Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Ứng dụng mô hình Camels đánh giá hiệu quả hoạt động hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2010-2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.49 KB, 17 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

53.

1Ngơ

Thanh Xuân*

Trần Thị Mai Lan*
Đặng Thị Thùy Dương*
Nguyễn Thị Bảo Ngọc*
Tóm tắt
Ngân hàng có vai trị quan trọng đối với nền kinh tế. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động của
hệ thống ngân hàng đặc biệt được quan tâm. Một nền kinh tế chỉ phát triển khi có một hệ
thống ngân hàng hoạt động hiệu quả. Do đó, mỗi một thời kỳ, hệ thống ngân hàng phải xây
dựng chiến lược để thích ứng và nâng cao hiệu quả hoạt động. Khoảng thời gian từ 20102019 được coi là thời kỳ các ngân hàng thương mại (NHTM) có nhiều sự thay đổi lớn trong
chiến lược hoạt động. Chưa dừng lại đó, cuối năm 2019, đại dịch Covid-19 xuất hiện trên
thế giới và tràn vào Việt Nam ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động của hệ thống NHTM. Các
ngân hàng vừa phải đảm bảo hoạt động hiệu quả vừa phải thực hiện nhiệm vụ thúc đẩy nền
kinh tế thốt khỏi khủng hoảng. Chính vì vậy, rất cần thiết phải đánh giá hiệu quả hoạt động
của hệ thống ngân hàng trong thời gian này để rút ra những bài học kinh nghiệm và hoạch
định chiến lược hoạt động cho hệ thống ngân hàng trong thời gian tới.
Từ khóa: CAMELS, hiệu quả hoạt động, ngân hàng, Covid-19.
1. Lời giới thiệu
Sức khỏe của một nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của hệ thống tài chính.
Do đó bất cứ hoạt động khơng hiệu quả nào của hệ thống cũng ảnh hưởng trực tiếp đến
sự phát triển của nền kinh tế (Rostami, 2015). Hiện nay, việc đánh giá hiệu quả hoạt động
của hệ thống ngân hàng rất được quan tâm bởi lẽ ngân hàng luôn được coi là huyết mạch
của thị trường tài chính. Trong những năm trở lại đây, có thể thấy nền kinh tế Việt Nam


nói riêng và thế giới nói chung gặp khá nhiều biến động. Cụ thể gần đây nhất là khi dịch
*

Viện Ngân hàng-Tài chính, ĐH Kinh tế Quốc Dân | Email liên hệ:

785


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

bệnh Covid-19 bùng phát từ cuối năm 2019 trên thế giới và tràn vào Việt Nam chưa có
dấu hiệu kết thúc. Điều này có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của hệ thống ngân hàng
trên thế giới và Việt Nam. Cùng với sự vận động không ngừng của thị trường tài chính
mà mỗi thời kỳ các ngân hàng phải có các chính sách hoạt động phù hợp để thích nghi và
nâng cao hiệu quả hoạt động.
Các tổ chức tín dụng (TCTD) và NHTM có vai trị chủ chốt trong q trình luân
chuyển vốn của nền kinh tế, việc đánh giá hiệu quả hoạt động NHTM góp phần đảm bảo
phát triển kinh tế bền vững và năng động. Hệ thống ngân hàng hình thành nguồn vốn đầy
đủ và phân bổ nguồn vốn sao cho thật hiệu quả tới các dự án đầu tư, dịch vụ thanh tốn
trên thị trường tài chính, nơi tập hợp các chủ thể thiếu hụt vốn và cả các cá nhân và tổ
chức dư thừa nguồn vốn (Dincer và cộng sự, 2011). Các NHTM trong vai trò là trung
gian tài chính sẽ cung cấp dịch vụ thanh tốn và nhiều sản phẩm tài chính cho phép khu
vực doanh nghiệp và hộ gia đình đối phó với những bất ổn kinh tế bằng cách bảo hiểm
rủi ro, chia sẻ và định giá tài chính (Mishkin, 2009). Ở cả các nền kinh tế phát triển và
đang phát triển, các NHTM là nguồn cung cấp vốn chính cho nền kinh tế.
Cùng với sự biến động không ngừng của thị trường tài chính, sự xuất hiện của các loại
hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng cũng đe dọa đến thị phần hoạt động của các NHTM.
Điều này khiến cho việc xác định, đánh giá hiệu quả của hệ thống NHTM hiện nay càng cấp

thiết. Trong 2 thập kỷ qua, các tổ chức tài chính trên khắp thế giới đã tiến bộ nhanh chóng
với xu hướng tồn cầu hóa, hội nhập tài chính, tiến bộ cơng nghệ, giảm chi phí thơng tin, thay
đổi nhân khẩu học và cạnh tranh giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng
(Hoque & Rayhan, 2013). Chính bởi vậy việc đánh giá, phân tích và giám sát hoạt động hệ
thống NHTM trở thành một căn cứ quan trọng cấp thiết hơn bao giờ hết để cơ quan quản lý
xây dựng cơ cấu điều chỉnh phù hợp với diễn biến thị trường.
Trong những năm gần đây, một trong những mơ hình được sử dụng nhiều nhất để
đánh giá hiệu quả hoạt động và sự lành mạnh của ngân hàng được thể hiện bằng khung
CAMELS (Roman & Sargu, 2013). Mơ hình được phát triển vào đầu những năm 1970
bởi cơ quan quản lý liên bang ở Mỹ. Hệ thống đánh giá CAMELS dựa trên đánh giá 6
yếu tố quan trọng trong hoạt động của một tổ chức tài chính: Mức độ an tồn vốn, Chất
lượng tài sản có, Khả năng quản lý, Thu nhập, Tính thanh khoản và Độ nhạy cảm với rủi
ro thị trường. Bài viết này sẽ trình bày về thực trạng hiệu quả hoạt động của hệ thống
NHTM Việt Nam giai đoạn 2010-2020 thơng qua mơ hình CAMELS.

786


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

2. Tổng quan lý thuyết
Khái niệm mơ hình CAMELS
CAMELS là một mơ hình xếp hạng, đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng và cũng là
chữ viết tắt của sáu yếu tố chính trong mơ hình đó chính là: Capital (vốn), Assets (tài sản),
Management (quản lý), Earnings (lợi nhuận), Liquidity (thanh khoản) và Sensitivity (độ nhạy
cảm với các rủi ro thị trường) (Nguyễn Ngọc Tú, 2018). Mục đích của mơ hình CAMELS là
cung cấp cách đánh giá chính xác và nhất qn nhất về tình trạng tài chính cũng như các hoạt
động trong vấn đề mức độ an toàn vốn, chất lượng tài sản, quản lý, tính thanh khoản và mức

độ nhạy cảm với các thay đổi của thị trường. Các nhân tố trên sẽ quyết định sức mạnh tổng
thể của ngân hàng. Hơn thế nữa, mơ hình CAMELS phục vụ mục đích tạo ra cái nhìn khái
qt cho các nhà quản lý. Hỗ trợ các nhà quản lý giám sát hoạt động của các NHTM và đưa
ra những cảnh báo hay biện pháp kịp thời, giảm thiểu những ảnh hưởng xấu đến hiệu quả
hoạt động của ngân hàng (Nguyễn Ngọc Tú, 2018).
Lịch sử hình thành và phát triển của mơ hình CAMELS
Mơ hình CAMELS hiện đang là mơ hình được sử dụng nhiều nhất để đánh giá hiệu quả
hoạt động của ngân hàng (Roman & Sargu, 2013). Xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1970,
CAMELS đã dần khẳng định vị trí vị trí của mình, đến tháng 10-1987, mơ hình này được
Cục Quản lý và Tổ hợp tín dụng Mỹ chấp nhận và thơng qua. Từ đó, CAMELS được sử
dụng ngày càng phổ biến để đánh giá hiệu quả hoạt động và xếp hạng đối với các NHTM
(FDIC, 2017).
Ban đầu, khi mới được thành lập, mơ hình có tên gọi là CAMEL với 5 yếu tố chính
là: Capital (Vốn), Asset Quality (Chất lượng tài sản có), Management (Quản lý),
Earnings (Lợi nhuận), Liquidity (Thanh khoản) (Cargili, 1989). Vào những năm 1990
trở lại CAMEL vẫn được sử dụng với khá ít nhược điểm. Tuy nhiên sau khi trải qua cuộc
khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997, hầu hết các ngân hàng đều chịu tác động mạnh
mẽ của sự biến đổi về tình hình kinh tế, hệ thống ngân hàng ý thức việc đánh giá lại hiệu
quả hoạt động là rất quan trọng.
Khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, các nhà kinh tế nhận thấy mơ hình CAMEL
khơng cịn đánh giá hiệu quả hoạt động và xếp hạng một cách đầy đủ như trước đây. Nhìn
nhận được lỗ hổng này, mơ hình CAMEL được bổ sung thêm yếu tố thứ sáu đó chính là
Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (Sensitivity to market risks) vào năm 1997
(Nguyễn Thị Diễm Hiền và cộng sự, 2014). Việc bổ sung thêm nhân tố thứ sáu này giúp
việc đánh giá và xếp hạng ngân hàng hiệu quả hơn ngay cả khi gặp những bất ổn trong
nền kinh tế.
787


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA


ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Các nhân tố trong mơ hình CAMELS
Hình 1. Hệ thống xếp hạng CAMELS

Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp, 2021

Capital Adequacy - Mức độ an toàn vốn
Mức độ an toàn vốn thể hiện số vốn để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng
(Nguyễn Thị Diễm Hiền và cộng sự, 2014). Theo Thông tư 52/2018/TT-NHNN ngày 3112-2018 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về việc quy định xếp hạng tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngồi, một số những chỉ tiêu cụ thể được sử dụng để đánh giá
mức độ an tồn vốn gồm nhóm các chỉ tiêu định lượng như CAR - tỷ lệ an toàn vốn, và
nhóm các chỉ tiêu định tính như việc các NHTM tuân thủ các quy định của pháp luật về
việc ban hành, rà soát hay xem xét sửa đổi và bổ sung, thực hiện đúng các quy định báo
cáo nội bộ về đánh giá chất lượng tài sản có và việc đảm bảo đúng mức tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu theo quy định của pháp luật,...
Asset Quality-Chất lượng tài sản có
Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu nói lên tồn bộ giá trị ngân hàng hiện đang có quyền sở
hữu hay sử dụng, định đoạt một cách hợp pháp. Quy mô, cơ cấu, chất lượng quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Tài sản của ngân hàng bao gồm các tài sản có
khả năng sinh lợi và các tài sản khơng có khả năng sinh lợi. Tuy nhiên, khoản mục cho
vay chiếm giá trị lớn trong khoản mục tài sản của các ngân hàng và cũng là tài sản tiềm
ẩn nhiều rủi ro nhất (Gier, 2007).

788


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA


ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Theo Thông tư 52/2018/TT-NHNN ngày 31-12-2018 của NHNN, một số chỉ tiêu thường
được sử dụng để đánh giá chất lượng tài sản có của ngân hàng bao gồm: nhóm các chỉ tiêu
định tính và định lượng. Nhóm các chỉ tiêu định lượng như tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ chi phí hoạt
động, chỉ tiêu lợi nhuận như ROA, ROE... Đối với nhóm các chỉ tiêu định lượng, thơng qua
các chỉ tiêu đánh giá và chấm điểm các khoản cho vay, tuân thủ các quy định đối với việc
ban hành, rà soát, sửa đổi bổ sung và báo cáo hệ thống chỉ tiêu nội bộ về ra quyết định cấp
tín dụng, quản lý tình trạng các khoản vay, tn thủ chính sách về dự phòng rủi ro, các quy
định pháp luật về phân loại các loại tài sản có, mức trích lập dự phòng rủi ro và sử dụng dự
phòng rủi ro để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng.
Management-Quản lý
Khả năng quản lý có tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng (FDIC,
2017). Việc quản lý tốt tạo ra một hệ thống hoạt động thống nhất, có sự liên kết giữa các
bộ phận, ban ngành, các sản phẩm, dịch vụ với nhau. Năng lực quản lý đóng vai trị quan
trọng trong thành cơng hay thất bại của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đánh giá năng lực
quản lý một cách tổng quát là một điều rất khó khăn. Chính vì vậy, với các mục đích
nghiên cứu khác nhau mà các nhà nghiên cứu sẽ lựa chọn đánh giá năng lực trong từng
lĩnh vực (Dincer và cộng sự, 2011).
Theo Thông tư 52/2018/TT-NHNN ngày 31-12-2018 của NHNN, các chỉ tiêu thường
được sử dụng để đánh giá năng lực quản lý gồm: các chỉ tiêu định lượng (tỷ lệ chi phí so với
tổng thu nhập hoạt động...) và các nhóm chỉ tiêu định tính (tn thủ các quy định pháp luật
về cổ phiếu, cổ đông, cổ phần; các quy định pháp luật về giới hạn góp vốn, mua cổ phần...).
Earnings - Lợi nhuận
Mặc dù mục tiêu của các ngân hàng nói riêng và các doanh nghiệp nói chung là tối đa
hóa giá trị vốn chủ sở hữu, nhưng các ngân hàng vẫn ln muốn duy trì một mức lợi
nhuận ổn định, không quá thấp và thường giữ mức lợi nhuận này không âm. Một mức lợi
nhuận cao chưa hẳn đã là tốt, cũng như một mức lợi nhuận thấp cũng chưa đủ để kết luận
ngân hàng không đạt hiệu quả hoạt động. Do đó, khi dùng chỉ tiêu lợi nhuận để đánh giá
hiệu quả cần phải có cái nhìn tồn diện, và trong các mối quan hệ khác nhau (Gier, 2007).

Theo Thông tư 52/2018/TT-NHNN ngày 31-12-2018 của NHNN, một số chỉ tiêu phổ
biến dùng để giá mức sinh lời từ hoạt động bao gồm: các nhóm chỉ tiêu định lượng (tỷ lệ lợi
nhuận trước/sau thuế trên tổng tài sản bình quân; tỷ lệ lợi nhuận trước/sau thuế trên vốn chủ
sở hữu; thu nhập lãi cận biên (NIM); vịng quay lãi phải thu...) và các nhóm chỉ tiêu định tính
(tuân thủ quy định về chế độ tài chính đối với TCTD, chi nhánh ngân hàng...).

789


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Liquidity-Thanh khoản
Yếu tố thanh khoản được sử dụng để đánh giá khả năng chi trả cho các hoạt động của
ngân hàng. Ngân hàng thường giữ lại một phần tài sản của mình dưới dạng tiền mặt để
đáp ứng khả năng rút tiền ồ ạt của khách hàng mà không cần phải thu hồi các khoản cho
vay hay các nguồn vốn khác để tài trợ cho hoạt động của mình (Nguyễn Thị Diễm Hiền
và cộng sự, 2014). Thanh khoản kém làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Đó
cũng chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Nếu ngân
hàng không đáp ứng được khả năng thanh khoản khi khách hàng đến rút tiền, thường dẫn
đến tâm lý lo sợ, nguy cơ khách hàng đổ xô đến rút tiền rất cao, làm giảm hiệu quả hoạt
động của ngân hàng.
Theo Thông tư 52/2018/TT-NHNN ngày 31-12-2018 của NHNN, một số tiêu chí phổ
biến để đánh giá khả năng thanh khoản của ngân hàng gồm: các chỉ tiêu định lượng gồm
tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn, tỷ lệ tài sản có tính
thanh khoản cao bình qn trên tổng tài sản bình quân, tỷ lệ tiền gửi của khách hàng có
số dư tiền gửi lớn so với tổng tiền gửi, tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi... và các
chỉ tiêu định tính như quy định về tuân thủ các văn bản pháp luật về tỷ lệ khả năng chi
trả, tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử

dụng để cho vay trung hạn và dài hạn...
Sensitivity to market risk-Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường
Thị trường tài chính ln biến động không ngừng ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả
hoạt động của ngân hàng. Hầu hết các khoản mục tài sản của ngân hàng đều gắn liền với
các yếu tố lãi suất, tỷ giá, hay giá cả trên thị trường. Trong khi đó, những yếu tố này
khơng ngừng vận động theo những chiều hướng khác nhau báo hiệu khả năng dễ tổn
thương của ngân hàng (Nguyễn Thị Diễm Hiền và cộng sự, 2014).
Theo Thông tư 52/2018/TT-NHNN ngày 31-12-2018 của NHNN, các nhân tố thường
được sử dụng để đánh giá mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường gồm: nhóm các chỉ tiêu
định lượng (tỷ lệ tổng trạng thái ngoại tệ so với vốn tự có riêng lẻ bình quân, tỷ lệ chênh
lệch giữa tài sản nhạy cảm lãi suất và nợ phải trả nhạy cảm lãi suất so với vốn chủ sở
hữu...) và nhóm các chỉ tiêu định tính (tuân thủ giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ theo quy
định của pháp luật, tuân thủ các quy định pháp luật về quản lý rủi ro thị trường...).

790


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

3. Thực trạng hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 20102019 và tác động của đại dịch Covid-19 giai đoạn 2019-2020
3.1. Thực trạng hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Hệ thống NHTM ở Việt Nam tăng lên về số lượng nhanh chóng và đạt đỉnh điểm năm
1996 với 51 ngân hàng (Nguyễn Thị Diễm Hiền & cộng sự, 2014). Theo số liệu của nhóm
tác giả tổng hợp được trên website NHNN, giai đoạn 2010-2019, hệ thống ngân hàng Việt
Nam được chia thành 4 nhóm chính: NHTM Nhà nước (NHTMNN), NHTM 100% vốn
Nhà nước (NHTM100%VNN), NHTM cổ phần (NHTMCP) và NHTM liên doanh
(NHTMLD). Trong đó phần lớn thị phần tài chính tập trung vào 4 NHTMNN là Ngân
hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank); Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

(Vietcombank); Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank);
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV); và 10 NHTMCP là NHTMCP Kỹ
Thương Việt Nam (Techcombank); NHTMCP Quân đội (MBbank); NHTMCP Việt Nam
Thịnh Vượng (VPbank); Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB); Ngân hàng TMCP Tiên
Phong (TPbank); NHTMCP Sài Gịn-Hà Nội; NHTMCP Phát triển TPHCM; NHTMCP
Sài Gịn Thương tín; NHTMCP Quốc tế Việt Nam; NHTMCP Hàng hải Việt Nam,
NHTMCP Sài Gịn.
Chỉ số đánh giá mức độ an tồn vốn (Capital)
Chỉ tiêu về mức độ an toàn vốn thể hiện lượng vốn tự có dành cho hỗ trợ hoạt động kinh
doanh của một ngân hàng. Một ngân hàng càng ưa thích rủi ro đồng nghĩa với địi hỏi
mức vốn tự có cao tương xứng nhằm đảm bảo bù đắp cho những tổn thất tiềm tàng. Vốn
chủ yếu được coi là “tấm đệm” cho những cú sốc từ bên ngoài, hấp thụ đáng kể những
tổn thất trước biểu hiện của rủi ro hoặc sự mất cân đối của nền kinh tế vĩ mô (Mishkin,
2009). Hai chỉ tiêu đại diện cho mức độ an toàn vốn là chỉ số an toàn vốn CAR và chỉ số
Nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu (LIE) để đại diện cho chỉ số mức độ an toàn vốn (Roman &
Sargu, 2013), (Rostami, 2015). Tỷ lệ số LIE tính tốn dựa trên báo cáo tài chính của các
Ngân hàng giai đoạn 2010–2019 biến động theo Hình 2 dưới đây.
Xu hướng tỷ lệ LIE của các NHTM Việt Nam tăng dần trên cả chu kỳ (từ 10,3 lần
năm 2010 lên 14,1 lần năm 2019). Mặc dù vốn cao hơn bình qn nhưng LIE của nhóm
NHTMNN lại cao hơn so với so với trung bình ngành (đặc biệt là 18,1 lần so với 14,7 lần
vào năm 2017). Điều này cho thấy các NHTMNN sử dụng rất nhiều nợ để tài trợ cho hoạt
động của mình. Đồng nghĩa với việc mức lợi tức khổng lồ hằng năm kèm theo là rủi ro
cực lớn. Nhưng từ năm 2018, con số này của các NHTMNN có xu hướng sụt giảm nhanh
chóng (12,9 lần vào 2019). Từ 2018, NHNN siết chặt hơn nữa những quy định về chỉ tiêu
791


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM


an toàn vốn. Điều này buộc các ngân hàng cần giảm thiểu lượng vay nợ đồng thời gia
tăng vốn chủ nhằm đảm bảo duy trì mức rủi ro được NHNN cho phép.
Hình 2. Tỷ lệ Nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu của các NHTM giai đoạn 2010-2019
20
18
16
14
12
10
8
6
4
2
0

NHTMNN
NHTMCP
Bình quân

2010

2011

2012

2013

2014


2015

2016

2017

2018

2019

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của nhóm tác giả, 2021

Một chỉ tiêu quan trọng trong việc xác định mức độ an toàn vốn của các NHTM là chỉ số
an toàn vốn CAR. Chỉ số CAR trung bình của 27 NHTM được nhóm nghiên cứu thống kê là
trên 10% (Hình 3). Phần đơng các NHTM đã đạt yêu cầu về đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn theo
quy định của NHNN (điều chỉnh ở mức 8-9% trong giai đoạn này). Nhưng nhìn chung chỉ
số CAR có dấu hiệu giảm nếu xét từ năm 2010 trở lại đây. Lý do là cùng với xu hướng phát
triển nhanh chóng của nền tài chính 10 năm trở lại đây, tổng tài sản ngân hàng đã gia tăng
nhanh chóng so với tốc độ tăng của vốn tự có. Một giá trị CAR không quá cao cũng chứng
minh sự cải thiện trong khả năng quản trị rủi ro của hệ thống Ngân hàng. Dễ thấy CAR của
nhóm NHTMNN thường tụt thấp so với bình quân ngành và xu hướng tăng nhẹ từ 2018, điều
này phù hợp với mức ưa thích rủi ro rất cao của các NHTMNN.
Hình 3. Hệ số CAR các NHTM giai đoạn 2010-2019
20.00%
15.00%
NHTMNN

10.00%

NHTMCP

Bình quân

5.00%
0.00%

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của nhóm tác giả, 2021

792



HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Chất lượng tài sản (Asset)
Nhóm tác giả lựa chọn tỷ lệ Nợ xấu/Tổng dư nợ (NPL) là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tài
sản trong hoạt động ngân hàng (Phan Thị Hằng Nga, 2013), (Rostami, 2015). Thông
thường, trong trường hợp của một ngân hàng, các khoản vay đại diện cho phần quan trọng
nhất của tài sản, những nhóm nợ xấu của ngân hàng được quy định là nợ nhóm 3, 4 và 5
(Thông tư 03/2013/TT-NHNN ngày 28-1-2013 của NHNN quy định về hoạt động tín
dụng). Tỷ lệ nợ xấu càng cao càng biểu hiện chất lượng tài sản của ngân hàng càng thấp.
Hình 4 mơ tả tình hình nợ xấu của 27 NHTM khảo sát trong giai đoạn 2010-2019.
Hình 4. Tỷ lệ Nợ xấu/Tổng dư nợ các NHTM giai đoạn 2010-2019
3.50%
3.00%

2.50%
2.00%

NHTMNN

1.50%

NHTMCP

1.00%

Bình qn

0.50%

0.00%
2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của nhóm tác giả, 2021

Tỷ lệ NPL trong 10 năm này khá ổn định, dao động ở mức 1,5-2% trong nhiều năm,
duy chỉ năm 2012 tăng cao nhất lên mức 2,93%. Phần lớn các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu
cao tập trung vào nhóm ngân hàng có tính cạnh tranh khơng cao trên thị trường, với quy
mô tổng tài sản và vốn chủ sở hữu nhỏ.
Năng lực quản lý (Management)
Chất lượng quản lý có tầm quan trọng lớn đối với việc sự ổn định của các ngân hàng.
Năng lực quản lý của ngân hàng có thể đo lường thơng qua tỷ lệ Chi phí hoạt động/Tổng

tài sản (OCA) (Roman & Sargu, 2013). Các ngân hàng ln tìm cách giảm thiểu chi phí
vận hành đến mức tối đa trên tổng tài sản có của mình, tức tỷ lệ này càng thấp càng chứng
minh ngân hàng hoạt động có hiệu quả.
Bảng 1 cho thấy mức bình quân tỷ lệ OCA của các NHTM giai đoạn này khoảng trên
1,5%, và giá trị này của các NHTMCP nhìn chung cao hơn của các NHTMNN. Có NHTM
có mức Chi phí hoạt động/Tổng tài sản cao lên đến 5,67% (2011), điều này ảnh hưởng
rất lớn đến hiệu quả hoạt động và giảm thiểu đáng kể tính cạnh tranh về chất lượng dịch
793


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

vụ của ngân hàng, nhất là trong bối cảnh hội nhập. Cấu trúc chi phí trong báo cáo tài
chính của các NHTM cho thấy chi phí lương và các chi phí liên quan đến nhân lực chiếm
trên 50% tổng chi phí hoạt động. Điều này đi ngược lại với xu hướng tồn cầu là sự gia
tăng chi phí dành cho dịch vụ khách hàng, vì khách hàng ngày càng yêu cầu ngân hàng
cung cấp nhiều sản phẩm tài chính với chất lượng và hiệu quả dịch vụ tốt hơn.
Bảng 2. Tỷ lệ Chi phí hoạt động/Tổng tài sản của NHTM giai đoạn 2010-2019
Đơn vị: %

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của nhóm tác giả, 2021

Chỉ số thu nhập và mức độ sinh lời (Earnings)
Chỉ số thu nhập và mức độ sinh lời là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động, đánh giá hiệu
quả kinh doanh và mức độ phát triển của một NHTM. Hiện nay, việc đánh giá mức độ
sinh lời của NHTM thể hiện qua 2 chỉ số cơ bản phổ biến: ROA và ROE (Roman & Sargu,
2013), (Phan Thị Hằng Nga, 2013).
Chỉ tiêu ROA cho phép đánh giá sức mạnh tài chính và hiệu quả của ngân hàng trong

việc sử dụng các nguồn lực của mình. Khi ngân hàng càng có lợi thế tối thiểu chi phí vận
hành, tối đa hóa lợi nhuận trên từng đồng tổng tài sản chứng tỏ bộ máy tài chính hoạt
động càng hiệu quả. Đặc điểm chung của ngành là sử dụng đòn bẩy tài chính lớn nên mặt
bằng chung ROA khá thấp. ROA bình qn dao động trong khoảng 1,5-2,5%, trong đó
ROA của các NHTMNN thấp hơn so với NHTMCP trong cả giai đoạn nghiên cứu (Hình
5). Dễ hiểu bởi NHTMNN với lợi thế lượng vốn lớn từ Nhà nước, càng đẩy mạnh việc
sử dụng đòn bẩy để gia tăng nghiệp vụ cho vay. Các NHTM có ROA các năm thấp
(khoảng 0,6-0,7%) tập trung vào các NHTMCP đã và đang trong quá trình tái cấu trúc
như SCB, NVB. Hai năm 2012-2013 là giai đoạn ROA toàn ngành xuống thấp nhất.
Nguyên nhân được giải thích do hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn sau cuộc
794


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

khủng hoảng tài chính tồn cầu. Hai năm này, lãi suất thị trường được ghi nhận giảm,
nhưng chi phí huy động vẫn rất cao khiến lợi nhuận sụt giảm.
Hình 5. ROA của các NHTM giai đoạn 2010-2019
3.00%
2.50%
2.00%

NHTMNN

1.50%

NHTMCP


1.00%

Bình quân

0.50%
0.00%
2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của nhóm tác giả, 2021

Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu ROE phản ánh khả năng sinh lời của vốn tự có
của ngân hàng, giá trị của chỉ số này phải được diễn giải một cách thận trọng, vì mức cao

có thể nhấn mạnh khả năng sinh lời cao nhưng cũng là mức thấp vốn hóa và ngược lại.
ROE của các NHTM qua các năm tương đối cao, trong đó ROE nhóm NHTMNN cao
hơn hẳn phần cịn lại. Tương tự như ROA, ROE cũng có xu hướng đi xuống trong giai
đoạn 2012 (bình qn cịn 6,91%) đến 2015 (xuống dưới 5%) (Hình 6). Năm 2015, nhiều
NHTM đang trong quá trình tái cấu trúc được nhắc ở trên có ROE xuống đến dưới 1% là
q thấp.
Hình 6. ROE của các NHTM giai đoạn 2010-2019
25.00%

20.00%
15.00%

NHTMNN
NHTMCP

10.00%

Bình quân
5.00%
0.00%
2010

2011

2012

2013

2014


2015

2016

2017

2018

2019

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của nhóm tác giả, 2021

795


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Khả năng thanh toán (Liquidity)
Quản trị rủi ro thanh khoản được coi là vấn đề quản lý quan trọng hàng đầu trong hoạt
động ngân hàng. Một khi một ngân hàng rơi vào thiếu hụt thanh khoản, rất nhanh chóng
kéo theo là sự sụp đổ hàng loạt của hệ thống tài chính. Hai chỉ tiêu để đánh giá khả năng
thanh toán của một ngân hàng là tỷ lệ Tài sản thanh khoản/Tổng tài sản (LIQ) và Tổng
dư nợ cho vay/Tổng tiền gửi (LID) (Roman & Sargu, 2013), (Phan Thị Hằng Nga, 2013).
Giai đoạn 2010-2019, tỷ lệ tài LIQ của toàn ngành rất ổn định trong khoảng 14-15%
(Hình 6). Từ 2010-2012 giá trị này khơng khơng có sự sai biệt đáng kể giữa hai nhóm
NHTMNN và NHTMCP. Từ 2013 trở về đây, nhóm NHTMNN chênh lệch rất rõ rệt, điều
này khẳng định uy tín và đảm bảo thanh khoản cao của các NHTMNN trong mắt cơng chúng.
Hình 7. Tỷ lệ Tài sản thanh khoản/Tổng tài sản các NHTM giai đoạn 2010-2019

45.00%
40.00%
35.00%

NHTMNN

30.00%
25.00%

NHTMCP

20.00%

Bình quân

15.00%

max

10.00%

min

5.00%
0.00%
2010

2011

2012


2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của nhóm tác giả, 2021

Tỷ lệ Tổng dư nợ cho vay/Tổng tiền gửi (LID) phản ánh khả năng chống lại các cú
sốc đối với dòng tiền của các ngân hàng. Khi tỷ lệ dư nợ cho vay cao sẽ ảnh hưởng xấu
đến khả năng thanh toán của các NHTM, dẫn đến nguy cơ sụp đổ hàng loạt khi khách
hàng yêu cầu rút tiền bất ngờ với số lượng lớn. Hình 7 cho thấy tỷ lệ này duy trì ở mức
khá cao (trên 70-80%) trong cả giai đoạn. Việc tập trung vào khoản mục cho vay có thể
tạo ra một tỷ lệ sinh lời lớn hơn so với các khoản mục tài sản khác nhưng đồng thời cũng
hứa hẹn một mức rủi ro lớn, điều này tuân thủ theo quy tắc đánh đổi lợi nhuận - rủi ro.
Có ngân hàng cịn có mức tỷ lệ này trên 100% cho thấy sự mất cân đối trong việc sử dụng
vốn của ngân hàng.

796



HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Hình 8. Tỷ lệ Tổng cho vay/Tổng tiền gửi của các NHTM giai đoạn 2010-2019
180.00%
160.00%
140.00%
120.00%

NHTMNN

100.00%

NHTMCP

80.00%

Bình qn

60.00%

max

40.00%

min

20.00%
0.00%

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của nhóm tác giả, 2021

Rủi ro thị trường (Sensitivity)
Nếu một ngân hàng có nhiều tài sản nhạy cảm với lãi suất hơn là nợ phải trả và lãi suất
tăng, biên lãi ròng của ngân hàng sẽ cải thiện; ngược lại nếu lãi suất giảm, biên lãi ròng
của ngân hàng sẽ giảm xuống (Hays và cộng sự, 2009). Các ngân hàng chịu sự thay đổi
bất thường của lãi suất, theo đó dấu của tỷ lệ này phụ thuộc vào chiều tăng giảm của mức
lãi suất thị trường.
Hình 9. Tỷ lệ Tài sản nhạy cảm lãi suất/Nợ nhạy cảm lãi suất của các NHTM giai
đoạn 2010-2019

1.60
1.40
1.20

NHTMNN

1.00

NHTMCP

0.80

Bình qn

0.60

max

0.40

min

0.20
0.00
2010

2011

2012


2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của nhóm tác giả, 2021

797


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Hệ số nhạy cảm lãi suất của các NHTM bình quân qua các năm đều duy trì mức lớn
hơn 1 (Hình 8). Tức là về mặt lý thuyết, NHTM sẽ có lợi nếu lãi suất thị trường tăng cao,
khiến chi phí trả lãi thấp hơn lợi nhuận từ lãi.
3.2. Tác động của đại dịch Covid-19 giai đoạn 2019-2020
Thứ nhất, đại dịch Covid-19 khiến hoạt động huy động vốn của các ngân hàng trở nên
khó khăn hơn bao giờ hết và hoạt động cho vay giảm khi cầu tín dụng giảm. Số lượng
các món vay giảm khiến lượng tài sản có rủi ro trong hệ thống NHTM giảm theo, đồng

thời xu hướng nợ xấu gia tăng đáng kể. Một số ngân hàng tăng tốc phát hành trái phiếu
để thu hút thêm vốn trong thời điểm dịch bệnh (Anh Khoa, 2020). Với các loại trái phiếu
phát hành có kỳ hạn lớn hơn 5 năm sẽ đủ điều kiện để tính vào vốn cấp 2, giúp vốn tự có
của các ngân hàng tăng lên và cải thiện hệ số an toàn vốn. Điều này giải thích thực trạng
chỉ tiêu CAR của nhóm NHTMNN nửa đầu 2020 có sự tăng nhẹ so với trung bình 10
năm trước. Trái ngược với các NHTMNN, CAR của các NHTMCP có xu hướng giảm
trong thời kỳ dịch bệnh.
Bảng 3: Tỷ lệ CAR

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của nhóm tác giả, 2021

Thứ hai, khảo sát tại 27 ngân hàng, đến năm 2020, do kinh tế chịu ảnh hưởng sâu
rộng từ dịch Covid-19, báo cáo nửa đầu năm của một số ngân hàng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu
(NPL) tăng 2 chữ số. NPL trong nửa đầu 2020 cũng vì vậy tăng cao, chất lượng tài sản
có của hệ thống ngân hàng xuống thấp, làm giảm tính ổn định trong hoạt động của cả hệ
thống NHTM.
Thứ ba, các chỉ tiêu lợi nhuận ROA, ROE nửa đầu năm 2020 của ngân hàng ghi nhận
mức giảm rất nhẹ cho dù chịu tác động của dịch bệnh. Cơ cấu nợ xấu tăng cao khiến chi
phí dự phịng rủi ro tín dụng của ngân hàng cũng tăng, lãi dự thu thấp bởi chính sách giãn
nợ, hỗ trợ san sẻ khó khăn với khách hàng thời kỳ Covid. Khơng chỉ vậy, nguồn thu phí
cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi mọi giao dịch trong nền kinh tế bị chậm lại. Phần lớn
doanh thu của ngân hàng được cải thiện nhờ các dịch vụ tài chính phi tín dụng. Để thích
ứng với tình hình mới, các ngân hàng đang có những chuyển hướng mạnh mẽ trong cơ
cấu hoạt động bằng việc đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ.

798


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA


ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Bảng 4: Chỉ tiêu lợi nhuận ROA, ROE

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của nhóm tác giả, 2021

Thứ tư, tỷ lệ Tài sản thanh khoản/Tổng tài sản (LIQ) của nhóm NNHTMNN tuy có
điều chỉnh giảm nhẹ trong thời kỳ Covid, song vẫn ở mức cao hơn hẳn so với các
NHTMCP. Chứng tỏ các NHTMNN luôn đảm bảo mức thanh khoản tốt nhất cho nền
kinh tế dù trước nguy cơ về nhu cầu tiền mặt thường tăng lên do người dân muốn tìm
kiếm phương tiện thanh tốn ổn định trong giai đoạn bất ổn và khó khăn của nền kinh tế.
Điều này trái ngược với các NHTMCP với khả năng quản trị rủi ro hoạt động bị đánh giá
thấp hơn.
Bảng 5: Tỷ lệ Tài sản thanh khoản/Tổng tài sản

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của nhóm tác giả, 2021

4. Một số kiến nghị
Thứ nhất, NHTM cần đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn Basel II. Để thực
hiện điều này, yêu cầu ngân hàng cần chú trọng xây dựng chính sách hợp lý, cân đối
trong thao tác phân phối kết quả kinh doanh của ngân hàng, giữa việc chi trả cổ tức cho
cổ đông và giữ lại phần lợi nhuận hợp lý để tăng quy mô vốn chủ sở hữu. Lượng vốn tái
đầu tư từ lợi nhuận giữ lại này là nguồn có chi phí sử dụng thấp nhất, song nếu phân bố
khơng hợp lý có thể gây ảnh hưởng đến lợi ích, quyền lợi của các cổ đơng. Các hoạt động
mua bán và sáp nhập giữa các ngân hàng cũng cần được tăng cường, tạo ra nhiều ngân
hàng có quy mơ vốn lớn hơn, chuyển hướng tập trung thị phần sang các Ngân hàng ngoài
vốn Nhà nước khác. Đồng thời, tái cơ cấu chức năng của NHTM theo định hướng: tách
bạch chức năng của một ngân hàng đầu tư, chuyên hoạt động cho vay những khoản vay
trung và dài hạn, với chức năng NHTM là tập trung vào khoản vay tiêu dùng có kỳ hạn
ngắn hơn. Tách biệt như vậy có tác dụng đề phịng tình trạng tích tụ rủi ro tín dụng quá

cao, dẫn đến khủng hoảng đổ vỡ ngân hàng như nhiều quốc gia trên thế giới.

799


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Thứ hai, các NHTM cần chuẩn hóa q trình đánh giá nợ xấu và đưa ra những biện
pháp can thiệp cụ thể, như thực hiện rao bán các khoản nợ này hay thanh lý tài sản. NHTM
nên tìm cách gia tăng chất lượng của các khoản cho vay thay vì tăng cường số lượng các
khoản cho vay. Hạn chế tín dụng tăng trưởng quá nóng và củng cố các biện pháp giải
quyết vấn đề nợ xấu một cách triệt để. Thực hiện các chiến lược hỗ trợ khách hàng bị ảnh
hưởng bởi dịch bệnh như các chính sách ưu đãi tín dụng, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn
giảm các khoản lãi vay, cho vay với mức lãi suất thấp, cắt giảm chi phí hoạt động, nâng
cao các khoản thu nhập ngồi lãi. Đưa ra phương hướng phịng ngừa và các mức dự phòng
rủi ro đối với việc các khoản nợ xấu tăng lên.
Thứ ba, nhà quản trị của mỗi NHTM cũng cần nâng cao khả năng quản lý hoạt động kinh
doanh. Theo kết quả kiểm định sử dụng đòn bẩy tài chính là yếu tố làm tăng tỷ suất sinh lời
trên tài sản và trên vốn chủ sở hữu. Việc sử dụng địn bẩy tài chính có tính hai mặt, nếu địn
bẩy khơng đủ mạnh để dự phịng cho rủi ro ước tính trước đó, sẽ làm giảm tính thanh khoản,
thậm chí đẩy ngân hàng đến trường hợp mất khả năng thanh tốn, dẫn đến sự sụp đổ của
khơng chỉ một mà thậm chí là cả hệ thống ngân hàng. Theo kinh nghiệm của các nước trên
thế giới, các ngân hàng hiện đại muốn duy trì được hệ thống hạ tầng cơ sở và ứng dụng công
nghệ thông tin để phục vụ cho các hoạt động của mình thì hàng năm họ phải đầu tư vào công
nghệ từ 3-5% tổng doanh thu hoạt động (Phan Thị Hằng Nga, 2013).
Thứ tư, việc đa dạng hóa nguồn thu nhập và đa dạng hóa phân bổ tài sản giúp tăng
cường khả năng sinh lợi của các NHTM tại Việt Nam. Các ngân hàng nên tăng cường
hoạt động ngoại bảng nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình và do đó giảm được

chi phí giám sát tốn kém cho các khoản mục nợ khó địi. Nhận định này càng được củng
cố sau biến cố đại dịch Covid-19. Ngân hàng cần chú trọng cả cung cấp và phát triển các
sản phẩm và dịch vụ online như Internet Banking, gửi tiền tiết kiệm qua app… Bên cạnh
việc cung cấp nhiều sản phẩm online thay thế cho các sản phẩm truyền thống, các NHTM
vẫn phải đảm bảo được chất lượng dịch vụ, an toàn cho khách hàng.
Tài liệu tham khảo
Anh Khoa (2020), Huy động vốn khó, ngân hàng tích cực phát hành trái phiếu, Tạp chí tài chính,
truy nhập ngày 10 tháng 4 năm 2021 tại < />Cargili, T. C. (1989), CAMEL Ratings and the CD Market, Journal of Financial Services
Research, 3, 347-358.
Dincer, H., Gencer, G. & Orhan, N. (2011), A Performance Evaluation of the Turkish Banking
Sector after the Global Crisis via CAMELS Ratios, Procedia - Social and Behavioral
Sciences, 24, 1530-1545.

800


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Gasbarro, D. & Sadguna, G. M., Zumwalt, J. K. (2002), The Changing Relationship Between
CAMEL Ratings and Bank Soundness during the Indonesian Banking Crisis, Review of
Quantitative Finance and Accounting, 19, 247–260.
Georgios, K. & Elvis, K. (2019), Bank Value using Camels Model Evidence from Balkans
Banking System, International Research Journal of Finance and Economics, 176, 182-195.
Gier, W. A. (2007), Credit Analysis Of Financial Institutions, Euromoney Institutional Investor
PLC, 2nd edition.
Federal Deposit Insurance Corporation (FDIC) and Board of Governors of the Federal Reserve
System (Fed) (2019), Uniform Financial Institutions Rating System, Federal Register truy
nhập ngày 1 tháng 3 năm 2021 < />Hays, F. H., Lurgio, S. A. & Gilbert, A. H. (2009), Efficiency Ratios and Community Bank

Performance, Journal of Finance and Accountancy, 1(1), 1-15.
Hoque, R. & Rayhan, I. (2013), Efficiency Measurement on Banking Sector in Bangladesh,
Dhaka University Journal of Science, 61(1), 1-5.
Mishkin, F. S. (2009), Economics of Money, Banking, and Financial Markets, Addison Wesley;
2nd edition.
NHNN (2013), Thông tư 03/2013/TT-NHNN ngày 28/1/2013 của NHNN quy định về hoạt động
tín dụng của NHNN Việt Nam.
NHNN (2018), Thơng tư số 52/2018/TT-NHNN ngày 31/12/2018 của NHNN quy định xếp hạng
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngồi.
Nguyễn Ngọc Tú (2018), Ứng dụng mơ hình camels trong đánh giá hiệu quả kinh doanh tại ngân
hàng TMCP Công Thương Việt Nam chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ,
Trường ĐH Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Diễm Hiền, Trần Thanh Vũ & Nguyễn Thị Ngọc Chung (2014), Áp dụng hệ thống
xếp hạng CAMELS đánh giá hiện trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam giai đoạn 20082012, Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật, 6, 34-45.
Phan Thị Hằng Nga (2013), Năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh
tế, Trường ĐH Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh.
Roman, A. & Sargu, A. C. (2013), The impact of bank-specific factors on the commercial banks
liquidity: empirical evidence from CEE countries, Procedia Economics and Finance, 20, 571-579.
Rostami, H. (2015), Determination of Camels model on bank's performance, International

Journal of Multidisciplinary Research and Development, 2 (10), 652-664.

801



×