Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc việt nam trong quá trình hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.93 KB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN ĐÌNH QUỐC CƯỜNG

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN
HĨA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
WX

NGUYỄN ĐÌNH QUỐC CƯỜNG

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN
HĨA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP
Chuyên ngành : CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số :
60.22.85

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRẦN CHÍ MỸ


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1; HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA
DÂN TỘC VIỆT NAM .............................................................................. 8
1.1.

Quan niệm về hội nhập kinh tế quốc tế và bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam....................................................................................................... 8

1.1.1. Khái lược về hội nhập kinh tế quốc tế .......................................................... 8
1.1.2. Quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam..................................................................................................... 10
1.2.

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong q trình hội nhập kinh tế
quốc tế......................................................................................................... 30

1.2.1. Vai trò của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong q trình hội
nhập ............................................................................................................ 30
1.2.2. Ảnh hưởng của hội nhập đối với bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ........ 36
Chương 2; THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN
SẮC VĂN HĨA DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG Q TRÌNH HỘI
NHẬP ......................................................................................................... 43
2.1. Quan niệm về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam....... 43
2.1.1. Quan niệm về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc....................... 43


2.1.2. Yêu cầu của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam trong quá trình hội nhập..................................................................... 45
2.2. Thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong
những năm qua ........................................................................................... 47


2.2.1. Những thành tựu và hạn chế cơ bản trong việc giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ................................................................... 47
2.2.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam hiện nay............................................... 68
2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam trong quá trình hội nhập hiện nay ........................................ 73
2.3.1. Làm chuyển biến, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về nhiệm vụ giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình hội
nhập............................................................................................................. 73
2.3.2. Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước trong việc thúc đẩy những tác
động tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của quá trình hội nhập đối
với bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ..................................................... .76
2.3.3. Tăng ngân sách nhà nước cho các hoạt động giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc..................................................................................... 77
2.3.4. Phát động và huy động mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào các phong
trào thi đua yêu nước .................................................................................. 79
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................. 86


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân
tôi, dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Trần Chí Mỹ. Tơi xin hồn tồn
chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của cơng trình khoa học

này.
NGUYỄN ĐÌNH QUỐC CƯỜNG


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển, là linh hồn, sức sống của mỗi quốc gia dân tộc. Trong
q trình dựng nước và giữ nước, văn hóa Việt Nam là một thực thể, đồng
thời hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam. Nhờ vậy, nền văn
hóa giàu bản sắc của nước ta đã khơng bị mai một và đồng hóa.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp nên trong lịch sử
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là: “lịng u nước nồng
nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân – gia đình - làng xã – Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa
tình đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong lối sống…” [14, 56].
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đảm bảo cho dân tộc ta trường tồn,
phát triển, lớn mạnh và chiến thắng trong lịch sử và là điểm tựa vững chắc để
dân tộc Việt Nam hội nhập thành công với thế giới ngày nay.
Hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế phổ biến của thế
giới. Nó đã mở ra khả năng to lớn để các dân tộc giao lưu văn hóa, khoa học,
giáo dục với nhau trên phạm vi tồn cầu, tạo động lực cho quá trình đổi mới
và hiện đại hóa văn hóa của các dân tộc.
Cũng như các dân tộc khác trên thế giới, dân tộc Việt Nam đang đứng
trước những cơ hội lớn để phát triển, nâng cao và làm giàu bản sắc văn hóa
dân tộc của mình do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đem lại.

Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế cũng gây ra khơng ít những tác động tiêu cực đối với bản sắc văn


2

hóa dân tộc Việt Nam. Đó là bệnh sùng ngoại, coi thường giá trị dân tộc; chạy
theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ chỉ, coi trọng lợi ích vật chất, coi nhẹ
giá trị tinh thần, chỉ coi trọng lợi ích cá nhân, coi nhẹ giá trị cộng đồng, coi
trọng lợi ích trước mắt, ít chú ý đến lợi ích lâu dài; sự suy thoái về lối sống,
đạo đức xã hội có nguy cơ ngày càng tăng, nhất là sa sút về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống và nếp sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân;
mức độ trầm trọng của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, của các tệ nạn xã
hội và các tiêu cực xã hội khác. Các sách báo, tranh ảnh, băng nhạc, băng
hình có nội dung kích động dâm ô, bạo lực nhập lậu ồ ạt gây tác động xấu đến
nhiều thuần phong mỹ tục của dân tộc. Di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh
đang bị xâm hại rất nghiêm trọng… Tình hình đó thật sự là một thách thức
lớn đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam hiện
nay.
Kinh nghiệm hội nhập của các quốc gia trên thế giới cũng như bài học
từ lịch sử của Việt Nam đều cho thấy khơng giữ gìn và phát huy được bản sắc
văn hóa dân tộc thì khơng những khơng thành cơng trong hội nhập, mà cịn có
thể tự đánh mất dân tộc mình, trở thành bóng mờ của dân tộc khác.
Do đó, nghiên cứu để nhận thức và xử lý đúng đắn, có hiệu quả vấn đề
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình hội
nhập hiện nay là một nhiệm vụ có ý nghĩa vừa cơ bản, vừa cấp bách, cả về lý
luận và thực tiễn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong vài ba thập kỷ qua, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ
bản sắc văn hóa dân tộc trong q trình phát triển được nhiều tổ chức, nhiều

nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.
Ở nước ngồi, có các cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bản
sắc văn hóa dân tộc của Ủy ban văn hóa khoa học và giáo dục của Liên hiệp


3

quốc (UNESCO) và của các nhà khoa học, các chuyên gia về văn hóa và phát
triển. Trong đó có cơng trình: “Sự va chạm của các nen văn minh”, Nxb. Lao
động, Hà Nội, 2003, của Samuel Hungtington. Trong cơng trình này, tác giả
đã cập đến một số vấn đề về bản sắc văn hóa dân tộc và các yêu tố để nhận
biết bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia, cũng như sự cần thiết phải giữ gìn và
tơn vinh bản sắc văn hóa của các dân tộc.
Ở Việt Nam, bản sắc văn hóa dân tộc là một vấn đề được nhiều ngành
khoa học quan tâm, nghiên cứu. Vì vậy, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
liên quan đến bản sắc văn hóa dân tộc được cơng bố, như: “Bản sắc văn hóa
Việt Nam” của GS. Phan Ngọc, Nxb. Văn học, 2006. Trong cơng trình này,
tác giả đã tập trung phân tích bản sắc văn hóa Việt Nam, đề xuất những giải
pháp để bảo vệ bản sắc văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu hội nhập
với thế giới.
Trong tác phẩm “Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa” của
GS, VS. Hồng Trinh, Nxb. Chính trị quốc gia, 2000, và tác phẩm “Tìm về
bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh, 1997, các tác giả đã đề cập đến một số nội dung về bản sắc văn hóa của
dân tộc Việt Nam.
Trong cuốn “Lãng du trong văn hóa Việt Nam” của Hữu Ngọc, Nxb.
Thanh niên, 2008. Trong cơng trình này, tác giả đã đề cập đến những giá trị
của bản sắc dân tộc và vai trị của nó trong tồn cầu hóa.
Trong tác phẩm “Văn hóa thời hội nhập”, Nxb. Trẻ, 2006. Gồm nhiều
bài viết về vai trò, động lực của văn hóa, nghệ thuật trong phát triển kinh tế,

xã hội của nước ta và về vấn đề làm thế nào để giữ gìn và phát huy được bản
sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay. Từ đo, cảnh báo
những quan niệm sai lệch dẫn đến nhiều giá trị truyền thống, tinh hoa văn hóa
dân tộc bị mai một, mất mát nghiêm trọng.


4

Trong cuốn “Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại”, Nxb. Giáo
dục, 2001, bao gồm nhiều bai viết của các nhà khoa học được Lê Quang
Trang - Nguyễn Trọng Hồn tuyển chọn và giới thiệu, trong đó có bài viết của
GS. Phạm Xuân Nam “Bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu với
thế giới”, tác giả đã đề cập đến một số nét về bản sắc văn hóa dân tộc và phát
huy nó trong q trình giao lưu với thế giới. Hay bài viết của Ngọc Oanh
“Giao lưu, hội nhập văn hóa và giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc”, tác giả đã
phân tích một số tác động của giao lưu, hội nhập văn hóa đối với việc giữ gìn
và phát huy bản sắc dân tộc.
Ngồi ra, cịn rất nhiều cơng trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam đã đăng trên các báo, tạp chí khoa học như bài viết của Nguyễn
Mạnh Hưởng về “Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc khi trở thành thành viên tổ
chức Thương mại thế giới”, Tạp chí Cộng sản số 19 (163), 2008. Trong bài
viết này tác giả đã trình bày một cách khái quát về bản sắc văn hóa dân tộc và
đưa ra những yêu cầu, nội dung nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc khi
Việt Nam tham gia vào thị trường tồn cầu.
Nhìn chung, cho đến nay, khối lượng các cơng trình nghiên cứu về bản
sắc dân tộc cũng như bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam khá đồ sộ. Mỗi cơng
trình tiếp cận dưới một góc độ riêng. Trên cơ sở tìm hiểu, tiếp thu có chọn lọc
các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu nêu trên và xuất phát từ thực tiễn xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
hiện nay, tác giả chọn vấn đề “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Việt Nam trong quá trình hội nhập” để làm đề tài nghiên cứu va viết cơng
trình luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn


5

Trên cơ sở làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam và mối quan hệ
giữa nó và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; thực trạng của việc giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong những năm qua, luận văn
đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam trong quá trình hội nhập hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm
vụ sau:
Thứ nhất, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về bản sắc văn hóa
dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam và mối quan hệ giữa hội nhập kinh
tế quốc tế và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, Phân tích, đánh giá thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam, kiến nghị một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong q trình hội nhập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, tập trung chủ yếu giai đoạn
từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu của
luận văn

Cở sở lý luận và phương pháp luận của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu


6

Luận văn vận dụng phương pháp kết hợp lơgích – lịch sử; quy nạp –
diễn dịch;…
Nguồn tài liệu
Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; Văn kiện Đảng; các cơng trình nghiên cứu khoa học; các tạp chí khoa
học;…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo phục vụ nghiên cứu khoa học, giảng dạy về vấn đề văn hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 2 chương, 6 tiết.


7

Chương 1
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ BẢN SẮC VĂN HOÁ
DÂN TỘC VIỆT NAM
1.1. QUAN NIỆM VE HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ BẢN
SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC VIỆT NAM
1.1.1. Khái lược hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là trình độ cao của quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế. Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế
giới là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập
kinh tế đã diễn ra hàng nghìn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mơ tồn
cầu đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế
giới và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thơng hàng hóa trong
tồn bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho
toàn bộ các nơi.
Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết
mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Nói rõ hơn, hội nhập
kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: “Một mặt, gắn nền
kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua
các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và
mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực va toàn
cầu” [35, 21 - 22]. Hội nhập kinh tế có nhiều cấp độ khác nhau: hiệp định
thương mại ưu đãi, hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị
trường chung, liên minh kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện. Tuy nhiên
trong thực tế, các cấp độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn.


8

Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế,
hoặc khu vực - tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có
quy mơ tồn thế giới.
Các nền kinh tế khác nhau thực hiện sự hội nhập qua các hoạt động
mậu dịch và hợp tác trong chính sách và biện pháp kinh tế. Có những hình
thức hội nhập sau đây :
Thứ nhất, hội nhập theo thị trường, là sự hội nhập kinh tế khu vực
thông qua hoặc thúc đẩy bằng các hoạt động kinh doanh. Điều này có thể xảy

ra mà không cần đến một khuôn khổ hội nhập liên chính phủ.
Thứ hai, hội nhập theo chính sách, là sự hội nhập kinh tế khu vực được
thúc đẩy thơng qua một thỏa thuận chính thức, thường là thơng qua một thỏa
thuận thương mại khu vực ưu đãi.
Tùy theo độ sâu, nơng, có thể chia ra hội nhập sâu và hội nhập nông.
Hội nhập sâu là sự kết hợp các hệ thống chính sách quốc gia của hai hay
nhiều nước theo truyền thống các hệ thống đó hồn tồn thuộc thẩm quyền
của chính phủ quốc gia. Hệ thống chính sách này, bao gồm chính sách cạnh
tranh, tiêu chuẩn kỹ thuật, trợ cấp, chính sách tài chính – tiền tệ, các quy chế
và giám sát tiêu chuẩn tài chính, các vấn đề mơi trường, việc mua sắm của
chính phủ và một số chính sách khác. Cộng đồng châu Âu (EU) là khu vực
tiến xa nhất trong quá trình hội nhập sâu; gần đây, cộng đồng châu Âu đã
thông qua việc thành lập một thị trường thống nhất và thực hiện các biện pháp
đề ra trong Hiệp ước Maxtơrich. Ngoài ra, NAFTA (New Zealand Australia
Free Trade Agreement – Thỏa ước Mậu dịch Tự do Tân Tây Lan – Úc) cũng
là một ví dụ hội nhập sâu hiện nay. Trái lại, hình thức hội nhập nơng thể hiện
trong các hình thức hội nhập từ khu vực thương mại tự do. Trong hình thức
hội nhập nông, mỗi nước thành viên vẫn tự do duy trì các chính sách khác của


9

nuớc mình; tuy vậy, hội nhập này cũng có tác dụng thúc đẩy q trình hợp tác
hài hịa, cân đối chính sách.
Như vậy, hội nhập kinh tế thường có nhiều mức độ từ nông đến sâu, từ
vài nước đến nhiều nước. Hội nhập kinh tế là xu hướng toàn cầu, cho nên có
tác động đến mọi nước, ngay cả những nước chưa tham gia vào q trình đó
cũng bị ảnh hưởng tác động. Kinh tế la nền tảng của quốc gia, nên hội nhập
kinh tế sẽ tác động toàn diện đến các mặt chính trị, văn hóa xã hội của đất
nước. Bất kể nước nào đã qua hội nhập đều phải trải qua giai đoạn điều chỉnh

pháp luật và các chính sach để hội nhập sâu hơn, thành cơng và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, để tiến tới hội nhập toàn cầu theo xu hướng tồn cầu hóa, vài thập
kỷ gần đây đã xuất hiện xu hướng phát triển hội nhập kinh tế khu vực song
song với hội nhập kinh tế toàn cầu và cũng được định hướng theo các nguyên
tắc tự do hóa và hội nhập tồn cầu.
1.1.2. Quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam
Để hiểu được bản sắc văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam, trước hết cần hiểu văn hóa là gì?
Thuật ngữ văn hố xuất hiện từ lâu trong ngơn ngữ của dân tộc ta và
của nhân loại. Qua các thời kỳ lịch sử, khái niệm văn hoá được bổ sung thêm
nhưng nội dung mới. Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa về văn hố. Có
người cho rằng, văn hóa gồm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần; văn hóa
là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ va xúc cảm
quyết định tính chất một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Cũng
có người cho rằng, văn hóa theo nghĩa rộng là toàn bộ đời sống tinh thần của
xã hội, gồm tám lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, lối sống; giao dục đào tạo; khoa
học cơng nghệ; văn hóa nghệ thuật; giao lưu văn hóa; thơng tin đại chúng; thể
chế văn hóa; đời sống văn hóa. Nghĩa hẹp gồm: nếp sống, lối sống; văn học


10

nghệ thuật; thơng tin đại chúng; xuất bản bao chí; phong tục tập quán; đạo
đức xã hội và chuyên ngành nghiệp vụ văn hóa.
Trong cuộc sống hàng ngày, có khi khái niệm văn hoá thường được sử
dụng đồng nhất với khái niệm học vấn và khái niệm văn minh. Tuy nhiên, can
lưu lý rằng, giữa văn hoá và học vấn có chỗ giống nhau và có chỗ khác nhau.
Trình độ học vấn có thể là chìa khố để mở mang trí tuệ và tâm hồn, nghĩa là
vươn đến trình độ văn hố. Nhưng đó cũng chỉ là điều kiện, là khả năng.

Trong thực tế vẫn tồn tại hiện tượng: có người đạt trình độ học vấn cao,
nhưng trong lối sống, trong cách ứng xử vẫn có thể bị coi là thiếu văn hố nếu
như đó là lối sống, là cách ứng xử không đáp ứng được cái đúng, cái tốt, cái
đẹp – những giá trị nền tảng và phổ quát của văn hóa.
Về khái niệm văn minh cũng vậy. Văn minh đồng nghĩa với văn hoá
khi đối lập văn minh với bạo tàn. Nhưng thông thường, văn minh được dùng
để chỉ trình độ phát triển của nhân loại đạt tới ở một thời kỳ lịch sử nào đó.
Thí dụ, người ta nói đến văn minh nơng nghiệp, văn minh cơng nghiệp, văn
minh hậu cơng nghiệp…
Cũng có quan niệm cho rằng văn minh là sự thống nhất của xã hội và
văn hoá, là sự thể hiện văn hoá trong lối sống, trong lao động và hành vi. Như
vậy, không thể đồng nhất văn minh với văn hố trong mọi trường hợp.
Nói tới văn hố là nói tới con người, nói tới viec phát huy những năng
lực, bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội
theo hướng chân – thiện - mỹ. Do đó, khái niệm văn hoá chứa đựng bản chất
nhân văn, nhân bản. Cơ sở của mọi hoạt động văn hoá là khát vọng hướng tới
cái chân, cái thiện, cái mỹ. Có thể nói đó là ba trụ cột vĩnh hằng của sự phát
triển văn hoá nhân loại.
Cũng như mọi sinh thể khác trong vũ trụ, con người là một bộ phận của
đại tự nhien, chịu sự quy định chặt chẽ của đại tự nhiên. Nhưng khác với các


11

sinh vật khác, con người có một “khoảng trời riêng”, một thiên nhiên thứ hai,
thiên nhiên đó do con người tạo ra bằng lao động và tri thức của mình. Thiên
nhiên thứ hai đó chính là văn hố. Nếu đại tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi
sống con người, thì văn hố là cái nơi thứ hai, ở đó tồn bộ đời sống của con
người được hình thành, được nuôi dưỡng và phát triển. Con ngươi không thể
tách rời đại tự nhiên, cũng như vậy, con người không thể trở thành con người

nếu tách rời mơi trường văn hố.
Như vậy, có thể nói văn hố có nhiều cách tiếp cận và do đó có nhiều
quan niệm khác nhau.
Năm 1871, E.B.Tylor – người góp phần khẳng định ngành văn hóa học
như một khoa học, đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa là phức thể bao gồm kiến
thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và mọi khả năng,
thói quen mà con người với tư cách là thành viên xã hội đạt được” [9, 265 –
266]. Còn theo cách tiếp cận của Tổng thư ký UNESCO Federico Mayor,
“Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và
các cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo
ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu –
những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [43, 23]. Hay “Văn hóa
là tất cả những cái mà nhờ đó một cộng đồng con người tự nhận biết bản thân
và có thể được người khác nhận biết. Đối với mọi cộng đồng con người, mọi
người dân, khơng có bản sắc nào có thể có yêu sách và được thực hiện ngồi
nền văn hóa của bản thân họ” [39, 13].
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hoá như sau: “Văn
hoá nên được đề cập đến như là một tập hợp những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức, cảm xúc của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó
chứa đựng ngồi văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung
sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin” [41, 7].


12

Khi đề cập đến văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh, danh nhân văn hóa thế
giới, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta đã nói : “Vì lẽ sinh tồn như mục đích của
cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, van học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và phương thức sử dụng. Toàn bộ những

sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [15, 431].
Dựa trên những định nghĩa về văn hố, dưới góc độ tiếp cận của chủ
nghĩa xã hội khoa học có thể quan niệm: Văn hố là tồn bộ những giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng sức lao động của mình trên
cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần.
Từ định nghĩa này chúng ta thấy rằng, văn hoá là do con người tạo ra
bằng hoạt động tự nhiên, cải tạo xã hội và hồn thiện bản thân mình. Chính
q trình con người làm ra văn hoá con người ngày càng trở thành Người hơn.
Văn hố vì là sản phẩm của con người nen văn hoá là một hiện tượng xã hội,
sản phẩm xã hội. Một xã hội lại sống trong một môi trường, do đó văn hố
bao giờ cũng gắn với dân tộc, mang bản sắc dân tộc.
Nói “dân tộc” là nói một dân tộc nhất định, có những đặc điểm chung
về lãnh thổ, kinh tế, quốc gia, tâm lý, quốc ngữ và nền văn hóa chung.
Nói “bản sắc” theo cách hiểu nguyên nghĩa: “bản” là gốc, cái cốt thuộc
về phần mình như bản nguyên (bản gốc), cơ bản (nền gốc)... “sắc” nghĩa là
màu, vẻ, dung mạo, sắc thái. Nói đến “bản sắc” là tính chất đặc biệt vốn có, là
cái riêng để phân biệt với những cái khác.
“Bản sắc dân tộc” là những nét đặc biệt, đặc trưng làm nên bản lĩnh,
sắc thái, dấu ấn riêng của từng dân tộc. Tức là cái thuộc về dân tộc đó, riêng


13

dân tộc đó. Tuy nhiên, hồn tồn sai lầm nếu nghĩ rằng đó là cái riêng mà chỉ
dân tộc này mới có, cịn dân tộc khác khơng có.
Đến nay, có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa về khái niệm bản sắc dân
tộc: Bản sắc dân tộc được hiểu là tổng thể những phẩm chất, đặc điểm, tính
cách, cách thức để tồn tại và biểu hiện của một cộng đồng xã hội – dân tộc cụ

thể, riêng biệt mà nhờ đó người ta mới có thể xác định được một dân tộc giữa
quần thể các dân tộc trong cộng đồng nhân loại nói chung. Hoặc bản sắc dân
tộc cũng có thể được hiểu đó là sự thể hiện phẩm chất của dân tộc trong tính
riêng biệt, đặc trưng của dân tộc đó, là cái làm cho mỗi dân tộc là mình, khác
với dân tộc khác. Bản sắc dân tộc “là tổng thể những tính chất, tính cách,
đường nét, màu sắc biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển
giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất
quán của bản thân mình trong quá trình phát triển. Bản sắc dân tộc được thể
hiện trong tất cả các lĩnh vực của đơi sống, ý thức thuộc về một dân tộc, cách
tư duy, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng tạo trong nền văn hóa khoa học”
[40, 18 – 19]. Hay bản sắc dân tộc là những yếu tố độc đáo, yếu tố đặc sắc của
một nền văn hóa, biểu hiện “đặc tính dân tộc”, “cốt cách dân tộc” (Hồ Chí
Minh). “Là cái căn cước, cái chứng chỉ của một dân tộc. Nó chỉ rõ anh là ai,
thiếu nó, anh khơng tồn tại như một giá trị” [37, 32]. Bản sắc dân tộc tạo nên
sức manh cố kết, duy trì và phát triển đời sống một cộng đồng với tư cách là
một dân tộc, là bộ “gen” bảo tồn dân tộc. Bản sắc dân tộc thể hiện ở truyền
thống, bản lĩnh, tâm hồn, lối sống, cách nghĩ, cách suy tư và cả nhưng khác
vọng, biểu tượng của một dân tộc.
Bản sắc dân tộc là tập hợp những đặc trưng cho một quốc gia. Tuy
nhiên, khi nói bản sắc của một dân tộc thì chủ yếu là nói bản sắc văn hóa của
dân tộc đó, hay bản sắc văn hóa dân tộc là cốt lõi của bản sắc dân tộc. Bản sắc
dân tộc không phải là cái trừu tượng, nhất thành bất biến mà nó được hình


14

thành, phát triển gắn với từng bước phát triển của cộng đồng dân tộc, điều
kiện địa ly tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng quốc gia dân tộc. Bản sắc văn
hóa dân tộc chủ yếu nằm trong cốt cách, tâm hồn của con người, thể hiện ra
trong mọi mặt đời sống, cũng như trong mọi hoạt động, mọi quan hệ của con

người và trong di sản văn hóa của cộng đồng dân tộc.
Bản sắc dân tộc có thể bao gồm cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Nhưng
nói bản sắc văn hóa dân tộc thì chỉ bao gồm mặt tích cực như hạt nhân của
tinh thần sáng tạo của dân tộc đó trong lịch sử cũng như trong hiện tại. Bản
sắc văn hóa dân tộc là hệ giá trị của dân tộc được sáng tạo, được vun đắp và
lưu truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Dựa vào các quan niệm về bản sắc dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc
nêu trên, từ góc độ tiếp cận của chủ nghĩa xã hội khoa học, có thể quan niệm:
bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị đặc trưng để phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác. Những giá trị đó nằm chủ yếu trong tâm thức, trong cốt
cách của con người và được thể hiện ra trong mọi mặt đời sống, cũng như
trong mọi hoạt động, mọi quan hệ của con ngườivà trong di sản văn hóa mỗi
dân tộc..
Thế giới ngày nay có hơn 200 quốc gia nhưng khơng phải quốc gia dân
tộc nào cũng có nền văn hóa với bản sắc riêng. Nhà sử học nổi tiếng người
Anh Arnold Toynbee chuyên nghiên cứu các nền văn minh nhân loại đã nhận
định: “Trên thế giới có hàng trăm quốc gia, hàng ngàn dân tộc nhưng chỉ có
34 nền văn minh khác biệt nhau, mang bản sắc độc đáo, rõ rệt, và nền văn
minh Việt Nam là một trong 34 nền văn minh ấy” [34, 57]. Đảng ta khang
định: “Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ, kiên cường, nhân ta
đã xây đắp nên một nền văn hóa kết tinh sức mạnh và in đậm dấu ấn bản sắc
của dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trường tồn cua dân tộc Việt
Nam” [14, 6].


15

Vậy, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là gì ? Trong Văn kiện Hội
nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (1998) đã nêu rõ bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam: “Bao gồm những giá trị bền vững, những tinh

hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý
chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân –
gia đình – làng xã – Tổ quốc; lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo
lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản
dị trong lối sống... Bản sắc dân toc còn đậm nét trong các hình thức biểu hiện
mang tính dân tộc độc đáo” [14, 56].
Hệ các giá trị trong bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tất yếu vừa về
mặt địa lý, vừa về mặt lịch sử:
Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc
Lịng u nước được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt
Nam từ thời cổ đại đến hiện đại. Ở đây bản chất Việt Nam biểu lộ rõ ràng,
đầy đủ, tập trung nhất của các mối quan hệ giữa người và tự nhiên, giữa người
với người và giữa cá nhân với cộng đồng.
Trải qua những biến cố thăng trầm lịch sử dân tộc Việt Nam đã làm nổi
bật lên tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ sự trường tồn của
đất nước. Giá trị yêu nước cũng như tình cảm yêu nước là giá trị lớn nhất của
dân tộc Việt Nam, là sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam. Đối với người
Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh bảo vệ, giải phóng đất nước, Tổ quốc là
trên hết. Phụng sự Tổ quốc như một điều vinh dự và thiêng liêng. Có thể nói,
dân tộc Việt Nam cả một tơn giáo tơn vinh các anh hùng vì nước – tục thờ
cúng các anh hùng, khắp đất nước Việt Nam – đều ghi dấu các chiến tích yêu
nước. Cả nước như một bảo tàng lịch sử chiến tranh giải phóng dân tộc, dày
đặc các di tích về các chiến cơng anh hùng.


16

Phẩm chất hàng đầu của người Việt Nam là trung với nước. “Người
Việt Nam đánh giá một học thuyết không phải xuất phát từ tiêu chuẩn bên

trong của nó, mà xuất phát từ lợi ích của Tổ quốc. Học thuyết nào cứu được
nước, giúp được dân thì sẽ được ưu thích, lựa chọn. Đạo đức vi mơ phải nằm
dưới đạo đức vĩ mô. Hiếu với bố mẹ chưa đủ, mà còn phải hiếu với dân tức là
hiếu với nước, gọi là đại hiếu. Có cả một nền văn học yêu nước với khối
lượng đồ sộ trong cả thời kỳ lịch sử, cũng như cả một tín ngưỡng thờ anh
hùng cứu nước” [37, 184].
Lịch sử Việt Nam có hai đặc điểm nổi bật: “Một là, nước ta xuất hiện
rất sớm từ thời thượng cổ. Hai là, nhìn đại thể, lịch sử nước ta là một chuỗi
dài những cuộc khởi nghĩa và những cuộc chiến tranh chống đô hộ, chống lại
sự xâm lược của những nước lớn mạnh hơn nước ta gấp mấy chục lần. Hai
đặc điểm ấy quyết định sự sinh nở, sự phát triển của chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, một chủ nghĩa yêu nước xuất hiện rất sớm và luôn luôn được củng cố
và trở thành một thứ vũ khí tinh thần mạnh mẽ. Tình cảm và tư tưởng yêu
nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam”
[2, 16].
Tình cảm yêu nước đã được dân tộc ta nâng lên thành chủ nghĩa yêu
nước trở thành thứ “vũ khí” sức mạnh tinh thần giúp dân tộc vượt qua mọi kẻ
thù xâm lược. Chủ nghĩa yêu nước là truyền thống cao nhất của dân tộc ta.
Chủ nghĩa yêu nước là kết tinh tư tưởng, bản lĩnh của nhân dân ta trong quá
trình đấu tranh chống lại thiên nhiên khắc nghiệt để dựng nước, và trong các
cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giữ nước. Đó là “lịng tha thiết u
làng xóm, q hương, đất nước. Đó là sự quý trọng tiếng nói, nền văn hóa và
các phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, là ý thức tập thể, đồn kết, tình
nghĩa đồng bào, gắn bó trong một cộng đồng dân tộc. Đó là ý thức chủ quyền
và tồn vẹn lãnh thổ của đất nước” [2, 16].


17

Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam bắt nguồn và phát triển từ thời

vua Hùng dựng nước, từ tinh thần của Hai Bà Trưng “đền nợ nước, trả thù
nhà”, Bà Triệu “không chịu cúi đầu, khom lưng làm tỳ thiếp cho người”.
Lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam từ thời Lý Thường Kiệt đã khẳng định
thành văn: “Ý chí bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc và sự tồn vẹn lãnh thổ
quốc gia” [2, 17]. Lịng u nước của dan tộc Việt Nam mang đầy đủ nhân
tính và nhân cách của con người Việt Nam. Yêu nước, quý trọng độc lập tự
do đã trở thành lẽ sống, phẩm chất đạo đức truyền thống của người dân nước
ta, của toàn thể dân tộc ta, trở thanh một triết lý xã hội và nhân sinh của người
Việt Nam. Đất nước, q hương Việt Nam chính là cơng sức tạo nên từ đơi
bàn tay tần tảo vượt qua khó khăn trải qua các cuộc khai hoang mở rộng bờ
cõi. Vì thế, những gì có được trên mảnh đất này là mồ hôi, công sức của bao
thế hệ con người, là tài sản quý giá, trân trọng của dân tộc. Cho nên khi kẻ thù
xâm lược đụng đến quốc gia, tức là đụng đến quê hương, tổ tiên, dòng tộc và
những gì hiện hữu trong cuộc sống của người Việt. Chính điều đó đã thơi thúc
tinh thần u nước: “Nước mất nhà tan”, không chịu khuất phục trước kẻ thù,
trở thành khí phách hào hùng của một dân tộc. Trong kho tàng văn học dân
gian Việt Nam đã để lại hình ảnh Thánh Giống dùng tre đánh giặc, hay lật
từng trang sử Việt Nam thấm đượm nét dũng cảm hiên ngang của Hai Bà
Trưng, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung. Nguyễn Trãi
cũng đã từng thốt lên: “Anh hùng hào kiệt đời nào cũng có”… tất cả họ đã
cùng nhân dân làm nên lịch sử vẻ vang giữ yên bờ cõi, đem đến cuộc sống ấm
no cho nhân dân. Về tinh thần yêu nước và sức mạnh của tinh thần u nước
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã từng nói: “Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng thì tinh thần ấy lại càng sơi nổi, nó kết tinh thành một làng sóng vơ
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó vượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [27, 171]. Một nhà báo Pháp, ông


18


R.Ghilanh cũng đã từng nhận định giá trị yêu nước, ý chí tự cường của người
Việt Nam khi viết về cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân Việt
Nam: “Nhân tố chủ yếu của cuộc chiến tranh này là cái nhân tố mà khơng có
một bộ máy điện tử nào của Mỹ có thể tính nổi, nhưng đó lại là nhân tố quyết
định: khả năng chịu đựng gian khổ phi thường của người Việt Nam. Khả nang
này là phẩm chất vốn có của người Việt Nam. Phẩm chất này phát triển ở
người Việt Nam nhờ ý chí tự cường và lịng u nước cực kỳ mãnh liệt” [18,
388].
Tóm lại, lịng yêu nước, ý chí tự cường dân tộc của bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam có thể hiểu đó là yêu làng quê, yêu phố phường, yêu vùng đất,
vùng biển, vùng trời Tổ quốc; là yêu thương, gắn bó máu thịt với đồng bào,
đồng chí; là quyết tâm bảo vệ toàn vẹn độc lập chu quyền đất nước, quyền tự
do, dân chủ và cơng cuộc lao động hịa bình của nhân dân; là nỗ lực lao động,
phấn đấu vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, mọi người dân
đều được ấm no, hạnh phúc…
Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - làng xã - Tổ
quốc
Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - làng xã - Tổ
quốc là một nét của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Đất nước ta, một dải
đất hep nằm trọn trong vành đai nhiệt đới gió mùa, quay mặt ra biển Đông,
lưng tựa vào Trường Sơn hùng vĩ. Do điều kiện địa lý, tự nhiên và vị trí quan
trọng của mảnh đất này, những cư dân người Việt từ thuở xa xưa vừa được
thưa hưởng sự ưu đãi của đất trời, vừa phải đối mặt với những thử thách khắc
nghiệt của thiên tai, địch họa. Lịch sử dựng nước và giữ nước diễn ra trên
mảnh đất này là sự nối tiếp hàng ngàn năm những cuộc đấu tranh khong mệt
mỏi chống hạn hán, bão lũ, chống chiến tranh xâm lược của các thế lực nước
ngoài. Từ trong cuộc đấu tranh trường kỳ đó đã sớm nảy sinh và định hình ý


19


thức cộng đồng, ý thức tập thể, và cao hơn là ý thức dân toc. Ý thức này ngấm
vào máu thịt của con người Việt Nam và được trao truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác, để tạo thành truyền thống đoàn kết trên nền tảng chủ nghĩa yêu
nước. Đồng thời, Việt Nam là một quốc gia đa dan tộc. Từ lâu đời, các dân
tộc trong đại gia đình Việt Nam đã gắn bó số phận vào vận mệnh chung của
Tổ quốc, cố kết lao động, đấu tranh chống thiên tai, địch họa, dựng nước và
giữ nước, làm nên lịch sử chung, xây nên nền văn hóa chung. Quá trình đồn
kết chặt chẽ cùng gánh vác sứ mệnh chung ấy tạo dựng nên và ngày càng
được củng cố, phát triển hơn ý thức cộng đồng của mỗi dân tộc anh em trong
đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Ý thức cộng đồng đây là gia tộc, làng xóm, cái hàng hội đủ loại. Cộng
đồng lớn nhất là xã hội và quốc gia. Ý thức cội nguồn của người Việt Nam rất
sâu nặng. Đó là ý thức về cội nguồn chung từ một bọc của Âu Cơ, cùng có
một ơng tổ Hùng Vương. Đoàn kết được coi là một chuẩn mực đạo đức.
Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – làng xã – Tổ
quốc, với các thế hệ người Việt Nam đã trở thành một triết lý nhân sinh:
“ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Những giá trị nhân bản sâu sắc và q giá đó khơng chỉ được phản ánh
trong kho tàng văn học dân gian, mà còn được những người anh hùng dân tộc
(Lê Lợi, Quang Trung...) đúc kết, nâng lên thành kinh nghiệm, thành phép trị
nước và đánh giặc: “Trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “Tướng sĩ một
lòng phụ tử”...
Do vậy, ý thức gắn kết cá nhân - làng - nước được hình thành từ rất
sớm và tồn tại lâu dài cùng với hành trình dân tộc. Tinh thần đồn kết, ý thức
cộng đồng gắn kết cá nhân - làng xã - Tổ quốc “là cốt lõi của những giá trị
truyền thống trong văn hóa Việt Nam” [17, 93], là nguồn sức mạnh nội sinh



20

đặc biệt quan trọng của dân tộc Việt Nam, góp phần làm cho dân tộc trường
tồn và lớn mạnh.
Lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý
“Dân tộc ta là một dân tộc giàu lịng đồng tình bác ái” [26, 160]. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sớm đẳng định truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc và
chính người là đỉnh cao, là tinh hoa của tinh thần khoan dung, nhân ái Việt
Nam.
Nằm ở cửa ngõ của sự giao lưu văn hóa Đơng sang Tây, từ Bắc xuống
Nam, dân tộc ta từ khi lập quốc đã mở rộng cửa đón nhận ảnh hưởng của các
nền văn hóa khu vực: văn hóa Đơng Nam Á, Ấn Độ, Trung Hoa và sau này là
văn hóa phương Tây. Các học thuyết và tôn giáo như Nho, Phật, Lão, Thiên
Chúa giáo vào Việt Nam đều khúc xạ qua chủ nghĩa yêu nước truyền thống để
đạt tới sự kết hợp tôn giáo và Tổ quốc: yêu nước, kính chúa, tốt đời, đẹp đạo.
Những yếu tố tích cực của các học thuyết va tơn giáo đó đều được nhân dân ta
khai thác, sử dụng, bổ sung cho nhau để phục vụ cho sự hoàn thiện của con
người. Nho cần có tu thân, trị nước. Phật an ủi đời sống tâm linh con người.
Lão kêu gọi con người sống hài hòa với thiên nhiên. Chúa Giêsu đề cao lịng
bác ái… Chính nhờ đó, con người Việt Nam đã đạt tới sự kết hợp hài hòa
giữa con người với thiên nhiên, cá nhân với cộng đồng, gia đình với Tổ quốc,
đạo với đời… Đó cũng là cơ sở để hình thành nên tinh thần văn hóa khoan
dung, nhân ái Việt Nam.
Lòng nhân ái của con người Việt Nam khác với cái “Nhân” của Khổng
Tử. “Nhân” Việt Nam là “tình thương”, như “Thương người như thể thương
thân”, “Thấy đói rach thì thương”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng – Người trong
một nước thì thương nhau cùng”. Tình thương thể hiện trong thể chế xã hội và
thành luật nước, luật làng về an ninh xã hội. Nhân ái Việt Nam là tình nghĩa.



×