn nhân đồng giới, hiện nay nước ta
không công nhận vấn đề hôn nhân đồng giới nhưng một số nước trên thế giới
đã công nhận và ban hành luật hôn nhân đồng giới. Pháp luật Việt Nam cần có
quy định cụ thể hơn để dự liệu trường hợp có hơn nhân đồng giới có yếu tố
nước ngồi xảy ra.
Thêm vào đó, thực trạng kết hơn có yếu tố nước ngồi cho thấy có khơng
ít vấn đề phức tạp nảy sinh từ các cuộc hôn nhân với người nước ngoài. Trước
hết là sự di chuyển dân cư khá ồ ạt khi một số lượng công dân Việt Nam xuất
cảnh sang nước ngoài đoàn tụ gia đình và phần lớn đối tượng kết hơn là phụ nữ
lại có tính tập trung tại một số địa bàn nhất định nên đã dẫn đến tình trạng mất
cân bằng giới tính khá nghiêm trọng. Phức tạp nhất đó là sự biến dạng về mục
đích và cách thức hình thành quan hệ hơn nhân, các hậu quả về văn hóa, xã hội
của hôn nhân đa chủng tộc. Thêm nữa, việc chạy đua lấy chồng là người Đài

Loan, Hàn Quốc trở thành một trào lưu, dẫn đến nảy sinh nhiều trường hợp cị
mồi, mơi giới làm quen, làm dịch vụ. Có nhiều trường hợp khơng chờ đợi thời
gian để tìm hiểu người chồng tương lai mà nhanh chóng làm thủ tục kết hơn
dẫn đến tình trạng hơn nhân thiếu hiểu biết, thiếu tình cảm, hơn nhân khơng
nhằm mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc, gián tiếp làm giảm giá trị người
phụ nữ Việt Nam, nảy sinh hiện tượng phụ nữ Việt Nam bị rao bán, quảng cáo
công khai như hàng hóa trên báo chí nước ngồi, và thậm chí đã có hiện tượng


3

lợi dụng việc hơn nhân với người nước ngồi để tiến hành hoạt động buôn bán
phụ nữ, trẻ em.
Nhận thức được tính cấp thiết trên, tác giả đã tìm hiểu, nghiên cứu đề tài
“Vấn đề kết hơn có yếu tố nước tại Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay có rất nhiều tác giả viết về đề tài kết hơn có yếu tố
nước ngồi. Có thể kể đến cơng trình nghiên cứu của TS. Nơng Quốc Bình, TS.
Nguyễn Hồng Bắc với đề tài “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngồi ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, NXB Tư pháp, Hà Nội 2006;
Luận án tiến sĩ Nguyễn Hồng Bắc với đề tài “Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia
đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”; TS.Nơng Quốc
Bình, TS. Nguyễn Hồng Bắc với đề tài “Quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngồi những vấn đề lý luận và thực tiễn’; Thạc sĩ Nguyễn Thái Mai có
bài viết “Trung tâm hỗ trợ kết hơn – mơ hình mới góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho phụ nữ Việt Nam khi kết hơn với người nước ngồi” đăng
trên tạp chí Luật học số đặc san về bình đẳng giới năm 2005; “Mơ hình cơ quan
tư vấn, hỗ trợ kết hơn có yếu tố nước ngoài – Giải pháp đảm bảo quyền lợi của
phụ nữ Việt Nam khi kết hôn với người nước ngồi” – Nguyễn Thị Lan đăng

trên tạp chí Luật học số 04/2008; Đề tài “Kết hơn có yếu tố nước ngoài – Thực
trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn thành phố Hải Phòng” – Thạc
sĩ Nhâm Ngọc Hiển năm 2010... Tuy nhiên, các bài viết, đề tài nghiên cứu chủ
yếu tìm hiểu về quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi, trong đó có đề cập đến
vấn đề giải quyết xung đột pháp luật, hoặc chủ yếu bàn về quy phạm pháp luật
xung đột dưới góc độ của pháp luật dân sự hoặc luật hơn nhân và gia đình mang
ý

nghĩa lý luận sâu sắc hoặc phân tích thực trạng vấn đề kết hơn có yếu tố nước

ngoài nhưng giới hạn trên một địa bàn nhất định. Với đề tài lựa chọn, về lý
luận, luận văn góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và
pháp luật về hơn nhân gia đình nói riêng phù hợp với thực tiễn và phù hợp với
xu hướng chung của thế giới. Về thực tiễn, luận văn tập trung phân tích thực


4

tiễn quan hệ kết hôn của phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài dựa trên số
liệu báo cáo của các Sở Tư pháp trong thời gian gần đây.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Pháp luật điều chỉnh quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi
và thực trạng kết hơn có yếu tố nước ngồi là một vấn đề có phạm vi rộng, với
nhiều nội dung cần nghiên cứu, đánh giá, đưa ra nhiều loại giải pháp tương
ứng; tuy nhiên trong khuôn khổ của Luận văn Thạc sĩ Luật học, tác giả tập
trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản như: Lý luận chung về kết hơn có yếu tố
nước ngồi; lịch sử phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu
tố nước ngồi; phân tích đánh giá quy định pháp luật hiện hành về kết hơn có
yếu tố nước ngồi; thực trạng kết hơn giữa người Việt Nam với người nước
ngoài tại một số tỉnh, thành phố. Đặc biệt là việc kết hôn của phụ nữ Việt Nam

với công dân một số nước trong khu vực; đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn
thiện hệ thống pháp luật và một số giải pháp xã hội nhằm bảo vệ quyền lợi của
công dân Việt Nam khi kết hôn với người nước ngoài.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu:
-

Phương pháp duy vật biện chứng;

-

Phương pháp phân tích, tổng hợp;

-

Phương pháp so sánh;

-

Phương pháp lịch sử;

-

Phương pháp thống kê.

5.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


Quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài là một loại quan hệ khá nhạy cảm
và phức tạp. Do đó, đề tài nghiên cứu nhằm mục đích sau:
-

Làm sáng tỏ những vấn đề chung về kết hôn và giải quyết xung đột

pháp luật về kết hơn có yếu tố nước ngồi được quy định trong pháp luật Việt
Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết.


5

-

Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết quan hệ kết hơn

có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam.
-

Qua quá trình nghiên cứu đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn

thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề kết hơn có yếu tố nước ngồi, đồng thời
đưa ra những đề xuất kiến nghị phù hợp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và
bảo vệ quyền, lợi ích của công dân Việt Nam khi kết hôn với người nước ngồi.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới như sau:
-

Nêu và phân tích được thực tiễn áp dụng pháp luật về kết hơn có yếu tố


nước ngồi và thực trạng kết hơn có yếu tố nước ngoài tại một số tỉnh, thành
phố trong những năm qua, thống kê và phân tích số liệu thực tế một cách đầy
đủ, có hệ thống.
-

Phân tích logic diễn biến tình hình kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với

người nước ngoài; nêu được bức tranh tổng thể về tình hình kết hơn của phụ nữ
Việt Nam với người nước ngồi; chỉ ra và phân tích các ngun nhân chủ yếu;
xu hướng diễn biến trong thời gian tiếp theo.
-

Đề xuất một số phương hướng, giải pháp mang tính tích cực, trong đó

bao hàm cả giải pháp hồn thiện pháp luật, giải pháp về kinh tế, văn hóa, giáo
dục, truyền thơng… nhằm hồn thiện hệ thống pháp luật về kết hơn có yếu tố
nước ngồi, phịng ngừa, giảm thiểu các hiện tượng tiêu cực như môi giới hôn
nhân trái pháp luật, buôn bán phụ nữ và trẻ em.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm:
Chương 1. Lý luận chung về kết hơn có yếu tố nước ngoài và giải quyết
xung đột pháp luật về vấn đề này.
Chương 2. Vấn đề kết hơn có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam.
Chương 3. Thực trạng kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước
ngồi trong những năm gần đây và một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.


6


CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾT HƠN CĨ YẾU TỐ NƢỚC
NGOÀI VÀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY.
1.1 Khái qt về kết hơn có yếu tố nƣớc ngoài
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1 Khái niệm quan hệ hơn nhân – gia đình có yếu tố nƣớc ngồi
Về ngun tắc, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi là quan hệ dân sự có
ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngồi hoặc các bên tham gia là cơng dân, tổ
chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngồi, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan
hệ đó ở nước ngồi.
Do đó, quan hệ hơn nhân và gia đình – một loại quan hệ dân sự đặc biệt
được xác định là quan hệ có yếu tố nước ngoài phải dựa vào yếu tố quốc tịch
của một trong hai bên nam, nữ; sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên
quan đến quan hệ hơn nhân đó ở nước ngồi.
Tại khoản 14, Điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam 2000 quy
định: Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi là quan hệ hơn nhân
và gia đình giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài hoặc giữa người
nước ngoài thường trú tại Việt Nam với nhau hoặc giữa công dân Việt Nam với
nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước
ngồi hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi.
Quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi bao gồm các quan hệ
sau:
-

Quan hệ kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng có yếu tố nước ngồi;

-


Quan hệ giữa cha, mẹ, con có yếu tố nước ngồi;

-

Quan hệ giám hộ có yếu tố nước ngồi;

-

Quan hệ cấp dưỡng có yếu tố nước ngồi;

-

Quan hệ ly hơn có yếu tố nước ngoài.


7

Như vậy, quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước nước ngoài mang
một phạm vi rộng, với nhiều nội dung. Trong đó, kết hơn có yếu tố nước ngồi
là một nội dung trong quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi.
Trong phạm vi của luận văn này, tác giả tập trung làm sáng tỏ quan hệ kết hơn
có yếu tố nước ngồi.
1.1.1.2 Khái niệm kết hơn có yếu tố nƣớc
ngồi * Kết hơn
Theo Từ điển Bách khoa tồn thư Việt Nam: Kết hơn là sự kết hợp hai
người khác giới để lập gia đình, sinh con đẻ cái, thực hiện chức năng sinh học
1

và các chức năng khác của gia đình .

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học thì: Kết hơn là việc nam và
2

nữ chính thức lấy nhau, làm vợ, chồng theo quy định của pháp luật .
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp: Kết
hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng khi thỏa mãn các điều kiện kết
hôn và thực hiện đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của
3

pháp luật .
Vì kết hơn là một sự kiện xã hội quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt nên
được luật tục (dưới xã hội nguyên thủy) và luật pháp (đối với các xã hội đã có
văn tự và có nhà nước) quy định rất chặt chẽ. Ai vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm
khắc.
Kết hôn là quyền dân sự của cá nhân được quy định trong Bộ luật Dân sự
năm 2005 (Điều 24, Điều 39), theo đó nam và nữ có đủ điều kiện kết hôn theo
quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hơn, khơng
bên nào bị ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được cản trở hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ hoặc cưỡng ép kết hơn.
1 Từ điển Bách khoa tồn thư – Viện Từ điển học và Bách khoa toàn thư Việt Nam
– www.bachkhoatoanthu.gov.vn
2 Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học 1999, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội
3Từ điển Luật học 2006, Bộ Tư pháp, Viện Khoa học Pháp lý.


8

Theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam 2000: Kết hôn là việc nam,
nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn

và đăng ký kết hôn (khoản 2, Điều 8).
Như vậy, muốn kết hôn – tức là thực hiện một quyền dân sự quan trọng
của mình thì hai bên nam nữ phải thể hiện ý chí của mình là mong muốn được
xác lập quan hệ vợ chồng. Sự bày tỏ ý chí thể hiện trong việc khai Tờ khai đăng
ký kết hôn – ký xác nhận nguyện vọng, làm thủ tục đăng ký kết hơn tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền – UBND cấp xã nơi một trong hai người đăng ký hộ
khẩu thường trú (trường hợp kết hôn trong nước; hay UBND cấp tỉnh (trường
hợp kết hơn có yếu tố nước ngồi). Cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn
xem xét về điều kiện kết hôn của hai bên nam nữ (về độ tuổi, về sự tự nguyện,
về tình trạng hơn nhân), nếu các bên nam nữ đủ điều kiện kết hơn thì tiến hành
việc đăng ký kết hôn; ghi vào Sổ đăng ký kết hôn và cấp Giấy chứng nhận đăng
ký kết hôn (trước khi cấp Giấy chứng nhận kết hơn cịn u cầu hai bên nam nữ
khẳng định lại một lần nữa về ý định tự nguyện kết hôn rồi mới cho ký vào
Giấy chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký kết hôn).
Thông qua sự kiện đăng ký kết hôn, Nhà nước đã công nhận chính thức
quan hệ hơn nhân của hai bên nam nữ, Giấy chứng nhận kết hôn là chứng cứ
viết về mặt pháp lý ghi nhận rằng hai bên nam nữ là vợ chồng trước pháp luật,
đồng thời phát sinh các quyền và nghĩa vụ của vợ - chồng; thời điểm phát sinh
quan hệ là thời điểm hai bên nam nữ chính thức ký vào Giấy chứng nhận kết
hơn và Sổ đăng ký kết hôn.
Kết hôn là cơ sở, tiền đề cho việc tạo lập gia đình – tế bào của xã hội.
Pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn là tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh việc liên kết giữa nam và nữ nhằm xác lập quan hệ vợ chồng.


bất kỳ xã hội có giai cấp nào, pháp luật cũng luôn là công cụ hữu hiệu

của Nhà nước để điều chỉnh quan hệ kết hơn; nó thể hiện tính giai cấp sâu sắc.
Mặc dù có sự khác nhau trong nội dung của các quy phạm pháp luật của các
nước về vấn đề kết hơn, nhưng nhìn chung pháp luật về kết hôn tập trung điều

chỉnh hai vấn đề cơ bản, đó là: điều kiện kết hơn và nghi thức kết hôn.


9

- Điều kiện kết hơn:
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học thì: Điều kiện kết hơn là điều
4

kiện để Nhà nước công nhận việc kết hôn của các bên nam nữ . Như vậy, điều
kiện kết hôn được hiểu là những đòi hỏi của pháp luật đặt ra đối với các chủ thể
khi kết hôn và chỉ khi các chủ thể đáp ứng được đầy đủ các điều kiện đó thì
việc kết hơn mới coi là hợp pháp, do vậy quan hệ hôn nhân mới được pháp luật
của Nhà nước công nhận và bảo vệ.
5

Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp thì:
Điều kiện kết hơn là điều kiện do pháp luật quy định mà các bên nam nữ cần
phải có hoặc khơng có điều kiện đó mới có quyền được kết hôn. Điều kiện kết
hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài là “Những yêu cầu bắt buộc
phải đáp ứng do pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước khác quy định đối
với công dân hai nước”
Trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới, việc xác định tính
hợp pháp của các điều kiện kết hơn được đề cập qua các vấn đề: ý chí, độ tuổi,
sức khỏe, tình trạng hơn nhân, quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng…của các bên
khi kết hôn.
- Nghi thức kết hôn:
Nghi thức kết hơn là tiến trình hành chính nhằm thiết lập quan hệ vợ
chồng theo quy định của pháp luật. Tùy thuộc vào nền kinh tế, truyền thống văn
hóa, điều kiện xã hội mà pháp luật các nước khác nhau có quy định về nghi

thức kết hơn khác nhau; Một số nước chỉ thừa nhận nghi thức kết hơn chính
thức (duy nhất) là việc kết hôn phải được tiến hành trước cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền (gọi là nghi thức kết hôn theo thủ tục dân sự); Một số nước thừa
nhận nhiều nghi thức kết hơn chính thức khác nhau: Nghi thức kết hơn trước cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền (theo thủ tục dân sự) hoặc nghi thức kết hơn
theo thủ tục tơn giáo (là hình thức kết hôn được tiến hành trước những người
4 Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học 1999, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội
5Từ điển Luật học 2006, Bộ Tư pháp, Viện Khoa học Pháp lý.


10

đại diện cho tôn giáo theo thủ tục và quy định của tơn giáo đó) đều có giá trị
pháp lý như nhau.
Nghi thức kết hôn theo thủ tục dân sự là nghi thức được tiến hành trước
cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước. Khi các bên có đủ điều kiện kết hơn thì
cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước sẽ công nhận, cấp Giấy chứng nhận kết
hôn cho các bên và ghi vào Sổ đăng ký kết hôn; thường được tiến hành chính
thức tại trụ sở của cơ quan đăng ký kết hôn.
Nếu các bên chủ thể khi đăng ký kết hôn không đáp ứng được các yêu
cầu về điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn mà pháp luật quy định thì về
nguyên tắc việc kết hơn đó sẽ khơng được pháp luật cơng nhận và bảo hộ
(không làm phát sinh quan hệ vợ chồng trước pháp luật). Trường hợp các bên
nam nữ kết hôn mà vi phạm một trong các điều kiện kết hôn theo quy định của
pháp luật sẽ bị coi là việc kết hơn trái pháp luật (hơn nhân vơ hiệu); khi có u
cầu, cơ quan tịa án có quyền hủy bỏ việc kết hơn trái pháp luật đó.
* Kết hơn có yếu tố nước ngồi
Luật Hơn nhân và gia đình cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành
chưa có khái niệm kết hơn có yếu tố nước ngồi. Tuy nhiên, kết hơn là một loại

quan hệ hơn nhân gia đình, do đó, có thể căn cứ theo khoản14 Điều 8 để giải
thích vấn đề kết hơn có yếu tố nước ngồi như sau:“Quan hệ hơn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngồi là quan hệ hơn nhân và gia đình:
a)

Giữa cơng dân Việt Nam và người nước ngồi;

b)

Giữa người nước ngồi với nhau thường trú tại Việt Nam;

c)

Giữa cơng dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi,

chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi hoặc tài sản liên quan đến quan
hệ đó ở nước ngoài”.
Tại Điều 758 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 (BLDS) quy định nguyên
tắc, dấu hiệu nhận biết quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, cụ thể: “Quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngồi là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên
tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ


11

chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngồi, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan
hệ đó ở nước ngồi”. Có thể thấy, quan hệ kết hôn là quan hệ dân sự đặc biệt
nên khi xác định quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài cần căn cứ theo Điều

758 BLDS 2005. Tuy nhiên, quan hệ kết hôn là quan hệ đối nhân đặc biệt, là
quan hệ dựa trên yếu tố tình cảm, mục đích kết hơn nhằm xây dựng gia đình
hịa thuận, hạnh phúc, nên yếu tố tài sản không được xem xét khi xác lập quan
hệ này theo pháp luật Việt Nam.
Từ các quy định trên, có thể xem xét quan hệ kết hơn có yếu tố nước
ngồi qua các trường hợp sau:
-

Quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài hoặc

giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam
Trong quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, một bên chủ thể là cơng
dân Việt Nam, bên chủ thể còn lại là người nước ngồi. Cơng dân Việt Nam khi
tham gia quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi phải có đầy đủ năng lực pháp
luật và năng lực hành vi theo pháp luật Việt Nam. Người nước ngoài, theo quy
định của Luật quốc tịch 2008 gồm: cơng dân nước ngồi và người khơng quốc
tịch. Do đó, người nước ngồi có thể là cơng dân nước ngồi mang một hay
nhiều quốc tịch khác ngồi quốc tịch Việt Nam, hoặc là người khơng quốc tịch.
Để tham gia quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, người nước ngồi
trước hết phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định
pháp luật của nước mà người đó là cơng dân hoặc nước mà người đó đang
thường trú (đối với người không quốc tịch). Đồng thời, khi xác lập quan hệ kết
hôn tại Việt Nam, họ cũng phải đảm bảo đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực
hành vi theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo Điều 761 BLDS 2005 quy định về năng lực pháp luật của người
nước ngoài, cụ thể:
“1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định
theo pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch.



12

2. Người nước ngồi có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân
Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
quy định khác”.
Điều 762 BLDS 2005 quy định năng lực hành vi của người nước ngoài:
“ Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo
pháp luật của nước mà người đó là cơng dân, trừ trường hợp pháp luật Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác”.
-

Quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác

lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi hoặc tài sản liên
quan đến quan hệ đó ở nước ngồi
Khi các chủ thể tham gia quan hệ kết hôn, họ luôn mong muốn thỏa mãn
các điều kiện và nghi thức của pháp luật để có thể trở thành vợ chồng hợp pháp.
Căn cứ làm phát sinh quan hệ kết hôn là việc đăng ký kết hôn – hai bên nam nữ
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cơng nhận việc kết hơn và cấp Giấy
chứng nhân kết hôn, đồng thời cùng ký vào Sổ đăng ký kết hôn.
Pháp luật Việt Nam ghi nhận việc đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngồi
có thể tiến hành tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam hoặc tại cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài. Tại khoản 1, Điều 16 Nghị định số
6

24/2013/NĐ-CP quy định: “Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau
hoặc với người nước ngoài đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của
nước ngồi ở nước ngoài, phù hợp với pháp luật của nước đó thì được cơng
nhận tại Việt Nam, nếu vào thời điểm kết hôn, công dân Việt Nam không vi
phạm quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hơn.

Trường hợp có vi phạm pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn, nhưng
vào thời điểm yêu cầu công nhận việc kết hơn, hậu quả của vi phạm đó đã được
khắc phục hoặc việc công nhận kết hôn là có lợi để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ
và trẻ em thì việc kết hơn đó cũng được cơng nhận tại Việt Nam”.
6 Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hơn
nhân và gia đình về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi.


13

Trong trường hợp các chủ thể tham gia quan hệ kết hôn đều là người Việt
Nam nhưng căn cứ pháp lý phát sinh sự kiện này xảy ra ở nước ngồi thì vẫn
coi là quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài. Sự kiện pháp lý trong trường hợp
này là việc đăng ký kết hôn tiến hành ở nước ngồi. Ví dụ: hai cơng dân Việt
Nam định cư ở Anh, chưa nhập quốc tịch Anh nhưng làm thủ tục kết hơn tại cơ
quan có thẩm quyền của Anh. Trong trường hợp này sẽ có xung đột pháp luật,
vì tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn họ phải tuân theo pháp luật Anh, khi họ
muốn quan hệ kết hôn này được công nhận và bảo hộ ở Việt Nam thì quan hệ
này phải đáp ứng được điều kiện kết hơn theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt
Nam 2000.Trường hợp công dân Việt Nam công tác, học tập ở nước ngồi làm
thủ tục đăng ký kết hơn tại cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước
ngoài (Đại sứ qn, Lãnh sự qn) thì khơng phải là quan hệ kết hơn có yếu tố
nước ngồi. Do đó, trường hợp này được áp dụng theo quy định pháp luật Việt
Nam, chịu sự điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 và các
quy định pháp luật về đăng ký hộ tịch trong nước.
1.1.2. Xung đột pháp luật về kết hơn có yếu tố nƣớc ngồi
1.1.2.1. Hiện tƣợng xung đột pháp luật trong quan hệ kết hơn có yếu
tố nƣớc ngồi
Trong xã hội hiện đại mọi việc không ngừng vận động và phát triển, dưới
tác động của q trình tồn cầu hóa, đã tạo ra các mối quan hệ và phụ thuộc lẫn

nhau giữa các nền kinh tế, sự gia tăng của lưu thơng hàng hóa và di chuyển dân
cư khiến các quan hệ pháp lý phát sinh giữa công dân, pháp nhân của các quốc
gia ngày càng nhiều và đa dạng trong mọi lĩnh vực. Sự đan xen đa chiều của
các quan hệ pháp lý không chỉ bị giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà
còn liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau và có
thể một quan hệ pháp lý chịu sự chi phối điều chỉnh của hai hay nhiều hệ thống
pháp luật khác nhau. Tư pháp quốc tế gọi vấn đề này là quan hệ có “xung đột
pháp luật” (conflict of law).
Hệ quả của xung đột pháp pháp luật đem lại chính là việc có thể áp dụng
pháp luật nước ngồi, từ đó lựa chọn pháp luật áp dụng (luật nội địa hay luật


14

nước ngồi) ln là một vấn đề quan trọng. Do vậy, nói một cách khái qt thì
xung đột pháp luật là một tình huống pháp lý hoặc một quan hệ pháp lý khi phát
7

sinh có thể chịu sự điều chỉnh của hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác
nhau”. Từ phân tích trên có thể hiểu: xung đột pháp luật về kết hơn là trường
hợp có hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể tham gia điều chỉnh quan
hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi.
1.1.2.2. Ngun nhân dẫn đến xung đột pháp luật
Nguyên nhân mang tính khách quan xuất phát từ tính đa dạng, phong
phú của các hệ thống pháp luật hiện nay trên thế giới. Thực tế, hiện nay trên thế
giới có bao nhiêu quốc gia thì có bấy nhiêu hệ thống pháp luật khác nhau. Điều
này dẫn đến hệ quả là việc áp dụng các hệ thống pháp luật khác nhau để giải
quyết một quan hệ tư pháp quốc tế có thể dẫn đến các hệ quả pháp lý khác
nhau. Từ cách hiểu này thì nguyên nhân dẫn đến xung đột pháp luật về kết hơn
là do pháp luật về hơn nhân gia đình của các nước quy định khác nhau. Sự khác

nhau đó có thể là do truyền thống pháp lý, chế độ sở hữu… của từng quốc gia.
Bên cạnh đó, trong một xã hội luôn vận động và phát triển, sự di chuyển
nguồn nhân lực, dịng vốn, sự phát triển khoa học cơng nghệ, hình thành các
cuộc hơn nhân quốc tế…Các quan hệ này ln tiềm ẩn vấn đề xung đột pháp
luật, vì luôn liên quan đến hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau.
Xuất phát từ tính “nội tại” của quan hệ kết hơn. Đây là quan hệ có nội dung “có
yếu tố nước ngồi” nên phát sinh xung đột pháp luật.
1.2. Giải quyết xung đột pháp luật về kết hơn có yếu tố nƣớc ngồi
1.2.1. Phƣơng pháp giải quyết xung đột
1.2.1.1. Phƣơng pháp thực chất
Trên cơ sở lý luận chung của Tư pháp quốc tế, có thể hiểu phương pháp
thực chất điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài là phương pháp điều
chỉnh trực tiếp mà theo đó, có thể xác định được cụ thể nội dung các quyền và

7 Hệ thống pháp luật ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là hệ thống pháp luật quốc nội mà
bao gồm hệ thống pháp luật quốc tế (các Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế).


15

8

nghĩa vụ của vợ chồng thông qua các quy phạm pháp luật thực chất . Quy phạm
thực chất có thể được xây dựng trong pháp luật quốc gia hay trong các điều ước
quốc tế, tuỳ thuộc vào yêu cầu điều chỉnh đối với các quan hệ kết hôn ở mỗi
quốc gia. Phương pháp này có ưu điểm là trực tiếp giải quyết xung đột pháp
luật trong mối quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi. Đây là phương pháp được
nhiều nước áp dụng khi ban hành pháp luật điều chỉnh các quan hệ kết hôn
9


trong thời gian trước thế chiến thứ hai .
Tuy nhiên, điểm bất lợi của phương pháp điều chỉnh trực tiếp này là ở
chỗ, dường như nó bị coi là ý kiến chủ quan của một quốc gia trong việc áp
dụng pháp luật nước mình nhằm điều chỉnh quan hệ kết hôn. Mặt khác, đời
sống hôn nhân giữa những người khác quốc tịch, xét về mặt nhân thân, cũng có
nghĩa là một sự liên kết và dung hồ giữa những nền văn hố của vợ chồng từ
10

các bản địa khác nhau . Do đó, ở đây pháp luật không nên can thiệp một cách
thái quá vào đời sống tinh thần, tình cảm, đạo đức và lối sống của mỗi cá nhân
trong các quan hệ riêng tư. Bởi trên phương diện bảo vệ quyền con người, thì
bảo vệ tự do cá nhân còn bao hàm cả việc bảo vệ những bí mật riêng tư trong
đời sống vợ chồng. Chính vì thế, sự khiếm khuyết của phương pháp điều chỉnh
trực tiếp, phải được bổ sung và hoàn thiện bằng một phương pháp điều chỉnh
khác phù hợp hơn. Đó là phương pháp xung đột.
1.2.1.2. Phƣơng pháp xung đột
Phương pháp xung đột (hay còn gọi là phương pháp gián tiếp) điều chỉnh
các quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi chủ yếu thơng qua các quy phạm
xung đột được xây dựng trong pháp luật quốc gia hoặc trong các điều ước quốc
tế. Khác với phương pháp thực chất, phương pháp xung đột không trực tiếp quy
định cụ thể về nội dung các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong quan hệ kết
hơn.
8Giáo trình Tư pháp quốc tế (TS. Bùi Xuân Nhự chủ biên), NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2003, tr. 32.
9 Nguyễn Xuân Chánh, Phân tranh luật pháp giản yếu, Giáo trình của Đại học luật khoa Sài Gòn, 1964,
tr.111.
10

Nguyễn Xuân Chánh, đã dẫn, tr.110.



16

Phương pháp này nhằm lựa chọn hệ thống pháp luật áp dụng để điều
chỉnh quan hệ tương ứng. Áp dụng pháp luật của nước nào lại phụ thuộc vào sự
dẫn chiếu của quy phạm xung đột. Thực tế cho thấy, quy phạm xung đột thường
được xây dựng trên cơ sở các quy tắc khách quan, với chủ ý của nhà làm luật,
nhằm hướng tới việc lựa chọn pháp luật áp dụng.
1.2.2. Giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn có yếu tố nƣớc ngồi
theo pháp luật một số nƣớc
1.2.2.1. Pháp luật các nƣớc Civil Law và các nƣớc Common Law
Xét dưới khía cạnh lý luận về giải quyết xung đột pháp luật, thì luật nhân
thân (lex personalis) đối với các nước theo Civil Law thường được hiểu là pháp
luật của nước mà đương sự có quốc tịch (lex nationalis), cịn đối với các nước
theo Common Law thì hiểu là pháp luật của nước nơi đương sự thường trú (lex
domicili). Nhưng về nguyên nhân của sự khác nhau này (giữa hệ thuộc luật
quốc tịch và hệ thuộc luật nơi cư trú), thì rất khó để có câu trả lời thoả đáng.
Qua nghiên cứu pháp luật cũng như thực tiễn của các nước, nhận thấy
các nước trong hệ thống pháp luật Common Law hiện nay, nhất là những nước
liên bang (như Hoa Kỳ, Canada, Australia...) là nơi có nhiều người nước ngồi
cư trú, làm ăn, sinh sống, cũng như Liên Xơ trước đây và Liên bang Nga hiện
nay cũng vậy, thường nhấn mạnh hệ thuộc luật nơi cư trú khi nói đến lex
personalis. Thực tế cho thấy, chỉ có người nước ngoài (thuộc các quốc tịch khác
nhau) đến định cư sinh sống tại các nước này, chứ công dân của những nước
này khơng có xu hướng định cư ở nước ngồi. Hiện tượng đó được giải thích
bởi các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của những nước này cao hơn các
nước khác, nên đã thu hút ngày càng nhiều người nước ngồi đến làm ăn sinh
sống. Do đó, năm 1927, Pháp đã ủng hộ quan điểm coi lex domicili (trên cơ sở
11

thuyết địa tính trước kia ) là căn cứ để xác định pháp luật nhân thân trong quan

hệ hơn nhân và gia đình.

11
XVI.

học thuyết địa tính (thuyết lãnh thổ) do Dumoulin và D' Argentre khởi xướng ở Pháp từ thế kỷ


17

Bản chất của vấn đề ở đây chính là sự bành trướng áp dụng pháp luật
nước mình, thay vì phải áp dụng pháp luật nước ngoài (nếu theo nguyên tắc lex
nationalis). Mặt khác, dưới khía cạnh luật quốc tịch cịn cho thấy, chính các
nước này cũng khơng u cầu cơng dân nước ngồi phải từ bỏ quốc tịch của
mình khi nhập quốc tịch của họ (Anh, Canada, Hoa Kỳ, Pháp, Australia…). Chỉ
vấn đề này thôi cũng đã thấy ý đồ của họ trong việc ủng hộ lex domicili, thực
chất là bành trướng pháp luật nước mình và cuối cùng dẫn tới chỗ tránh phải áp
dụng pháp luật nước ngoài (theo lex nationalis).
Như vậy, xét về bản chất của sự việc, thì yếu tố quốc tịch vẫn là điểm
mấu chốt, cốt lõi trong tư tưởng lựa chọn hệ thuộc luật nhân thân, chứ không
phải là yếu tố định cư. Mancini

12

cực kỳ có lý khi đưa ra học thuyết đối nhân,

mà căn cứ vào đó người ta có thể phân biệt cơng dân nước này với công dân
nước kia dựa trên yếu tố nhân thân căn bản nhất của con người là quốc tịch.
1.2.2.2. Pháp luật một số nƣớc cụ thể
Từ sau năm 1927, cùng với việc cho phép ngoại kiều được cư trú trên

lãnh thổ Pháp, đã diễn ra những thay đổi căn bản trong thực tiễn tư pháp quốc
tế ở Pháp. Với chủ trương áp dụng pháp luật Pháp cho những ngoại kiều cư trú


đó, Pháp lại đề cao học thuyết địa tính, nhằm áp dụng luật nơi cư trú (lex

domicilii) thay vì luật bản quốc của người nước ngồi. Bên cạnh đó, tại Điều
163

và Điều 170 Bộ luật dân sự Pháp có quy định nguyên tắc điều chỉnh quan

hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi theo luật của nước có Tịa án, cơ quan có thẩm
quyền (Lex fori) đối với các vấn đề phát sinh.
Bộ luật dân sự của Brazil 1942 lấy nguyên tắc luật nơi cư trú làm cơ sở
cho việc xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ hơn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngồi, quan hệ giữa vợ và chồng nói riêng.
Điều 13 Bộ luật dân sự Đức quy định nguyên tắc luật quốc tịch của
đương sự (Lex patriae) điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi.

12
Nhà hoạt động chính trị Italia Mancini (1817-1888) đã đưa ra học thuyết đối nhân nổi tiếng,
nhằm ủng hộ cho việc thống nhất Italia.


18

Theo pháp luật Trung Quốc, tại Điều 147 những nguyên tắc chung về
pháp luật dân sự của nước CHDCND Trung Hoa quy định: “những người nước
ngồi đăng ký kết hơn tại Trung Quốc phải tuân theo pháp luật Trung Quốc cả
về điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn. Kể cả trường hợp người nước ngoài

đủ điều kiện kết hôn theo pháp luật nước mà họ là công dân nhưng theo pháp
luật Trung Quốc chưa đủ điều kiện kết hơn cũng khơng được đăng ký kết hơn”.
Do đó, pháp luật Trung Quốc áp dụng luật nơi thực hiện hiện hành vi để điều
chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài, cụ thể là áp dụng hệ thuộc luật nơi
thực hiện hành vi để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn.
1.2.2.3. Điều ƣớc quốc tế
Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước là loại điều ước
có nhiều quy phạm điều chỉnh quan hệ hơn nhân và gia đình nói chung, quan hệ
giữa vợ và chồng nói riêng, theo phương pháp xung đột. Đây là loại nguồn
quan trọng điều chỉnh các quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở
nước ta hiện nay. Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các
nước, quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi được điều chỉnh trong các Hiệp
định như sau:
-

Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Liên xô (cũ) (ký ngày

10.12.1981, hiện nay LB Nga kế thừa);
-

Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Tiệp khắc (cũ) (ký ngày

12.10.1982, hiện nay CH Séc và CH Xlôvalia là hai nước kế thừa);
-

Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Cu Ba (ký ngày 30.11.1984);

-

Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Hungary(ký ngày 18.01.1985);


-

Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Bungary(ký ngày 03.10.1986);

-

Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Ba Lan (ký ngày 22.3.1993);

-

Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Liên bang Nga (ký ngày

25/8/1998, Việt Nam đã phê chuẩn, hiện chưa có hiệu lực);
-

Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Lào (ký ngày 6/7/1998);

-

Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Ucraina (ký ngày 6/4/2000);

-

Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Mông Cổ (ký ngày 17/4/2000)


19

Trong việc điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài, các Hiệp

định tương trợ tư pháp trên đây đều đi theo hướng áp dụng hệ thuộc luật nhân
thân (lex personalis). Tuy nhiên, sự lựa chọn hệ thuộc luật quốc tịch (lex
nationalis) hoặc luật nơi cư trú (lex domicili) lại khơng có sự giống nhau trong
các Hiệp định. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, nếu vợ chồng đều là công dân của Nước ký kết này nhưng
cùng thường trú trên lãnh thổ Nước ký kết kia, thì quan hệ nhân thân được xác
định theo pháp luật của Nước ký kết mà họ là công dân (các Hiệp định với Tiệp
khắc, Cuba, Bungary, Balan); cịn Hiệp định với Liên xơ, Hungary, Liên bang
Nga, Lào - thì theo nơi thường trú.
Thứ hai, nếu vợ chồng đều là công dân của Nước ký kết này nhưng vợ
thường trú trên lãnh thổ Nước ký kết này, chồng thường trú trên lãnh thổ Nước
ký kết kia, thì quan hệ nhân thân được xác định theo pháp luật của Nước ký kết
mà họ là công dân (tất cả các Hiệp định).
Thứ ba, trong trường hợp vợ chồng khác quốc tịch nhưng cùng thường
trú trên lãnh thổ của một Nước ký kết, thì theo tất cả các Hiệp định, quan hệ
nhân thân được xác định theo pháp luật của Nước ký kết mà họ cùng thường
trú; nếu họ khơng cùng thường trú, thì theo nơi thường trú cuối cùng hoặc theo
nguyên tắc luật Toà án (lex fori).
Như vậy, theo các Hiệp định tương trợ tư pháp, quan hệ kết hôn chủ yếu
được điều chỉnh bằng hệ thuộc luật nhân thân và được điều chỉnh chủ yếu bằng
các quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật của nước mà họ
có quốc tịch hoặc có nơi cư trú chung). Đây là cách thức phổ biến, phù hợp với
thực tiễn tư pháp quốc tế được nhiều nước áp dụng hiện nay.
Đối với các Công ước của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế như:
(1)Quy chế của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế; (2)Công ước ngày
15/6/1955 về giải quyết xung đột giữa luật theo quốc tịch và luật nơi cư trú;
(3)Công ước ngày 14/3/1978 về Công nhận hiệu lực hôn nhân cũng được áp
dụng theo hệ thuộc luật nơi cư trú để điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước
ngoài.



×