Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

BÀI GIẢNG CHUYÊN đề xây DỰNG CHẾ độ dân CHỦ xã hội CHỦ NGHĨA và hệ THỐNG CHÍNH TRỊ XHCN ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.04 KB, 31 trang )

XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA

I. CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XHCN

1. Bản chất, đặc điểm, nội dung của chế độ dân chủ XHCN
Các học giả tư sản quan niệm rằng, đã là dân chủ thì phải tư nhân hoá về
kinh tế; tự do hoá về tư tưởng; đa ngun hố về chính trị; cơng khai hố về
xã hội...Bốn cái "hố" đó thực chất cũng để bảo vệ, duy chì bảo vệ CNTB và
chống phá CNXH, xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận dân chủ XHCN.
- Khái niệm:
+"Dân chủ". Nghiên cứu theo góc độ chính trị - xã hội, thì dân chủ là
"quyền lực thuộc về nhân dân", là quyền tự do và bình đẳng về quyền lực của
nhân dân trong đời sống xã hội và quan hệ xã hội. Khi đó nói về dân chủ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói một cách dễ hiểu: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị
cao nhất là dân, vì dân là chủ" 1.
Dân chủ phản ánh mối quan hệ giai cấp, quan hệ cơng dân theo ngun
tắc bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật, mang giá trị xã hội
sâu sắc. Dân chủ là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, là thành quả đấu tranh
của nhân dân. Là một quan hệ xã hội nên dân chủ cũng như các quan hệ xã
hội khác, chịu sự quy định của phương thức sản xuất xã hội, bản chất kinh tế,
chính trị của một chế độ xã hội và giai cấp nhất định.
Dân chủ là một phạm trù lịch sử. Dân chủ ln mang tính giai cấp,
khơng có dân chủ chung chung phi giai cấp, dân chủ gắn với chuyên chính,
gắn với quyền lực giai cấp, gắn với sự lãnh đạo của một chính đảng, sự quản
lý của một nhà nước nhất định.
Các thời đại khác nhau, các chế độ xã hội khác nhau, có sự khác nhau về
bản chất, trình độ dân chủ. Dân chủ chịu sự qui định của tính chất, trình độ
phát triển kinh tế, văn hố, xã hội, dân trí, thơng tin, đặc điểm dân tộc...
"Chế độ dân chủ" : là toàn bộ những thể chế, thiết chế cơ chế chính trị
thể hiện và bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, các quyền tự do bình đẳng


của nhân dân trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong tác phẩm "Nhà nước
1

Hồ Chí Minh với các LLVTND, Nxb QĐND, 1975, Tr. 177.


và cách mạng", V.I.Lênin viết: "Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước,
một trong những hình thái của nhà nước, cho nên cũng như mọi nhà nước, chế
độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng chế đối với
người ta; một mặt là như thế. Nhưng mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là
chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa những cơng dân, thừa nhận cho
mọi người có quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản
lý nhà nước" 1
+ "Chế độ dân chủ XHCN" - là tồn bộ những thể chế, thiết chế chính trị
- xã hội XHCN, thể hiện và bảo đảm quyền lực xã hội thuộc về giai cấp công
nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua hệ thống
chính trị XHCN và làm chủ trực tiếp của nhân dân theo những qui định của
pháp luật XHCN.
- Bản chất của chế độ dân chủ XHCN.
Từ những khái niệm về dân chủ XHCN và chế độ dân chủ XHCN, có thể
rút ra bản chất của chế độ dân chủ XHCN là "Quyền làm chủ thực tế trên mọi
lĩnh vực xã hội của nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
và thông qua sự quản lý của nhà nước XHCN". Chế độ dân chủ XHCN là chế
độ do nhân dân lao động làm chủ. Cơ sở khách quan qui định bản chất chế độ
dân chủ XHCN là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và bản chất chính trị xã hội của giai cấp công nhân.
Dân chủ phải gắn liền với chế độ nhà nước, nhà nước XHCN là nhà
nước của dân, do dân và vì dân, là cơng cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân.
Chế độ dân chủ XHCN là nền dân chủ thực sự chứ không phải là dân
chủ hình thức, nó hồn tồn đối lập với dân chủ cực đoan, vơ chính phủ, với

chun quyền độc đốn.
Giữa chế độ dân chủ XHCN và chun chính vơ sản có mối quan hệ bản
chất - quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính, phản ánh bản chất chính trị của
CNXH: "nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
(thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản), bằng sự quản lý của nhà
nước XHCN".
- Đặc điểm của chế độ dân chủ XHCN.
1

V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, M. 1976, Tr. 123.


Nghiên cứu những đặc điểm của chế độ dân chủ XHCN là cơ sở để phân
biệt sự khác nhau căn bản giữa chế độ dân chủ XHCN với các chế độ dân chủ
khác và thấy hết được tính ưu việt của chế độ dân chủ XHCN. Những đặc
điểm của chế độ dân chủ XHCN được thể hiện:
+ Chủ thể của chế độ dân chủ XHCN là đại đa số nhân dân lao động nó
khác với chế độ dân chủ tư sản là chế độ dân chủ của thiểu số giai cấp tư sản
bóc lột. Dưới chế độ dân chủ XHCN, thì giải phóng con người và đáp ứng
nhu cầu, lợi ích của nhân dân là mục tiêu phấn đấu của Đảng cộng sản và nhà
nước XHCN. Toàn bộ hoạt động của Đảng cộng sản và nhà nước XHCN đều
vì nhân dân lao động người trực tiếp tham gia vào công tác quản lý xã hội
quản lý Nhà nước. Đưa nhân dân lao động trở thành người làm chủ xã hội là
yêu cầu cao nhất của dân chủ XHCN.
+ Dưới chế độ dân chủ XHCN thì quyền lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và
trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ gắn bó chặt chẽ với nhau.
+ Dưới chế độ dân chủ XHCN thì mọi quyền của cơng dân được bảo
đảm bằng kinh tế, chính trị, tổ chức và pháp luật. Cịn các chế độ dân chủ
khác thì ngược lại, giai cấp bóc lột đã dùng sức mạnh của kinh tế, chính trị, tổ
chức, pháp luật để tước quyền của những người lao động.

+ Dân chủ XHCN là một chế độ dân chủ của hành động tích cực cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới của nhân dân lao động và có tính chất cách mạng.
+ Chế độ dân chủ XHCN là sự phủ định biện chứng chế độ dân chủ tư
sản. Dân chủ XHCN hình thành, phát triển, hồn thiện trên cơ sở kế thừa
những giá trị của nền văn minh nhân loại và phát huy những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc.
+ Chế độ dân chủ XHCN ngày càng được hoàn thiện và phát huy gắn
liền với sự phát triển xã hội XHCN.
Chính từ bản chất, đặc điểm của chế độ dân chủ XHCN như trên, khi so
sánh với chế độ dân chủ tư sản, Lênin đã ví "dân chủ vô sản gấp triệu lần hơn
dân chủ tư sản". Ở Việt Nam còn thể hiện một số đặc điểm nổi bật như: Sự
hình thành và phát triển dân chủ chưa qua dân chủ tư sản; dân chủ ở nước ta
là bản chất của chế độ mới, trong đó nhân dân lao động là người làm chủ đất
nước, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; dân chủ gắn với cơng bằng xã hội,
gắn với xố bỏ áp bức bất cơng; dân chủ được thực hiện bằng nhiều hình thức
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và được pháp luật bảo đảm; dân chủ gắn


với kỷ cương, kỷ luật, pháp chế, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước
và lịch sử truyền thống của dân tộc.
- Những nội dung cơ bản của chế độ dân chủ XHCN.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong các văn kiện nghị quyết của Đảng ta, nội dung của dân chủ
XHCN được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Trong lĩnh vực kinh tế, đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định nhất. Mục
đích của CNXH là chăm lo, bảo đảm lợi ích của người lao động. Do đó, nhân
dân lao động là người làm chủ trong phát triển lực lượng sản xuất, trong phát
triển và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN. Vấn đề cơ bản trong dân chủ trên
lĩnh vực kinh tế là đảm bảo lợi ích kinh tế chính đáng của mỗi công dân, tổ
chức kinh tế xã hội, các chủ thể kinh tế và Nhà nước trong các quan hệ kinh

tế. Theo quy định của pháp luật, mọi công dân có quyền sản xuất, kinh doanh,
tham gia các tổ chức kinh tế, bảo hộ về tài sản, hưởng thụ các thành quả lao
động của mình, đồng thời làm trịn mọi nghĩa vụ kinh tế và chấp hành pháp
luật kinh tế của Nhà nước, đấu tranh phòng chống các tội phạm kinh tế, góp
phần phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước và nâng cao chất lượng cuộc
sống của mình.
+ Trong lĩnh vực chính trị. Tập trung thực hiện các quyền và nghĩa vụ
công dân trong hoạt động chính trị như : quyền và nghĩa vụ cơng dân trong
bầu cử và ứng cử các cơ quan dân chủ; quyền bình đẳng trước pháp luật, được
pháp luật bảo vệ, quyền tham gia các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp;
quyền kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ quan Đảng, nhà nước; quyền
tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến vào các chủ trương, chính sách, tham gia
xây dựng pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, quyền và nghĩa vụ bảo
vệ Tổ quốc, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc ...
+ Trong lĩnh vực văn hoá, tinh thần thể hiện như : quyền có việc làm,
nghĩa vụ lao động; quyền hưởng các phúc lợi công cộng; quyền được khám
chữa bệnh; q
uyền được nghỉ ngơi, cư trú, bảo vệ sức khoẻ; quyền bình
đẳng dân tộc, tôn giáo, nam nữ; nghĩa vụ tôn trọng các quy tắc chuẩn mực xã
hội, bảo vệ tài nguyên môi trường, đấu tranh chống các tệ nạn tiêu cực xã
hội...
Ở nước ta, cùng với quá trình xây dựng CNXH, Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đã từng bước tạo được cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của chế độ dân


chủ XHCN; quyền lực xã hội của nhân dân được xác định trong Hiến pháp và
pháp luật; nhu cầu dân chủ của nhân dân ngày càng phát triển; ý thức và năng
lực thực hành dân chủ của nhân dân ngày càng được nâng cao...
Bên cạnh những mặt mạnh trên trong đời sống dân chủ xã hội còn tồn tại
một số hạn chế như: cịn biểu hiện dân chủ hình thức trên một số lĩnh vực,

hiện tượng vi phạm dân chủ, vi phạm công bằng xã hội quan liêu, chuyên
quyền, độc đốn; dân chủ cực đoan, vơ chính phủ... chậm được khắc phục...
Những hiện tượng trên là do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước còn thấp, của cơ chế quản lý cũ; vai trò, chức năng của các thành tố
trong hệ thống chính trị chưa thực sự phát huy; tệ nạn quan liệu, tham nhũng
chưa được ngăn chặn; trình độ văn hố dân chủ của nhân dân còn thấp...
Trên đây là những nội dung cơ bản, phản ánh bản chất ưu việt của chế độ
dân chủ XHCN mà chúng ta đang xây dựng. Những nội dung đó khơng thể
hiện một cách đầy đủ trong một thời gian ngắn, mà là một quá trình lâu dài,
phức tạp, không phải chỉ trên lĩnh vực đấu tranh ý thức tư tưởng mà là cuộc
đấu tranh giai cấp thực sự trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Xây dựng chế độ
dân chủ XHCN phải là sự nghiệp của tồn Đảng, tồn dân, của các ngành các
cấp chứ khơng chỉ phó thác cho các tổ chức cơ quan nghiệp vụ chun mơn
nào; Đồng thời, nó phải được thực hiện bằng một hệ thống các giải pháp
mang tính tồn diện và đồng bộ.
2. Phương hướng và biện pháp xây dựng chế độ dân chủ XHCN trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
Xuất phát từ bản chất của chế độ dân chủ XHCN, đặc biệt là từ đặc điểm
đi lên CNXH ở nước ta, cần tập trung vào một số phương hướng và biện pháp
chủ yếu sau đây.
Một là, đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị XHCN.
Đây là vấn đề cơ bản, có ý nghĩa quyết định trước tiên để xây dựng chế
độ dân chủ XHCN trong thời kỳ quá độc lên CNXH ở nước ta. Điều này,
trong Cương lĩnh 1991 của Đảng đã xác định: "Thực chất của việc đổi mới và
kiện tồn hệ thống chính trị nước ta là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân" 1 .
Hai là, nâng cao trình độ văn hoá dân chủ trong nhân dân.
1

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb ST, H, 1991, Tr 19.



Đây là vấn đề quan trọng, bởi nước ta đi lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN, tức là chưa qua chế độ dân chủ tư sản, do đó trình độ dân chủ của
nhân dân rất thấp. Cho nên việc bồi dưỡng ý thức, kiến thức về dân chủ, năng
lực thực hành dân chủ, nhân cách dân chủ cho nhân dân là vấn đề khơng thể
thiếu đối với q trình xây dựng chế độ dân chủ XHCN trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta.
Ba là, tạo mọi điều kiện để "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra",
thực hiện tốt qui chế dân chủ ở mọi cấp, mọi ngành, nhất là ở cơ sở.
Quyền lực xã hội và trình độ dân chủ của nhân dân phụ thuộc vào thực
hiện phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đối với mọi chủ
trương, chính sách lớn của Đảng và nhà nước. Để thực hiện phương châm đó,
cần tạo những điều kiện vừa cơ bản, vừa thiết thực như: điều kiện về pháp
luật, điều kiện văn hoá, giáo dục; điều kiện thông tin; điều kiện về tổ chức,
trong đó quan tâm đến việc tổ chức lắng nghe, lấy ý kiến của nhân dân; thành
lập, kiện toàn, củng cố hệ thống kiểm tra và thanh tra; kiện toàn hệ thống toà
án, viện kiểm sát... Đặc biệt, phải hoàn thiện và thực hiện tốt các qui chế dân
chủ, bồi dưỡng giáo dục cán bộ, công chức ý thức tôn trọng quyền dân chủ
của nhân dân, thực hiện đúng quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật, kỷ
luật.
Bốn là, xây dựng và hoàn thệin hệ thống pháp luật, pháp chế XHCN.
Đây là vấn đề rất cơ bản để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân và
thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Tư tưởng nhất quán của Đảng ta là :
Quyền làm chủ của nhân dân phải được cụ thể hố bằng pháp luật, thực hiện
mọi cơng dân sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật, tôn trọng kỷ luật,
kỷ cương xã hội.
Chính hệ thống pháp luật là cơ sở cho sự phát huy dân chủ, là sự thể chế
hoá, cụ thể hoá nội dung dân chủ, thông qua luật mà dân chủ đi vào cuộc sống
đồng thời pháp luật là cộng cụ sắc bén bảo vệ dân chủ. Ngược lại, trình độ

dân chủ càng cao thì pháp luật càng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế.
Do đó, trước mắt cần tập trung: xây dựng các luật, văn bản dưới luật một cách
toàn diện và cụ thể; đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngành luật; chấn
chỉnh hệ thống tổ chức và cơ quan thi hành luật; kiểm tra và xử lý nghiêm
minh các hành vi vi phạm pháp luật.
Năm là, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.


Dân chủ XHCN được phát huy trên cơ sở thành tựu của CNXH, trong đó
thành tựu về phát triển sản xuất, về trình độ kinh tế là yếu tố cơ bản. Phát
triển sản xuất, nâng cao trình độ kinh tế là cơ sở, tiền đề vật chất để phát huy
dân chủ. Sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội đáp ứng ngày càng cao nhu cầu
vật chất, tinh thần của nhân dân, đảm bảo quyền dân chủ trên thực tế của
nhân dân.
Sáu là, kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, chủ nghĩa
quan liêu, đặc quyền đặc lợi, tham nhũng.
+ Chống những quan điểm sai trái như dân chủ phi giai cấp, địi dân chủ
vơ hạn độ, dân chủ cực đoan, dân chủ vô nguyên tắc, dân chủ không gắn với
phát triển kinh tế, không gắn với chuyên chính; dân chủ tách rời giữa quyền
lợi và nghĩa vụ, nặng đòi hỏi quyền lợi, coi nhẹ kỷ cương pháp luật; lợi dụng
dân chủ để chống phá CNXH...
+ Kiên quyết chống chủ nghĩa quan liêu, đặc quyền đặc lợi, tham nhũng.
Chủ nghĩa quan liêu, đặc quyền, đặc lợi, tham ô, tham nhũng đang là nguy cơ
lớn đe doạ đến sự tồn vong của đất nước; trái với bản chất của CNXH; đang
là lực cản hữu hình đối với cách mạng, đối với thực hiện dân chủ ở nước ta
hiện nay. Điều này, trong Văn kiện Đại hội IX đã chỉ rõ: "Tình trạng tham
nhũng và suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lịng tin trong nhân
dân" 1. Có thể nói "tham ơ, tham nhũng" khơng chỉ là lực cản mà cịn là kẻ thù

của q trình phát huy, mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay.
Để chống chủ nghĩa quan liêu, đặc quyền đặc lợi, tham ô, tham nhũng,
trước mắt cần tập trung trên một số phương diện như: chống ngay trong cả ý
thức lẫn tác phong, lề thói làm việc; kiên quyết xố bỏ điều kiện kinh tế - xã
hội làm nảy sinh ra chúng, đây là điều kiện cơ bản nhất; phải hướng về các
đối tượng có liên quan trực tiếp, cụ thể là : đổi mới cơ chế quản lý, kiện toàn
bộ máy nhà nước, cải cách nền hành chính; đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất. Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết
ĐH IX: "Tăng cường tổ chức và cơ chế tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh
chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và tồn bộ hệ thống chính trị ở các
cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở " 2 và "Đẩy mạnh cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, quan liêu, làm trong sạch đội ngũ đảng viên" 3 .
1 ,2 , 3

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, Tr. 15, 135, 140


II. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XHCN

1.1. Khái niệm hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị (HTCT) là một thuật ngữ mới xuất hiện trong những
năm 70 của thế kỷ XX ở Liên Xô (trước đây); hiện nay được dùng nhiều ở
nước ta và trên thế giới.
Các nhà kinh điển Mác- Lênin trong các trước tác của mình chưa dùng
thuật ngữ này. Khi phân tích thiết chế quyền lực của CNTB, C.Mác và
Ph.Ăng ghen thường sử dụng khái niệm "Hệ thống hành chính quan liêu";
"Hệ thống hành chính cai trị"; cịn quan niệm của các ông gần với quan niệm
HTCT mà chúng ta dùng hiệu nay là khái niệm "Hình thức chính trị" "hình
thức dân chủ", "hình thức chun chính", "cơ cấu nhà nước" "cơ cấu chính
quyền" "kết cấu chính trị của xã hội"...

Như vậy, HTCT là một khái niệm hiện đại. "Bách khoa từ điển Xô viết"
định nghĩa HTCT: "là một hệ thống các nhân tố bao gồm Nhà nước, các đảng
phái, cơng đồn, các tổ chức tơn giáo, các tổ chức và phong trào theo đuổi
những mục đích chính trị, các chuẩn mực và truyền thống"(1).
Cuốn "Tìm hiểu một số khái niệm trong dự thảo cương lĩnh" khái quát:
"HTCT là hệ thống các tổ chức, các thiết chế chính trị - xã hội và các mối
quan hệ giữa chúng với nhau, hợp thành cơ chế chính trị của một chế độ xã
hội, cơ chế đó đảm bảo việc thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống
trị trong quan hệ với các giai cấp, tầng lớp và nhóm xã hội khác" (2).
Sách giáo khoa chủ nghĩa xã hội khoa học, chương trình cao cấp, Học
viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nêu: "Hệ thống chính trị là một phạm trù
dùng để chỉ một chỉnh thể các đảng phái, các đồn thể, các tổ chức chính trị xã hội tồn tại trong khuôn khổ pháp luật, với một nhà nước thuộc giai cấp
cầm quyền để tác động vào các quá trình xã hội nhằm duy trì và phát triển xã
hội đó" (3)
Qua đó có thể thấy, HTCT gồm hai yếu tố.
Một là, hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội như các đảng phái chính
trị, Nhà nước, các đồn thể chính trị - xã hội khác theo đuổi mục đích chính
trị và được pháp luật thừa nhận.
(1)

Bách khoa từ điển Xơ viết, Matxcova, 1993, Tr. 1026.
2)
Tìm hiểu một số khái niệm trong dự thảo cương lĩnh, Nxb Tư tưởng - văn hoá, HN, 1991, Tr.85.
(3)
CNXHKH. Chương trình cao cấp, Nxb CTQG, H, 1994, Tr.221.
(


Hai là, các thiết chế, cơ chế quy định các mối quan hệ giữa các tổ chức
hợp thành HTCT phù hợp với vị trí, chức năng của nó và của cả HTCT với

tính cách là hệ thống quyền lực xã hội.
Xem xét dưới góc độ vật chất và tinh thần thì HTCT bao gồm hai mặt:
mặt tổ chức chính trị và mặt tư tưởng chính trị.
- Về tổ chức chính trị: Trước hết đó là Nhà nước, đây là cơng cụ quyền
lực tập trung của giai cấp cầm quyền. Quyền lực chính trị của giai cấp và
quyền lực xã hội được biểu hiện dưới hình thức quyền lực Nhà nước.
Thứ hai, là các tổ chức chính trị - xã hội; các đảng chính trị, các đồn thể
chính trị - xã hội hoạt động hợp pháp. Trong đó đảng cầm quyền là lực lượng
chính trị có vai trị chủ đạo, quyết định và chi phối tới các chính sách đối nội,
đối ngoại của Nhà nước đó.
Tuy nhiên HTCT khơng phải là sự cộng lại giản đơn các tổ chức chính trị xã hội, mà nó là một chỉnh thể thống nhất, một hệ thống có mối quan hệ chặt
chẽ, thể hiện quyền lực của một chế độ xã hội, một quốc gia. Cho nên, bên cạnh
mỗi tổ chức chính trị - xã hội có chức năng, phương thức tổ chức và hoạt động
riêng, thì tồn bộ hệ thống phải xác lập được những thiết chế, cơ chế giải quyết
mối quan hệ giữa các thành tố cấu thành HTCT và của cả HTCT với toàn xã hội,
bảo đảm cho HTCT vận hành thơng suốt, nhịp nhàng và có hiệu quả.
- Về tư tưởng chính trị: Đó là các quan điểm tư tưởng, chính trị, chuẩn
mực chính trị, truyền thống chính trị, các động lực tinh thần thúc đẩy ý thức
và hoạt động chính trị của các tầng lớp xã hội. Trong đó, đường lối, quan
điểm chính trị của đảng cầm quyền giữ vai trị định hướng chính trị và chi
phối đời sống chính trị của xã hội.
Mỗi chế độ xã hội có một có một kiểu HTCT của mình (ví dụ HTCT tư
sản, HTCT xã hội chủ nghĩa ). Điều đó bắt nguồn từ cơ sở kinh tế và cơ sở
giai cấp - xã hội của nó. Đồng thời, HTCT của xã hội đó phản ánh lợi ích giai
cấp mà nó đại diện, là cơng cụ thể hiện ý chí, nhu cầu và bảo vệ cho cơ sở
kinh tế, và chính trị - giai cấp của HTCT ấy.
- Mỗi HTCT được hình thành, tồn tại và biến đổi gắn liền với một quốc
gia dân tộc nhất định trong điều kiện lịch sử - cụ thể. Do đó khi nghiên cứu
HTCT của một nước cần phải chú ý đến các đặc điểm, tình hình kinh tế, chính
trị, văn hố, xã hội của quốc gia đó trong một giai đoạn lịch sử nhất định.



Trong HTCT của một chế độ xã hội, một quốc gia, thì hệ thống chun
chính của giai cấp cầm quyền tạo ra là bộ phận cốt lõi và bao trùm. Dưới
CNTB đó là nền chun chính tư sản. Trong CNXH đó là nền chun chính
cách mạng của giai cấp cơng nhân. Nền chuyên chính giai cấp này được tạo
nên từ đảng chính trị của giai cấp cầm quyền, từ các cơ quan bộ máy Nhà
nước, các đồn thể chính trị - xã hội do giai cấp đó tạo ra, bảo đảm cho sự
thống trị của giai cấp đó được vững chắc, và định hướng sự vận động xã hội
phù hợp với nhu cầu và lợi ích cơ bản của giai cấp đó. Tuy nhiên, điều đó cịn
tuỳ thuộc ở chỗ ý chí và lợi ích của giai cấp cầm quyền có phù hợp với qui
luật xã hội khách quan và với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác
đến đâu. Bởi vậy có thể nói, sự ổn định chính trị - xã hội, sự vững chắc của
HTCT liên quan mật thiết đến việc giai cấp cầm quyền có làm cho nền
chun chính của nó được sự đồng tình của quảng đại quần chúng hay khơng?
Để thực hiện quyền thống trị xã hội, giai cấp cầm quyền phải làm cho ý
chí và lợi ích của mình trở thành ý chí và lợi ích phổ biến của xã hội, thông
qua các bộ máy, các phương thức tuyên truyền và cưỡng chế. Quá trình này
được thực hiện bởi những hoạt động của các đảng phái chính trị, bộ máy Nhà
nước và các đoàn thể CT-XH do giai cấp thống trị lập ra. Đó cũng là chức
năng của HTCT.
1.2. Hệ thống chính trị của tư sản hiện đại.
HTCT tư sản do tính lịch sử của nó ở các thời kỳ, các quốc gia, nên
khơng thuần nhất về tổ chức cơ cấu.
Nhìn chung, HTCT tư sản hiện đại là HTCT đa nguyên (đa ngun
chính trị).
Về kết cấu: Nó gồm ba phân hệ cơ bản. Phân hệ thứ nhất là hệ thống
chuyên chính tư sản gồm các đảng phái tư sản; Nhà nước tư sản hiện đại và
các tổ chức chính trị - xã hội do giai cấp tư sản tạo ra. Các đảng phải tư sản có
thể có nhiều tên gọi khác nhau, đại diện cho một tập đồn, một khuynh hướng

chính trị, một phe phái chính trị nào đó trong giai cấp tư sản. Tuy nhiên, xét
về bản chất, các đảng phái chính trị này đều mang tính nhất nguyên tư sản, đại
biểu và bảo vệ lợi ích giai cấp tư sản nói chung, thực hiện chính sách chống
cộng và tiến bộ xã hội. Hiện nay, các tư tưởng gia tư sản cố làm cho người ta
lầm tưởng rằng các đảng tư sản cầm quyền không can thiệp và chi phối tới
hoạt động của Nhà nước, chính phủ tư sản. Song thực tế cho thấy, các đảng tư


sản cầm quyền có vai trị quyết định về mọi mặt của Nhà nước và chính phủ
tư sản, buộc Nhà nước, chính phủ đó phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản và
các tập đoàn tư bản.
Trong HTCT tư sản, bên cạnh các đảng chính trị cầm quyền thì giai cấp
tư sản cịn có nhiều đảng phái tư sản khác, liên minh với đảng cầm quyền,
hoặc là đảng đối lập trong Nghị viện tư sản. Nhưng điều đó khơng có nghĩa là
chúng khác nhau về bản chất tư sản. Nếu có khác chăng là sự khác nhau về lợi
ích cục bộ của các tập đoàn tư bản, về các thủ đoạn chính trị, về chính sách cụ
thể nhỏ nhặt khơng cơ bản, phản ánh mâu thuẫn trong lịng giai cấp tư sản và
chủ nghĩa tư bản mà thôi.
Hiện nay bọn chống cộng, cơ hội - xét lại và một số kẻ đồng lỗ với
chúng tìm mọi cách chứng minh rằng Nhà nước tư sản là "Nhà nước phúc
lợi chung", "là người trọng tài vô tư của xã hội", là "Nhà nước dân chủ
và nhân đạo với tất cả mọi người" "đứng trên các giai cấp, khơng mang
tính giai cấp" v.v... và. v.v. Thật ra, từ bản chất, đến các quan điểm, chính
sách đối nội, đối ngoại, nhà nước tư sản đều thể hiện đó là bộ máy đắc lực bảo
vệ trung thành lợi ích của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, biểu hiện quyền
lực tập trung, chủ yếu của giai cấp tư sản, thực hiện sự thống trị xã hội, dù nó
có tổ chức dưới bất kỳ hình thức nào: quân chủ lập hiến hay cộng hoà đại
nghị, độc tài hay tam quyền phân lập...
Trong nền chun chính tư sản cịn có các tổ chức chính trị - xã hội do giai
cấp tư sản lập ra, được sự bảo trợ của Nhà nước tư sản như các hiệp hội, uỷ ban,

các phong trào... nhằm củng cố cơ sở xã hội của nó và chia rẽ, lơi kéo quần
chúng phá hoại các tổ chức chính trị - xã hội tiến bộ và cách mạng.
Phân hệ thứ hai, là các nhân tố chịu ảnh hưởng tư tưởng tư sản do các
tầng lớp xã hội khác lập ra như các đảng cải lương, các cơng đồn vàng, các
tổ chức tơn giáo... Nhìn chung, các tổ chức này đứng trên lập trường tư sản,
chống cộng sản, thái độ dao động, ngả nghiêng lúc "tả" lúc hữu.
Phân hệ thứ ba là các tổ chức chính trị - xã hội đối kháng với nền chuyên
chính tư sản. Về danh nghĩa, các tổ chức này được pháp luật tư sản thừa nhận
hoạt động hợp pháp, cơng khai, tham gia vào đời sống chính trị tư sản. Đó là các
Đảng Mác - Lênin, các tổ chức có xu hướng xã hội chủ nghĩa, các đoàn thể do
Đảng Cộng sản tổ chức, lãnh đạo, đây là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh
vì dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội trong các nước tư bản chủ nghĩa. Ở đây


cũng cần phải thấy rằng, sự hoạt động hợp pháp cơng khai của các lực lượng
chính trị này dưới chủ nghĩa tư bản không phải là sự thay đổi bản chất của chủ
nghĩa tư bản, là tính "nhân đạo" "dân chủ", "tôn trọng nhân quyền" của chủ
nghĩa tư bản như các luận điệu tuyên truyền tư sản lừa bịp. Trái lại, đó là kết quả
của q trình đấu tranh lâu dài, bền bỉ, trải qua bao hy sinh thử thách mà các lực
lượng cách mạng, tiến bộ mới giành được; là thắng lợi của xu thế tiến bộ của
thời đại; ảnh hưởng của CNXH hiện thực; tương quan so sánh lực lượng giữa
cách mạng và phản cách mạng trong xã hội tư bản.
Những thực tế đó, buộc CNTB phải thi hành thủ đoạn "điều chỉnh thích
nghi", nhằm xoa dịu cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, "điều hồ" mâu thuẫn xã hội, tháo ngịi nổ xung đột xã hội hịng giữ
cho sự ổn định chính trị của CNTB.
1.3. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
Hệ thống chính trị XHCN là một hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội
cùng với những thể chế bảo đảm thực hiện quyền lực của nhân dân lao động
do chính đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo.

Về cấu trúc: Hệ thống chính trị XHCN bao gồm Đảng Mác-Lênin Nhà
nước XHCN, các tổ chức chính trị - xã hội nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Hệ thống chính trị XHCN được hình thành và hồn thiện trong quá trình
xây dựng CNXH. Cơ sở kinh tế của nó là chế độ kinh tế XHCN. Chế độ kinh
tế này trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần đa dạng về hình
thức sở hữu, trong đó thành phần kinh tế XHCN giữ vai trị chủ đạo, dần dần
tiến tới xác lập chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Cơ sở xã hội
- giai cấp của hệ thống chính trị XHCN là khối liên minh bền vững giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nơng dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân
dân lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân.
Về bản chất, hệ thống chính trị XHCN là HTCT nhất nguyên thể hiện ở
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với HTCT và toàn xã hội; Nhà nước
XHCN thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, dân chủ với đại đa số
nhân dân, chuyên chính với các hành động vi phạm lợi ích của nhân dân và
dân tộc. Các đồn thể chính trị xã hội đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, đại biểu cho ý chí, lợi


ích của các tầng lớp nhân dan, phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc.
Hệ thống chính trị XHCN là một chỉnh thể thống nhất về mục đích, tư
tưởng chính trị và tổ chức theo nguyên tắc XHCN. Bởi vậy, hệ thống chính trị
XHCN khác hẳn về bản chất so với HTCT tư sản và ở tính khơng đối kháng
của nó.
Dĩ nhiên, trong q trình hoạt động, các thành tố cấu thành hệ thống có
vị trí, chức năng, phương thức tổ chức và hoạt động riêng; hoặc trong mối
quan hệ giữa các thành tố có thể nảy sinh mâu thuẫn (khơng đối kháng) nào
đó; hoặc vận hành thiếu đồng bộ, nhịp nhàng,... cần sớm phát hiện điều chỉnh.
Thực chất hệ thống chính trị XHCN là hệ thống chun chính vơ sản; là

thiết chế, cơ chế chính trị thể hiện và bảo đảm vai trò lãnh đạo của giai cấp cơng
nhân, quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, lãnh đạo và tổ chức cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới. Do đó, có thể nói, xét về bản chất, HTCT trong giai
đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong thời kỳ quá độ lên CNXH và
trong xã hội XHCN đã được thiết lập về căn bản, đều đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, mang bản chất giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý
tưởng XHCN. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn cách mạng có mục tiêu nhiệm vụ
cụ thể nên HTCT cũng có nhiệm vụ, chức năng phù hợp tương ứng với điều
kiện, đặc điểm lịch sử từng thời kỳ; thể hiện biện chứng giữa tính liên tục và tính
giai đoạn trong q trình phát triển của hệ thống chính trị XHCN.
Khi nghiên cứu hệ thống chính trị XHCN nói chung, cũng cần lưu ý một
số trường hợp ở một số nước XHCN nào đó, trong HTCT cũng bao gồm một
số chính đảng khơng phải là Đảng Cộng sản, đại biểu cho một tầng lớp nào
đó, chấp nhận cương lĩnh xây dựng CNXH, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
không tranh giành quyền lãnh đạo với Đảng Cộng sản. Tình hình đó là do
xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể, trong cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân, Đảng Cộng sản nắm ngọn cờ lãnh đạo, sau khi cách mạng thành
công thực hiện sự chuyển biến lên cách mạng XHCN. Ở đây, chế độ đa đảng,
song không phải đa đảng đối lập, không phải là đa nguyên chính trị.
2. Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
2.1. Cấu trúc - chức năng hệ thống chính trị nước ta hiện nay


- Ở nước ta hiện nay, HTCT bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà
nước cộng hoà XHCN Việt Nam; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể
chính trị - xã hội và một số hội mang tính chính trị.
- Chức năng chung của HTCT nước ta "là xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền Dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân" (1).
Trên cơ sở chức năng chung và căn cứ vào vị trí, vai trị của nó mà mỗi
thành tố cấu thành HTCT lại có chức năng, nhiệm vụ riêng.

+ Đảng Cộng sản Việt Nam "là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc" (2).
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xã hội, lãnh đạo HTCT
và các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời Đảng Cộng sản Việt Nam là thành
viên của HTCT, vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên của Mặt trận Tổ
quốc
Việt Nam.
"Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật"(1).
+ Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam là trụ cột của HTCT, "tổ chức thể
hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, có đủ quyền lực và khả năng
định ra luật pháp và tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật" (2).
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là "liên minh chính trị của các đoàn thể nhân
dân và cá nhân tiêu biểu... là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân" "Mặt
trận hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất
hành động giữa các thành viên theo chương trình chung" (3).
- Các đồn thể nhân dân "vận động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm
lo, bảo vệ các lợi ích thiết thực; vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho
đồn viên, hội viên; vừa tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội"(4).
2.2. Một số đặc trưng của hệ thống chính trị nước ta hiện nay.
(1)

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb ST, H, 1991, tr.19
SĐD, tr 21.
(1)
SĐD, Tr 21.
(2)
SĐD, Tr 19.
(3)

SĐD, Tr 20.
(4)
SĐD, Tr 20.
(2)


* Đặc trưng thứ nhất: Tính nhất nguyên chính trị.
HTCT nước ta khơng có sự tồn tại của các Đảng chính trị đối lập. Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo HTCT. Đây là vấn đề có tính
ngun tắc, bảo đảm cho sự tồn tại và vững mạnh của HTCT, bảo chất giai
cấp công nhân của Nhà nước, thực hiện và phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân.
Cơ sở lý luận của nó trước hết xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp
cơng nhân là lực lượng xã hội xố bỏ chế độ xã hội cũ, sáng tạo xã hội mới.
Giai cấp cơng nhân muốn hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình tất yếu phải
có sự lãnh đạo của Đảng Mác- Lênin. Nói cách khác, Đảng Mác-Lênin là
nhân tố quyết định sự thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Do
đó giữ vững và tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng đối với HTCT và tồn
xã hội là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng XHCN.
Thứ hai, xuất phát từ bản chất chính trị của Nhà nước, Nhà nước bao giờ
cũng mang bản chất của giai cấp tạo nên nó; đối với Nhà nước ta, đó là nhà
nước mang bản chất của giai cấp công nhân, là công cụ bạo lực sắc bén và tổ
chức duy trì, quản lý xã hội về mọi mặt. Vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản
của mọi cuộc cách mạng, do đó Nhà nước XHCN phải được giữ vững và tăng
cường, trong sạch và vững mạnh. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
HTCT và Nhà nước là bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự mang bản chất giai
cấp công nhân, là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, thực hiện dân chủ với
nhân dân, chuyên chính với những hành động xâm phạm lợi ích của nhân dân
và lợi ích dân tộc. Đồng thời sự lãnh đạo đó định hướng cho các hoạt động

của Nhà nước đúng đắn, khắc phục những khuyết tật nảy sinh của bộ máy và
công chức Nhà nước.
Thứ Ba, từ bản chất của chế độ dân chủ XHCN là quyền làm chủ của
nhân dân lao động trên tất cả các lĩnh vực xã hội; HTCT là thiết chế, cơ chế
bảo đảm thơng qua đó nhân dân thực hiện quyền làm dân chủ của mình. Tuy
nhiên quyền dân chủ của nhân dân chỉ được thực hiện và phát huy cao độ, có
hiệu quả tích cực khi có định hướng chính trị đúng đắn, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản, khắc phục những nhận thức và hành vi sai trái về dân chủ
như: dân chủ tư sản, dân chủ tự phát, cực đoan, vơ chính phủ, coi thường kỷ
cương, sự thờ ơ chính trị...


Thứ tư, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với HTCT và xã hội không
phải là áp đặt, mà là sứ mệnh lịch sử giao phó cho Đảng cộng sản Việt Nam;
đồng thời, Đảng ta xứng đáng với sứ mệnh cao cả đó và sự tin cậy của nhân
dân ta đối với Đảng. Hơn nửa thế kỷ qua, Đảng ta là lực lượng duy nhất lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Có được vai trị đó là do Đảng cộng sản Việt NamTổ chức cao nhất của giai cấp công nhân Việt Nam, đội tiên phong chiến đấu
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, bao gồm những người ưu tú
giác ngộ nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có mục đích cao
cả vì sự nghiêp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Mục đích đó phù hợp với xu thế khách quan của lịch sử và thời đại. Hơn nữa
Đảng cộng sản Việt Nam được trang bị chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa giá trị truyền thống dân tộc và tinh hoa nhân loại, có khả
năng nắm bắt quy luật khách quan và vận dụng phù hợp với hoàn cảnh lịch sử
của nước ta, do đó đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
Về thực tiễn xã hội, cũng cho thấy, ở nước ta hiện nay không cần thiết và
khơng có các tiền đề khách quan cho sự xác lập HTCT đa đảng hoặc đa đảng
đối lập. Chúng ta đã vượt qua gia đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
các lực lượng chính trị đối kháng đã bị cách mạng đánh đổ. Khơng có lẽ gì

chúng ta lại cho phép chúng phục hồi và hoạt động hợp pháp để chống lại
Đảng ta, chế độ ta. Nếu làm điều đó, chỉ là sự mơ hồ về giai cấp và đấu tranh
giai cấp, là sự dại dột và ngu dốt về chính trị. Đó cịn là sự vơ ơn bội nghĩa,
phản bội lịch sử, phản bội với bao thế hệ đồng bào, đồng chí đã dũng cảm
chiến đấu hy sinh trong cuộc đấu tranh cách mạng mới giành được những
thành quả cách mạng. Hiện nay, một số kẻ lớn tiếng đòi đa nguyên, đa đảng,
vu khống Đảng ta là vi phạm dân chủ, nhân quyền. Song tiêu chí của dân chủ
đâu có phải là chế độ một đảng hay đa đảng, mà tuỳ thuộc vào thực chất nhân
dân có là chủ thể của quyền lực chính trị hay khơng? dân chủ cho số ít hay số
đơng? dân chủ vì ai và cho ai ? Lịch sử đã chứng kiến ở Miền Nam Việt Nam
dưới chế độ Mỹ, Nguỵ trước đây và nhiều nước trên thế giới hiện nay, dưới
chế độ đa nguyên đa đảng, thực chất các quyền tự do, dân chủ của nhân dân
rất hạn chế, và bị chà đạp trắng trợn; đồng thời đi liền với nó là tình trạng
tranh giành quyền lực, hỗn loạn xã hội.
* Đặc trưng thứ hai là HTCT mang tính định hướng XHCN.


HTCT nước ta ra đời gắn liền với chế độ xã hội mới sau cách mạng
tháng 8 năm 1945. Trong hai cuộc kháng chiến, HTCT nước ta đã lãnh đạo, tổ
chức nhân dân ta hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, đưa nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH.
HTCT nước ta hiện nay là sự tiếp tục phát triển của HTCT trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân; về bản chất HTCT dân tộc dân chủ nhân dân
và HTCT trong giai đoạn hiện nay có sự đồng nhất về bản chất, đều do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thống nhất về mục tiêu cơ bản vì độc lập dân
tộc và CNXH; thống nhất cơ sở xã hội - giai cấp, đó là khối liên minh cơng
nơng trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng ta.
Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cách mạng, chức năng, nhiệm vụ
của HTCT nói chung và của mỗi thành tố cấu thành hệ thống về tổ chức, nội
dung và phương thức hoạt động, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của nó có những

biến đổi nhất định cho phù hợp với yêu cầu của tình hình xã hội đặt ra. Bởi
vậy khơng thể chia cắt hình thức hoặc tách rời tính kế thừa, tính liên tục của
HTCT nước ta qua các thời kỳ, đồng thời cũng tránh khuynh hướng đồng
nhất, khơng thấy tính giai đoạn của nó, đặt nó trong trạng thái bất biến. Q
trình xây dựng và hồn thiện HTCT ln vận động phát triển không ngừng và
ngày càng thể hiện những đặc trưng XHCN gắn liền với sự phát triển của sự
nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Vấn đề là phân tích đúng đắn các điều
kiện, tiền đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước hiện nay, dự báo
chuẩn xác xu hướng biến đổi của nó, từ đó xác định nội dung, giải pháp, từng
bước đổi mới HTCT theo hướng ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động
có hiệu quả, giữ vững định hướng XHCN, bảo đảm phát huy quyền làm chủ
của nhân dân ta trong quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
* Đặc trưng thứ ba HTCT nước ta là HTCT mà mọi quyền lực thuộc
về nhân dân và do nhân dân - HTCT có tính nhân dân rộng rãi.
Trong xã hội ta, nhân dân là chủ thể và nguồn gốc của mọi quyền lực.
Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thơng qua HTCT, qua các hình thức
dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Đảng, Nhà nước, các đồn thể chính trị
- xã hội đều là những tổ chức đại biểu cho lợi ích và quyền lực của nhân dân,
có vai trị lãnh đạo, tổ chức, giáo dục, hướng dẫn nhân dân, lôi cuốn nhân dân
thực hiện quyền làm chủ, dân chủ của mình trên các lĩnh vực xã hội với hiệu
quả ngày càng cao; đồng thời ngăn chặn những hành động làm tổn hại đến


quyền làm chủ đó. Bởi vậy "tồn bộ tổ chức và hoạt động HTCT nước ta
trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nên dân chủ
XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân." (1); và "Mục tiêu chủ yếu của
đổi mới HTCT là nhằm thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân"(2).
* Đặc trưng thứ tư của HTCT nước ta là tính dân tộc sâu sắc.

HTCT nước ta ra đời là sản phẩm của quá trình đấu tranh cách mạng của
dân tộc ta nhằm giành nền độc lập dân tộc. Ngay từ khi mới ra đời (sau cách
mạng tháng 8 năm 1945), HTCT mới lại trực tiếp lãnh đạo, tổ chức đồng bào
các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam bao gồm các giai tầng xã hội,
các đảng phái, tôn giáo, nghề nghiệp, lứa tuổi, nam nữ... ở trong nước và
ngoài nước, tiến hành kháng chiến chống Pháp và Mỹ, giải phóng dân tộc và
thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên ĐLDT gắn liền với
CNXH.
Trong giai đoạn cách mạng mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố hiện nay, các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc trong nước và
nước ngoài, đoàn kết trong HTCT, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, phát huy sức mạnh của cả cộng đồng, nêu cao truyền thống yêu nước và
lòng tự hào dân tộc, đòng tâm hiệp lực xây dựng và bảo vệ HTCT của mình,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh", vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tính dân tộc của HTCT nước ta còn thể hiện ở chỗ trong quá trình xây
dựng, đổi mới HTCT, chúng ta kế thừa những giá trị truyền thống, những kinh
nghiệm dựng nước và giữ nước của cha ông; kết hợp dân tộc và hiện đại, giữ
vững tính độc lập, tự chủ, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử xã hội và con người
Việt Nam, tránh giáo điều, dập khn máy móc của nước ngồi.
3. Xây dựng và đổi mới HTCT nước ta hiện nay.
3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của xây dựng, đổi mới HTCT
- Cơ sở lý luận để xây dựng và đổi mới HTCT ở nước ta là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị và HTCT.
Luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin coi đấu tranh giai cấp là
một động lực cơ bản của lịch sử. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công
(1)
(2)

SĐD, Tr.19

Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H.1996, Tr.71


nhân là khách quan và tất yếu dẫn đến chuyên chính vơ sản. Trong thư gửi
Vay đơ maye 1852 Mác viết: "... cái mới của tôi chứng minh: 1. Sự tồn tại
của giai cấp chỉ gắn liền với những điều kiện phát triển lịch sử nhất định của
sản xuất; 2. Cuộc đấu tranh giai cấp (của giai cấp vô sản) tất nhiên dẫn đến
chun chính vơ sản; 3. Bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ
tiến tới thủ tiêu tất cả mọi giai cấp và tiến tới một xã hội không giai cấp" 1 .
Theo C.Mác, nhân tố quyết định tới sự phát triển lịch sử, xét đến cùng, là
sự phát triển KT-XH. Đấu tranh giai cấp cũng bắt nguồn trước hết từ những
mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, mà điều đó lại là hệ quả của sự phát triển KT-XH
ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Quan điểm tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp,
coi đó là động lực duy nhất của sự phát triển lịch sử là không đầy đủ và phiến
diện. Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp đối kháng, đấu tranh giai cấp là tất
yếu khách quan và nó là một động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Nội dung cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp cơng nhân bao gồm đấu
tranh chính trị, đấu tranh kinh tế và đấu tranh tư tưởng - lý luận diễn ra gay
go, quyết liệt, phức tạp, lâu dài ngay cả sau khi giai cấp cơng nhân giành được
chính quyền. Hình thức đấu tranh giai cấp cũng rất đa dạng: bạo lực, hồ
bình, chính trị, kinh tế, tư tưởng, ... bí mật, cơng khai, hồ hỗn, liên minh, đổ
máu, khơng đổ máu, thuyết phục, cưỡng chế... Cuộc đấu tranh này đặt ra yêu
cầu khách quan đối với các giai cấp công nhân phải tổ chức nên HTCT trong
sạch, vững mạnh, đủ sức làm trịn sứ mệnh lịch sử của mình.
- Luận điểm 2: là quan điểm về chính trị và đấu tranh chính trị của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Chính trị là một lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, thể hiện ở việc giải
quyết quan hệ giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp, nhằm giành, giữ quyền lực,
giành giữ chính quyền Nhà nước và sử dụng chính quyền đó để thực hiện các
mục tiêu, nhu cầu và lợi ích giai cấp. Do đó "chính quyền là vấn đề cơ bản

của mọi cuộc cách mạng. "Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền cịn
khó hơn". Cho nên, chính quyền XHCN phải ln được củng cố, tăng cường
có đủ sức mạnh tổ chức, quản lý xây dựng xã hội mới.

1

Mác, ăng ghen, Tuyển tập, Tập 2, (6 tập), Nxb ST, H. 1981, Tr. 662.


Luận điểm 3, là luận điểm về chun chính vơ sản và dân chủ vô sản
Đây là luận điểm rất cơ bản trong xây dựng và đổi mới HTCT của
CNXH. Tư tưởng cơ bản trong lý luận về chuyên chính vơ sản đó là:
- Chun chính vơ sản là giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp
thống trị. Chun chính vơ sản là sự lãnh đạo của giai cấp vơ sản đối với tồn
xã hội, và quyền lãnh đạo xã hội đó khơng chia sẻ cho lực lượng xã hội khác.
Đó cịn là quyền lực của nhân dân lao động.
Chun chính vơ sản là "Nhà nước nửa nhà nước' "Nhà nước không
nguyên nghĩa" "Nhà nước đang tự tiêu vong". Nhà nước này không đứng trên
xã hội, mà phụ thuộc vào xã hội. Chun chính vơ sản là sự thống trị của đa
số với thiểu số. Chức năng của chun chính vơ sản là bạo lực trấn áp và tổ
chức xây dựng, trong đó tổ chức xây dựng là cơ bản nhất, quan trọng nhất. Về
dân chủ vô sản, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: dân chủ
là quyền lực của nhân dân; trong chế độ dân chủ thực sự, quyền lực thuộc về
nhân dân. "nhân dân là tính thứ nhất, Nhà nước là tính thứ hai. Nhân dân
quyết định Nhà nước chứ không phải nhà nước quyết định nhân dân". Trong
chế độ dân chủ vô sản, "dân chủ gấp triệu lần hơn dân chủ tư sản". Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định ở nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nhà nước do dân
làm chủ".
Trong tư tưởng về chun chính vơ sản và dân chủ vô sản, về Nhà nước
XHCN, các nhà kinh điển Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã sớm

phát hiện và cảnh báo về nguy cơ nảy sinh sự thối hố biến chất, những
khuyết tật của HTCT đó là chủ nghĩa quan liêu, tham nhũng, tham ơ, lãng
phí... coi thường vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, sự yếu kém về quản
lý xã hội một cách khoa học... Các ơng đều coi đó là nguy cơ lớn nhất đe doạ
sự tồn vong của chế độ mới, đó là kẻ thù nguy hiểm, là giặc nội xâm... Đồng
thời đòi hỏi Đảng cộng sản cầm quyền hết sức cảnh giác, kiên quyết đấu tranh
ngăn chặn và loại bỏ. Bởi vậy, xây dựng và hoàn thiện HTCT thật sự trong
sạch, vững mạnh là vấn đề cực kỳ trọng yếu, luôn luôn phải được quan tâm.
Có thể nói, những luận điểm trên là cơ sở lý luận cơ bản nhất của quá
trình xây dựng và đổi mới HTCT của chúng ta hiện nay.
* Cơ sở thực tiễn của đổi mới HTCT xuất phát từ :


+ Thực tiễn quá trình xây dựng HTCT nước ta từ khi thành lập đến nay
trải qua các giai đoạn thời kỳ cách mạng, nhất là trong mười năm đổi mới từ
Đại hội VI đến nay.
+ Kinh nghiệm dựng nước và giữ nước, truyền thống chính trị, tổ chức bộ
máy và các thiết chế chính trị của dân tộc ta được thiết lập và tồn tại lâu dài trong
lịch sử.
+ Những kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong tổ chức bộ máy
Nhà nước, xây dựng Nhà nước Pháp quyền, các cơ chế, thiết chế dân chủ.
+ Những bài học thành công và không thành công về xây dựng đổi mới
HTCT của một số nước XHCN trước đây (nhất là của Liên Xô và các nước
XHCN Đông Âu, trước đây) trong quá trình cải tổ, cải cách.
+ Xuất phát từ những kết quả trong quá trình đổi mới HTCT thời gian
qua và thực trạng mạnh yếu của HTCT nước ta hiện nay.
3.2. Một số quan điểm cơ bản về đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay
a. Quá trình hình thành, phát triển quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam về đổi mới HTCT và những kết quả trong đổi mới HTCT.
- Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra đường lối đổi mới toàn diện,

mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, đồng thời đã
đề ra những tư tưởng hình thành quan điểm đổi mới HTCT của nước ta.
Trước hết xuất phát từ "Thái độ của Đảng ta trong việc đánh giá tình
hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật" 1 . Cho
nên Đại hội VI, bên cạnh việc nêu nên những thành tích đã đạt được, cịn chỉ
ra những mặt yếu kém, phân tích nguyên nhân và rút ra những bài học kinh
nghiệm trong quá trình xây dựng HTCT ở nước ta. Đặc biệt đó là bài học 1
"Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân
làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động" 2. "...
Đảng phải luôn luôn củng cố mối liên hệ giữa Đảng với các bộ phận hợp
thành HTCT, giữa Đảng và Nhà nước, cũng như Mặt trận".
Bài học thứ tư: "Phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của
một Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN" 1.
1

Văn kiện Đại hội VI, Nxb ST, H. 1987, Tr. 12.
SĐD, Tr. 19, 29.
1
SĐD, Tr. 31, 41
2


Đại hội VI cũng đã nêu lên những nhiệm vụ cơ bản nhằm phát huy vai
trò làm chủ của nhân dân lao động, thực hiện phương châm : "Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra". Từ đó, địi hỏi Nhà nước phải thể chế bằng luật
pháp quyền dân chủ của nhân dân; Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể phải
tôn trọng và bảo đảm quyền công dân và thu hút nhân dân tham gia vào quản
lý xã hội, quản lý Nhà nước.
Đại hội VI cũng nêu bật vị trí, vai trị của Nhà nước trong HTCT, đề cao
vai trò của Pháp luật và Pháp chế trong đời sống xã hội; chủ trương đổi mới

phong cách làm việc của các bộ máy và cán bộ; khẳng định quyết tâm chống
tham nhũng, đặc quyền đặc lợi, lối xét xử nội bộ.
- Đại hội VII tiếp tục đường lối đổi mới mà Đại hội VI đã mở ra. Trong
các văn kiện của Đại hội, lần đầu tiên khái niệm HTCT được sử dụng. Đặc
biệt Đại hội đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH", và "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000".
Trong các văn kiện đó, vấn đề xây dựng, đổi mới HTCT được đề cập tương
đối
toàn diện.
+ Xác định chức năng (mục đích) của HTCT và các thành tố cấu thành
(Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội); nêu lên nội dung,
phương thức hoạt động của HTCT; đánh giá kết quả bước đầu về đổi mới
HTCT; nêu lên những quan điểm và nhiệm vụ quan trọng tiếp tục đổi mới
HTCT như quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị; quan điểm về mở rộng, phát huy dân chủ XHCN; nhiệm vụ cải cách
bộ máy Nhà nước; sửa đổi Hiến pháp; đổi mới tổ chức hoạt động của Mặt trận
tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; coi xây dựng và chỉnh đốn Đảng là khâu
then chốt. Đặc biệt trong bối cảnh phức tạp mới, các thế lực chống đối lớn
tiếng đòi đa nguyên chính trị, Đảng ta đã khẳng định: "Trong điều kiện nước
ta khơng có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa
đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc
đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản động, phục
thù trong nước và từ nước ngoài trở về hoạt động chống Tổ quốc" 1
- Hội nghị Đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII (1-1994) đã đánh giá kết
quả đổi mới HTCT, trong đó nêu bật những thành tựu bước đầu về đối mới
1

SĐD, Tr. 120



HTCT qua hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII: "Hơn hai năm qua, nền
dân chủ của xã hội ta đã có bước phát triển đáng kể, gắn liền với xã hội Nhà
nước Pháp quyền của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân" 2 .
+ Sự kiện nổi bật là ban hành Hiến pháp 1992, ban hành hàng loạt văn
bản luật và pháp lệnh mới.
+ Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể đã có nhiều sáng tạo về hình thức tập
hợp quần chúng, phát huy khối đại đồn kết dân tộc.
+ Quốc hội khố VIII đã thông qua Hiến pháp 1992, 31 luật, 43 pháp
lệnh và 60 nghị quyết.
Quốc hội khoá IX (bầu ngày 19-7-1992) đến 7-1997. Thời gian từ kỳ
họp thứ nhất (9-1992) đến kỳ họp thứ 8 (10-1995) đã thơng qua 31 luật trong
đó có bộ luật cơ bản - bộ luật dân sự, 31 pháp lệnh và 34 nghị quyết.
Đặc biệt, tại hội nghị giữa nhiệm kỳ (Khoá VII), Đảng ta đã chỉ ra những
thuận lợi và thời cơ lớn của nước ta đồng thời chỉ ra bốn nguy cơ, thách thức
như: nạn tham nhũng, diễn biến hồ bình của các thế lực thù địch, chệch
hướng XHCN và nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu
vực và thế giới.
- Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm
kỳ, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khoá VII) đã ra nghị quyết
về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước XHCN Việt Nam cải cách một
bước nền hành chính Nhà nước". Đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng
cao hiệu quả và hiệu lực của HTCT, phục vụ công cuộc đổi mới đất nước. Hội
nghị này đã nêu lên những quan điểm, nguyên tắc xác định bản chất giai cấp
của Nhà nước ta, đề ra những quyết định quan trọng nhằm từng bước cải cách
về tổ chức bộ máy nhà nước và cải cách các thủ tục hành chính gây phiền hà
ách tắc trong các hoạt động kinh tế - xã hội.
Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy
manh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đánh dấu cột mốc mới trong tiến trình phát
triển cách mạng nước ta. Đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và

10 năm đổi mới về HTCT, Đại hội nêu lên những thành tựu to lớn đó là:
+ Giữ vững ổn định chính trị - xã hội.

2

Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ 1-1994, Tr. 13.


+ Củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng trong xã hội.
+ Ban hành Hiến pháp mới 1992, sửa đổi, bổ xung và ban hành nhiều
văn bản pháp luật quan trọng. Cải cách một bước nền hành chính Nhà nước,
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền cộng hoà XHCN Việt
Nam.
+ Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể từng bước đổi mới nội dung và phương
pháp hoạt động.
+ Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính
trị, tư tưởng, văn hố được phát huy, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố
thêm một bước.
Đại hội VIII cũng chỉ ra thực trạng yếu kém của hệ thống chính trị nước
ta hiện nay.
+ Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý điều hành
của nhà nước; hiệu quả hoạt động của các đồn thể chính trị - xã hội nâng
chưa kịp địi hỏi của tình hình.
+ Bộ máy Đảng, nhà nước, đồn thể cịn cồng kềnh, cịn nhiều biểu hiện
quan liêu, tham nhũng vi phạm quyền dân chủ của nhân dân.
+ Năng lực, phẩm chất đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu.
Một bộ phận sa sút thối hồ bản chất về đạo đức và lối sống... Sức chiến đấu
của một bộ phận tổ chức cơ sở Đảng suy yếu.
- Tiếp tục triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội VIII, ngày 9-6-1997

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 3 (khoá VIII) đã ra nghị quyết :
"Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước cộng hoà
XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh" và nghị quyết về "Chiến lược cán
bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước". Tháng 8/1999 Hội nghị TW7
(khoá VIII) đã ra nghị quyết : "Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ
thống chính trị và tiến lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước". Các
văn kiện này tiếp tục làm sâu sắc hơn quan điểm và nội dung đổi mới hệ
thống chính trị ở nước ta hiện nay. Nghị quyết Đại hội IX, đề cập đến xây
dựng HTCT trong các mục VIII, IX, X. Hội nghị TW4( IX) đặt vấn đề kết
hợp cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng với xây dựng HTCT ở cơ sở
vững mạnh, phát huy dân chủ XHCN. Trong văn kiện Đại hội X, nội dung


xây dựng, tăng cường HTCT được đề cập trong các mục XII, XIII, XIV của
báo cáo chính trị.
b. Một số quan điểm cơ bản của Đảng ta về đổi mới hệ thống chính trị
- Tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với hệ
thống chính trị và toàn xã hội.
- Mở rộng và phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân.
- Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam trong
sạch vững mạnh.
- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể chính trị
- xã hội; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và các hình thức tập hợp
quần chúng.
- Giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế văn hố xã hội; làm lành
mạnh các quan hệ xã hội.
- Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị một
cách vững chắc, thận trọng, đúng nguyên tắc, với hình thức, bước đi thích

hợp.
- Thường xun nắm chắc tình hình trong nước và thế giới, đề cao cảnh
giác, kịp thời phát hiện những vấn đề nảy sinh, xử lý đúng đắn, không để xảy
ra những hậu quả xã hội tiêu cực.
3.3. Nội dung và giải pháp chính đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay.
3.3.1. Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo HTCT bằng cương lĩnh, chiến lược,
các định hướng về chính sách, chủ trương công tác; nắm vững tổ chức và cán
bộ; Đảng lãnh đạo HTCT thông qua tổ chức Đảng và đảng viên trong các tổ
chức, lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể, bằng tuyên truyền, vận động,
tổ chức kiểm tra, khuyến khích, uốn nắn, bằng hành động gương mẫu của
đảng viên. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong HTCT.
Đối với Nhà nước, Đảng lãnh đạo phát huy vai trị trách nhiệm, tính chủ động
và hiệu lực của Nhà nước chứ không điều hành thay Nhà nước.


×