Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tài liệu Thị trường giao sau docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.07 KB, 36 trang )

1. trước hết, ta cần phân biệt sự khác biệt giữa hợp đồng tương lai và hợp đồng kỳ
hạn
Hợp đồng tương lai cũng như hợp đồng kỳ hạn, khác với options (có quyền không
cần thực hiện hợp đồng) ở chỗ là có sự bắt buộc phải thực hiện hợp đồng vào ngày
giao hàng đã thỏa thuận trước. Bên mua của hợp đồng được gọi là bên giữ thế
trường vị (long position) của hợp đồng, bên bán của hợp đồng được gọi là bên giữ
thế đoản vị (short position) của hợp đồng. Cả hai loại hợp đồng đều được ấn định
rõ loại hàng hóa, số lượng, chất lượng, giá tương lai, ngày giao hàng và địa điểm
giao hàng. Cả hai đều là một trò chơi có tổng bằng 0, khoản lời của bên này chính
là khoản lỗ của bên kia. Tuy vậy, giữa chúng cũng có một vài điểm khác biệt sau:
- Hợp đồng tương lai là hợp đồng được tiêu chuẩn hóa, chỉ có giá là được thỏa
thuận, mỗi hợp đổng đều được quy định một số lượng hàng hóa nhất định (gọi là
contract size),ngày giao hàng và nơi giao hàng được ấn định cụ thể trên thị trường,
không có sự đàm phán giữa hai bên tham gia vào hợp đồng. Ngược lại,mọi đều
khoản của hợp đồng kỳ hạn đều có thể được thỏa thuận, đàm phán giữa hai bên.
- Hợp đồng tương lai được giao dịch trên các thị trường tương lai. Các bên có thể
kết thúc hoặc chấm dứt vị thế của mình một cách dễ dàng. Bên giữ thế trường vị
(người mua) có thể kết thúc vị thế của mình bằng cách bán lại hợp đồng tương lai
với cùng loại hàng hóa và cùng ngày giao hàng. Ngược lại,bên giữ thế đoản vị
(người bán) cũng có thể kết thúc vị thế của mình bằng cách mua một hợp đồng
tương lai tương tự. Ngược lại, ngoài thị trường hợp đồng kỳ hạn lãi suất và thị
trường kỳ hạn ngoại tệ, hầu hết các thị trường kỳ hạn đều rất kém thanh khoản.
- Khả năng bị phá vỡ hợp đồng trong hợp đồng tương lai thấp hơn nhiều so với
hợp đồng kỳ hạn,thậm chí nó là con số 0. Các trung tâm thanh toán bù trừ
(clearing house) sẽ đóng vai trò như là một bên trung gian cho cả người bán và
người mua.Nghĩa là,nếu Bên A muốn mua một hợp đồng tương lai, anh ta có thể
mua nó từ trung tâm thanh toán bù trừ;nếu bên B muốn bán một hợp đồng tương
lai, anh ta có thể bán nó cho trung tâm thanh toán bù trừ.Trung tâm thanh toán bù
trừ là một bên trong hợp đồng tương lai, nó luôn công bằng cho cả người bán và
người mua theo những qui tắc đã được đặt ra
1


- Chỉ 1-5% số hợp đồng tương lai trên thị trường thực sự được giao dich (diễn ra
việc giao hàng giữa các bên), còn lại hầu như chỉ diễn ra sự thanh toán lãi lỗ giữa
các bên. Ngược lại, hầu hết mọi hợp đồng kỳ hạn đều diễn ra việc giao hàng thực
sự giữa các bên.
- Hợp đồng tương lai được tái thanh toán hằng ngày, và được ấn định, ghi nhận
trên thị trường, nên các khoản lời lỗ được nhận biết hằng ngày. Còn hợp đồng kỳ
hạn chỉ có thể nhận biết rõ lời lỗ vào ngày giao hàng trong tương lai. Vì vậy, khả
năng xuất hiện một khoản lỗ lớn vào ngày giao hàng là rất cao, nên khả năng
người bị lỗ sẽ tìm cách để phá vỡ hợp đồng cũng rất cao à rủi ro phá vỡ hợp đồng
kỳ hạn là cao hơn rất nhiều so với hợp đồng tương lai (hầu như là con số 0). Do
đó, để tham gia vào các hợp đồng tương lai, cần có một khoản tiền ký quỹ trong
tài khoản và ấn định tới thị trường để đảm bảo việc tuân thủ hợp đồng giữa các
bên.
2. Những yêu cầu về ký qũy (margin)
Để tham gia giao dịch các hợp đồng tương lai, người giao dịch cần một khoản tiền
ký gửi để đảm bảo các bên tuân theo những điều kiện của hợp đồng. Khoản tiền
này được gọi là tiền ký quỹ. Mỗi sở giao dịch tương lai sẽ đưa ra những yêu cầu
ký quỹ ban đầu (initial margin) tối thiểu để có thể giao dịch ở đó. Khoản ký quỹ
ban đầu là khoản tiền phải gửi vào trong tài khoản giao dịch (hay còn gọi là tài
khoản ký quỹ) khi muốn mua hay bán. Khoản ký quỹ ban đầu này phụ thuộc vào
mỗi sở giao dịch, mỗi loại hàng hóa,và giá tương lai của hàng hóa đó đang được
giao dịch ở hiện tại và các dữ liệu trong quá khứ.
Sau một thời gian giao dịch, nếu nếu tiền trong tài khoản giảm tới bằng hoặc dưới
mức ký quỹ duy trì (maintenance margin) theo qui định (mức này tùy thuộc vào
qui định của các sở giao dịch và loại hàng hóa giao dịch), thì phải chuyển thêm
tiền vào tài khoản để đưa tiền trong tài khoản về mức ký quỹ ban đầu.
Ví dụ: Để giao dịch một hợp đồng tương lai dầu mỏ 100 thùng dầu bạn cần một số
tiền ký quỹ ban đầu (initial margin) là $1000, mức ký quỹ duy trì (maintenance
margin) là $750, giả sử bạn ở thế bên mua của hợp đồng, sau đó ngày mai giá dầu
tương lai thay đổi bất lợi cho bạn,tức giảm $2,7/thùng à bạn lỗ $2,7*100 = $270.

2
Lúc này tiền trong tài khoản của bạn còn $730, dưới mức $750, để được tiếp tục
tham gia giao dịch, bạn cần phải gửi vào tài khoản ký quỹ $270 để trở về mức ký
quỹ ban đầu là $1000.Khoản tiền $270 để đáp ứng giấy gọi ký quỹ (margin call)
được gọi là khoản bù đắp ký quỹ (variation margin). Một người giao dịch mà
không thực hiện nhanh theo giấy gọi theo một khoản thời gian qui định sẽ bị thanh
lý hay chấm đứt vị trí bởi FCM (Futures commission merchant).
Lưu ý: Khi bạn nhận được giấy gọi ký quỹ thì bạn phải thực hiện nó, ngay cả khi
giá tương lai của ngày tiếp theo thay đổi theo hướng có lợi cho bạn. Tức là, cũng
với ví dụ trên, giả sử giá hợp đồng tương lai của dầu giảm $2,7/thùng vào ngày t.
Ngày t +1, bạn ở thế người mua sẽ nhận được một giấy gọi, lúc này sẽ không xét
đến giá dầu tương lai của ngày t +1. Dù giá dầu tương lai có tăng trên $0,2/thùng
vào cuối ngày t, bạn vẫn phải gửi $270 vào tài khoản của mình.
Các FCM thường đưa ra các mức yêu cầu ký quỹ ban đầu hoặc mức ký quỹ duy trì
cao hơn mức mà các sở giao dịch tương lai qui định. Các mức này cũng thường
khác nhau tùy thuộc vào người tham gia giao dịch để phòng hộ hay để dầu cơ hay
để hưởng chênh lệch nhỏ. Những người đầu cơ thường bị yêu cầu các mức ký quỹ
cao hơn 2 đối tượng kia để đảm bảo thanh toán cho các khoản lỗ lớn hơn.
Khoản ký quỹ ban đầu ngoài tiền mặt (không được hưởng lãi suất), thì trái phiếu
chính phủ hay thư tín dụng (được hưởng lãi suất) cũng được chấp nhận, nhưng các
khoản bù đắp ký quỹ thì phải bằng tiền mặt.
Khoản ký quỹ để giao dịch tương lai dùng để thanh toán các khoản lỗ trong giao
dịch, chứ không phải để thanh toán hàng hóa, nó khác với khoản ký quỹ trong các
giao dịch trái phiếu, cổ phiếu dùng dể thanh toán cho việc mua bán các chứng
khoán đó.
3. Theo dõi, ghi nhận trên thị trường (marking to market)
Mọi vị trí của người giao dịch tương lai đều được theo dõi và ghi nhận trên thị
trường hằng ngày.Qui trình này đôi khi được gọi là tái thanh toán hằng ngày (daily
resettlement). Nghĩa là,lãi hay lỗ sẽ được ghi nhận hằng ngày.Việc nhận biết Lãi
và lỗ dựa vào giá thanh toán hằng ngày vào giá tại thời điểm đóng cửa của ngày

3
giao dịch (giá tương lai lúc đóng cửa).Nếu tiền trong tài khoản dưới mức duy trì
thì bạn phải gửi tiền vào tài khoản để đưa về khoản ký quỹ ban đẩu.
* F(0,T) : Giá tương lai khi hợp đồng bắt đầu
* S(T) = F(T,T): Giá giao ngay vào ngày giao hàng
* |F(0,T) – S(T)|: Khoản lời hay lỗ trên 1 đơn vị tài sản cơ sở của hợp đồng kỳ
hạn.
* |F(0,T) – F(1,T)|: dòng tiền được ghi nhận trên thị trường hằng ngày, cũng là sự
thay đổi giá tương lai từ 1 ngày đến ngày tiếp theo.
Quá trình tái thanh toán hằng ngày làm hợp đồng tương lai giống như là một chuỗi
các hợp đồng kỳ hạn 1 ngày có F(1,T) = S(T) = F(1,1) = S(1).Mỗi ngày, hợp đồng
kỳ hạn được thanh toán, lời, lỗ được nhận biết, và một hợp đồng kỳ hạn 1 ngày
mới được tạo ra. Tổng dòng tiền cuối cùng cho hợp đồng tương lai sẽ bằng khoản
lời hoặc lỗ của một hợp đồng kỳ hạn với khoản thời gian giao hàng tương tự nhau.
Việc ghi nhận, theo dõi, ấn định trên thị trường giúp giảm thiểu nguy cơ rủi ro phá
vỡ hợp đồng đến mức thấp nhất. Sẽ không có sự gia tăng giá trị tài sản cho một
bên và tăng giá trị nợ cho bên kia như hợp đồng kỳ hạn.
Ví dụ:Vào ngày 6-11-2001, bạn bán (tức bạn giữ thế trường vị) một hợp dồng
tương lai 100 once vàng giao hàng vào tháng 12-2001,hợp đồng của bạn được bán
lúc 10 giờ,lúc ấy giá tương lai là $285/once. Khoản yêu cầu ký quỹ ban dầu là
$1000, tổng số tiền được chuyển từ tài khoản tiền mặt sang tài khoản ký quỹ. Giá
thanh toán lúc đóng cửa ngày 6-11-2001 là $286,40/once.Tài khoản của bạn được
ấn định trên thị trường. Tiền của bạn trong tài khoản vào cuối ngày 6-11 sẽ là
$860,vì bạn đã bị lỗ $140 ( |$286,40 – $285|*100) ở thế đoản vị của hợp đồng.Vào
các ngày tiếp theo,tài khoản được tiếp tục được ghi nhận trên thị trường. Nếu giá
tương lai giảm, tiền trong tài khoản của bạn sẽ tăng, và ngược lại.Mức ký quỹ duy
trì là $750.
4. Các sở giao dịch tương lai lớn trên thế giới và mục đích của thị trường
tương lai
a. Thị trường tương lai tồn tại vì những lý do sau:

4
- Giúp cho các giao dịch xuyên thời gian trở nên dễ dàng hơn. Sản xuất, tiêu dùng
và các quyết định kinh doanh trở nên tối ưu hơn khi có thị trường tương lai. Nó
cho phép các cá nhân thực hiện các hợp đồng chi phí thấp một cách nhanh chóng
để trao đổi tiền-hàng trong tương lai. Những người phòng hộ và đầu cơ sẽ giao
dịch trên thị trường tương lai khi tốc độ là quan trọng.
- Hợp đồng tương lai cho các cá nhân biết để họ hành động dựa vào những thông
tin hảo hạn..Bằng cách này,giá sẽ trở nên hiệu quả hơn. Hay nói cách khác,giá sẽ
phản ánh thong tin đầy dủ hơn và nguồn tài nguyên sẽ được phân chia một cách
tối ưu.
- Hợp đồng tương lai cho phép các cá nhân phòng ngừa rủi ro biến động giá. Các
nhà sản xuất và người sử dụng sau đó có thể làm những gì tốt nhất. Những người
phòng hộ sẽ chuyển rủi ro sang những người đầu cơ. Sự không chắc chắn về giá
trong tương lai là những điều kiện để các hợp đồng tương lai giao dịch thành
công. Thu hút cả những người đầu cơ và những người phòng ngừa rủi ro.
- Giá tương lai thường chứa đựng thông tin bên trong nó, thường được gọi là chức
năng “khám phá giá” của hợp đồng tương lai.Nhà sản xuất và người tiêu dung có
thể có những nhận định hiệu quả nhất về cung cầu hàng hóa trong tương lai, giá
giao ngay tương lai sẽ như thế nào,bằng cách xem xét giá tương lai vào thời điểm
hiện tại ra sao.Từ đó,họ có thể đưa ra những quyết định sản xuất và dự trữ tốt
nhất.
5. Các loại lệnh để giao dịch tương lai:
Tất cả các lệnh để giao dịch hợp đồng tương lai có những điểm chung sau:
- Là lệnh mua hay lệnh bán.
- Tên của hàng hóa.
- Năm và tháng giao hàng của hợp đồng.
- Số lượng hợp đồng.
- Nơi (sở) mà hợp đồng giao dịch (nếu nó được giao dịch trên các sở liên thông
với nhau).
- Là lệnh giới hạn hay lệnh thị tường

- Là lệnh ngày (day order- là lệnh tự huỷ vào cuối ngày giao dịch nếu nó không
được thực hiện) hay lệnh không tự hủy.
5
Một số lệnh phổ biến thường gặp:
sell_buy.jpg- Lệnh thị trường (Market order) : Là lệnh mua bán mà không có một
mức giá rõ ràng được ấn định.Nếu một người đặt một lệnh thị trường để mua hoặc
bán, người đó sẽ vào một thế trường vị hay đoản vị ở mức giá đang có lợi thế ở
khu vực giao dịch tương lai vào lúc đó.Khi nhận được một lệnh, một đại diện của
FCM của người giao dịch sẽ đi dến khu vực mà hợp đồng tương lai đó được giao
dịch và cố gắng đạt dược một mức giá tốt nhất có thể,dựa vào tình hình cung cầu
trên thị trườn lúc đó.Có một rủi ro là trong một thị trường “nhanh”,giá giao dịch sẽ
khá khác giá dược ấn định tới khách hàng bởi FCM chỉ sớm hơn một hoặc hai
phút.
- Lệnh giới hạn (Limit order) : Là lệnh mua bán ở một mức giá được ấn định cụ
thể,nhưng có rủi ro là đôi khi lệnh không được thi hành.
- Lệnh Market-if-touched (MIT order) : gần giống như lệnh giới hạn,chỉ khác ở
chỗ nó sẽ trở thành lệnh thị trường khi một giao dịch ở mức giá được ấn định đó
xảy ra.Ví dụ,một lệnh mua MIT mặt hàng vàng với giá được định rõ là $273,4/oz
sẽ trở thành lệnh thị trường ngay khi một giao dịch ở mức giá đó được thực
hiện.Người giao dịch có thể khớp ở mức giá đó, hoặc trên hoặc dưới mức giá
đó.Trong thị trường đang giảm nhanh, những giao dịch tiếp theo sau khi đặt lệnh
mua MIT thường là ở mức $275; $272,6; $270,8. Giao dịch nên được thực hiện ở
bất kỳ mức giá nào tồn tại sau cái giao dịch ở mức giá $272,6.Trong trường hợp
này thì nên là $270.
- Lệnh Ngừng (Stop order): còn được gọi là lệnh cắt lỗ hay lenh ban tu dong
(Stop-loss-orders), cũng được định rõ một mức giá. Có hai loại là lệnh ngừng để
mua và lệnh ngừng để bán.Lệnh ngừng để mua thường được đặt bởi người đang ở
thế đoản vị một hợp đồng và muốn hạn chế khoản lỗ của anh ta khi giá bắt đầu
tăng. Vì vậy,lệnh ngừng để mua được đặt ở mức giá được ấn định trên mức giá
tương lai hiện tại, và sẽ trở thành lệnh thị trường khi giá tương lai bằng hoặc lớn

hơn giá được ấn định đó.Ngược lại,lệnh ngừng bán được dặt ở mức giá dưới giá
tương lai hiện tại.
Ví dụ: Một người mua lần đầu một hợp Trái phiếu chính phủ với giá $100/trái
phiếu. Sau khi giao dịch được thực hiện, anh ta có thể đặt một lệnh ngừng để mua
ở mức giá $105/trái phiếu nhằm hạn chế khoản lỗ của anh ta do lo sợ giá tương lai
của nó sẽ tăng ngược với mong đợi của anh ta là giá sẽ giảm. Nếu có một giao
dịch được thực hiện ở mức giá là $105/trái phiếu, thì sau đó lệnh của anh ta sẽ trở
thành lệnh thị trường mua, và anh ta sẽ phải bù đắp thế đoản vị của mình ở mức
6
giá tiếp theo, bất cứ mức giá nào.
Lưu ý: Khác với lệnh ngừng để mua, lệnh giới hạn mua sẽ định rõ một mức giá
dưới giá hiện tại.Trong trường hợp này người giao dịch muốn bắt đầu thế trường
vị ở một mức giá tương lai có lợi cho anh ta hơn.hoặc anh ta sẽ có được một
khoản lãi trên thế đoản vị hiện tại nếu giá tương lai giảm xuống tới mức giá mà
anh ta đã đặt.
- Lệnh giới hạn ngừng (Stop limit order): là lệnh sẽ trở thành lệnh giới hạn khi giá
được định rõ (giá đặt) được đạt đến. Vì vậy, trong ví dụ trên, nếu có một giao dịch
xảy ra ở mức giá $105/trái phiếu, một lệnh giới hạn ngừng mua sẽ giúp người giao
dịch chỉ phải bù đắp vị trí của mình ở mức $105/trái phiếu hay ở một mức tốt hơn
(dưới $105/trái phiếu). Một lệnh giới hạn ngừng thậm chí có thể định rõ một mức
giá ngừng khác giá giới hạn. Ví dụ,một người giao dịch có thể đặt mua lại hợp
đồng trái phiếu chính phủ với mức ngừng là $105/trái phiếu và mức giới hạn là
$102/trái phiếu, nghĩa là,khi có một giao dịch ở mức giá $105, người giao dịch sẽ
phải bù đắp thế đoản vị của anh ta,nhưng chỉ ở mức giá từ $102 đến $105. Điều
này rất quan trọng vì khi sử dụng lệnh giới hạn ngừng sẽ có rủi ro là không thực
hiện được giao dịch trong một vài điều kiện thị trường nhanh.
Còn khá nhiều loại lệnh nữa mà có thể được đặt ở các sở hay các thị trường giao
dịch khác. Lưu ý rằng cần xem xét xem loại lệnh nào sẽ được chấp nhận ở sở giao
dịch nào. Ví dụ như lệnh MIT được chấp nhận ở CME nhưng không được chấp
nhận ở CBOT. Thường thì các FCM sẽ cung cấp một bảng tóm tắt các loại lệnh

nào được chấp nhận ở các sở giao dịch khác nhau.
6. Các chủ thể trên thị trường tương lai
a. Những nhà đầu cơ (speculators):
Là những người chấp nhận rủi ro cao để tìm kiếm lợi nhuận cao từ sự giao động
giá.Họ có thể giữ thế trường vị (long position) hay đoản vị (short position) hay cả
hai vị thế cho cùng một hàng hóa (spread position).Có thể chia ra làm 2 loại nhà
đầu cơ:
- Nhà đầu cơ vị thế (position traders): họ thường vào các vị thế và giữ chúng trong
vài ngày, vài tuần, hay vài tháng.Họ thường sử dụng các phân tích kỹ thuật để dự
7
đoán sự biến động giá và xu hướng giá cả trong tương lai, từ đó sẽ vào các vị thế
thích hợp để tìm kiếm lợi nhuận. Hoặc những nhà đầu cơ khác lại sử dụng các
phân tích cơ bản để đưa ra nhận định về giá, họ thường sử dựa vào các dữ liệu
kinh tế vĩ mô để đưa ra các dự đoán về sự biến động giá.
- Nhà đầu cơ ngày (day traders): chỉ đầu cơ dựa vào sự biến động giá chỉ trong
một ngày giao dịch.Họ không bao giờ trở về nhà với một vị thế trong tay. Giao
dịch ngày thường tốn kém chi phí vì họ phải theo thông tin, biến động giá cả
thường xuyên, và tốn các chi phí cho những giao dịch trong suốt một ngày, với
mục đích kiếm được vài tick lợi nhuận trong một giao dịch.
b. Những người phòng hộ (Hedgers):
Là những người tham gia giao dịch tương lai để phòng ngừa các rủi ro do sự biến
động giá bất lợi cho họ. Ví dụ, một công ty Việt Nam phải mua 100.000 thùng dầu
với giá $60/thùng để bán qua Mỹ với giá kỳ vọng khoản $75/thùng, rủi ro hiển
hiện ở đây là trong suốt khoảng thời gian vận chuyển dầu qua Mỹ, giá dầu ở Mỹ
sẽ giảm xuống dưới $75/thùng sẽ làm giảm lợi nhuận, thậm chí là lỗ. Khi đó, để
hạn chế tối đa rủi ro,công ty này có thể bán hợp đồng tương lai (vào thế đoản vị)
dầu với cùng số lượng để phòng ngừa rủi ro.Nếu giá lúc giao hàng giảm,công ty sẽ
bị giảm lợi nhuận hay lỗ, nhưng sẽ được bù đắp bằng lợi nhuận ở hợp đồng tương
lai dầu. Đây là một ví dụ của phòng hộ đoản vị (short hedge).
Một ví dụ khác, một công ty ký hợp đồng bán nữ trang cho một nhà bán lẻ vào

tháng 1, giao hàng vào tháng 9. Nhưng vào thời điểm hiện tại, công ty không có
vàng nguyên liệu trong kho, và cũng không có đủ tiền mặt để mua vàng vào lúc
này,công ty dự tính rằng vào tháng 5 mới có thể đáp ứng được nguồn vàng nguyên
liệu để bắt đầu sản xuất,nhưng lo ngại từ đây đến đó giá vàng sẽ tăng, làm đội giá
sản phẩm đầu ra. Để phòng ngừa cho điều này, công ty có thể mua mua những
hợp đồng tương lai vàng để tránh rủi ro tăng giá vàng nguyên liệu. Đây là một ví
dụ của phòng hộ trường vị (long hedge).
c. Những người đầu cơ hưởng chênh lệch (Arbitrageurs):
Là những người tìm kiếm lợi nhuận bằng cách xem xét một loại hàng hóa nào đó
cùng những hàng hóa tương đương để bán hai giá khác nhau ở hai thị tường khác
nhau.Họ là những người dựa vào mối quan hệ giữa giá giao ngay và giá tương lai,
hay những biến động cung cầu nhất thời làm rối loạn giá để kiếm lợi nhuận từ
chênh lệch giữa giá giao ngay và giá tương lai.
d. Những đối tượng trên sàn giao dịch
Những người giao dịch trên các sàn giao dịch có thể được phân loại theo mục tiêu
8
và chức năng:
- Những người giao dịch sàn (Floor traders) : là những thành viên giao dịch các
hợp đồng tương lai ở các khu vực tương lai (futures pit). Những người giao dịch
tài khoản riêng của anh ta gọi là một local, họ tạo ra tính thanh khoản cho thị
trường vì họ hoạt động như những nhà đầu cơ (scalpers) giao dịch rất ngắn hạn.Họ
muốn mua hợp đồng tương lai ở giá đã đặt (bid) và nhanh chóng bán lại ở một
mức giá phù hợp (asked). Họ phải đăng ký với ủy ban giao dịch hàng hóa tương
lai (CFTC) để được hoạt động.
- Những nhà môi giới sàn (floor brokers) : giúp thi hành lệnh cho các bên ,ví dụ
như các FCM (Futures commission merchant), hoạt động gần giống như các công
ty môi giới chứng khoán, bằng cách thu phí giao dịch (khoảng $1 hay $2 mợt hợp
đồng).Họ cũng phải đăng ký với CFTC để được hoạt động.
- Một chủ thể nữa là những người giao dịch sàn mà hoạt động như cả một local và
một nhà mội giới, thường được gọi là dual trading. Họ thường thực hiện mua 2

hợp đồng trong một khỏang thời gian ngắn ở 2 mức giá khác nhau, 1 cho khách
hàng và 1 cho chính anh ta. Điều này gây ra những tranh cải về “tình trạng tiến
thoái lưỡng nan về đạo đức (ethical dilemma)”, nên để được phép hoạt động,anh
ta phải trải qua những thủ tục kiểm tra dài dòng và hệ thống kiểm soát nhằm hạn
chế sự lạm dụng của anh ta.
e. Những đối tượng khác tham gia trên thị trường
- Những người cộng tác (Associated persons-APs): là những cá nhân làm việc cho
FCM bằng cách nhận lệnh và chấp nhận lệnh. Gần giống những người môi giới
chứng khoán.
- Các nhà tư vấn giao dịch hàng hóa (Commodity trading advisers-CTAs): phân
tích thị trường tương lai, cung cấp thông tin, phát triển hệ thống giao dịch, đồng
thời đưa ra các lời khuyên, tư vấn cho các nhà giao dịch.
- Các nhà môi giới giới thiệu (Introducing brokers-IBs): Là những cá nhân trực
tiếp kinh doanh với các FCM và các CTA, nhưng chính họ không phải là các AP
và các CTA. Một IB thường chào mời và chuyển lệnh, khi một lệnh được nhận,nó
được đưa vào một FCM để thi hành.Những IB khác thì góp các khoản quỹ nhỏ
thành một khoản lớn để có thể trở thành một CTA mà đòi hỏi khoản đầu tư tối
thiểu lớn.
- Các nhà huy động quỹ hàng hóa (Commodity pool operators-CPOs): Hoạt động
như các quỹ tương hỗ trong thị trường chứng khoán, huy động vốn của các nhà
đầu tư nhỏ và sử dụng để giao dịch tương lai.
9
Các đối tượng này muốn tham gia thị trường tương lai cần phải đăng ký với CFTC
để được hoạt động.
7. Thuế và phí giao dịch
* Thuế (Taxes):
Mọi thông tin giao dịch trên thị trường tương lai (tất cả các vị thế trong các hợp
đồng tương lai,lời hay lỗ....) của các tài khoản giao dịch đều được ghi nhận, kiểm
soát, và kết sổ vào ngày giao dịch cuối cùng của năm (31 – 12) để tiện cho việc
tính thuế. Lưu ý rằng, theo luật, mã số thuế của một nhà đầu cơ có những qui định

khác với mã số của những người phòng hộ.Thường các nhà đầu cơ phải chịu bị
đánh thuế với tỷ lệ cao hơn những đối tượng còn lại.
* Phí giao dịch (Commissions):
Phí giao dịch chỉ được trả cho các FCM khi các giao dịch tương lai được bù đắp,
hoặc trong ngày giao hàng hoặc lúc tái thanh toán tiền mặt lần cuối.Phí giao dịch
trên một hợp đồng sẽ giảm khi nhiều hợp đồng hơn được giao dịch. Các FCM
thường tính một dịch vụ trọn gói là $100 dể giao dịch một hợp đồng. Các giao
dịch bình thường sau khi đã chiết khấu, giảm giá thường được các FCM tính từ
$15 đến $40 một hợp đồng khi vị trí kết thúc. Đối với các nhà giao dịch lớn như
các công ty cổ phần, ngân hàng, hay những công ty giao dịch chuyên nghiệp
thường được tính khoảng $10 một hợp đồng. Còn những người giao dịch sàn
thường chỉ phải trả khá ít, khoảng $1,5 một hợp đồng.
Kết luận
Thị trường tương lai là một dạng thị trường bậc cao của thị trường tài
chính, việc tham gia thị trường đòi hỏi các chủ thể phải có những hiểu biết
nhất định để có thể bảo vệ quyền lợi cũng như làm lợi tối đa cho chính
mình. Bài viết này chỉ đưa ra một số kiến thức căn bản về thị trường tương
lai qua tham khảo một số tài liệu. Hy vọng nó có thể đem lại cho các saganor
cái nhìn tổng quan về một dạng thị trường còn khá mới mẻ ở Việt Nam này.
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG GIAO SAU Ở VIỆT NAM
10
 Nội dung:
1. Giới thiệu
2. Vai trò của thị trường giao sau
3. Thực trạng TTGS ở Việt Nam
4. Nguyên nhân
5. Giải pháp
6. Phụ lục
1. Giới thiệu
2. Vai trò của thị trường giao sau

TTGS là một loại thị trường tài chính cao cấp, được các nhà chuyên môn đánh giá
rất cao ở mặt bảo hộ và đòn bẩy tài chính trong đầu tư. Sau khi Việt Nam hình thành
TTCK vào năm 2000, thì các nhà đầu tư háo hức, kỳ vọng vào việc hình thành các thị
trường phái sinh như thị trường quyền chọn và TTGS. Nhưng những khó khăn trong
TTCK đã phần nào đánh mất niềm tin của nhà đầu tư, mọi người bắt đầu thấy phân vân
khi tham gia vào các thị trường tài chính phức tạp. Tuy vậy, một số doanh nghiệp, nhà
nghiên cứu và ngay cả Chính phủ đã nhận ra được tính tất yếu của việc hình thành
TTGS tại Việt Nam, vấn đề chỉ là thời gian. Niềm lạc quan đó xuất phát từ những lợi
ích thiết thực mà TTGS mang lại cho các thành phần kinh tế cũng như cho chính nhà
nước. Vì trong những năm gần đây, chúng ta phải đối mặt với những rủi ro tự thân của
nền kinh tế thị trường; nào là sự rớt giá của cà phê, hạt tiêu, điều, sự biến động của giá
xăng dầu, giá vàng, thép, ngoại tệ, sự tuột dốc của TTCK… những rủi ro đó luôn đến
11
Việt Nam
 01 nước nông nghiệp truyền thống
 Rủi ro trượt giá VND so với ngoại tệ
 Rủi ro lãi suất, tỷ giá
 Tồn tại thị trường giao sau tại Việt Nam phải chăng cũng là một liều thuốc sức
mạnh cho cả nền kinh tế?
bất ngờ gây khó khăn cho các thành phần kinh tế cũng như vai trò quản lý kinh tế của
nhà nước. Để tránh những khó khăn trên, nhiều quốc gia đã xây dựng TTGS, nhà nước
quản lý kinh tế bằng cách hướng dẫn cho các thành phần kinh tế tự mình bảo vệ các rủi
ro có thể xảy ra thông qua TTGS. Có thể nói, TTGS mang lại 3 lợi ích: bảo hộ, đầu cơ
và ổn định giá thị trường. 3 lợi ích này tương ứng với người bảo hộ, người đầu cơ trong
các thành phần kinh tế và vai trò của nhà nước trong hoạt động quản lý, kiểm soát, điều
tiết thị trường.
Đối với các thành phần kinh tế
TTGS được hình thành với mục đích ban đầu là dành riêng cho những người bảo
hộ, nhưng dần dần lực lượng nhà đầu cơ tham gia thị trường ngày càng đông lấn át cả
những người bảo hộ. Những nhà đầu cơ mang lấy những rủi ro về giá cho người bảo hộ.

Trong TTGS, người đầu cơ chấp nhận rủi ro, cố gắng kiếm lời từ sự thay đổi giá; ngược
lại, người bảo hộ thì sử dụng TTGS để tránh rủi ro về giá.
- HĐGS đóng vai trò như một công cụ đầu tư.
Đây là một vai trò hết sức quan trọng của TTGS. Các nhà đầu tư sử dụng HĐGS
như một công cụ đầu cơ để kiếm lời, nhờ đó TTGS mới hoạt động liên tục, nhộn nhịp
và hiệu quả được. Sở dĩ người đầu cơ mạo hiểm chấp nhận rủi ro để tham gia TTGS là
vì công cụ đòn bẩy tài chính của TTGS.
Khi người đầu cơ tham gia vào TTGS, họ không phải bỏ ra đầy đủ số tiền như
mình đã ký kết trong hợp đồng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình, thay
vào đó là đóng tiền bảo chứng cho mỗi lần giao dịch. Các SGD trên thế giới đều buộc
những người tham gia đóng tiền bảo chứng (margin) và quy định cụ thể mức duy trì tài
khoản bảo chứng (maintenant margin) là mức tiền bảo chứng thấp nhất cho phép. Tuỳ
thuộc vào loại hàng hóa mà SGD quy định mức tiền bảo chứng cụ thể cho mỗi hợp
đồng; các bên đóng đầy đủ tiền bảo chứng là có thể an tâm rằng HĐGS mà mình ký kết
sẽ được thực hiện, trừ phi có lệnh gọi đóng thêm tiền khi tài khoản bảo chứng rớt xuống
dưới mức duy trì (maintenant margin). Càng lập nhiều hợp đồng thì phải đóng nhiều
tiền bảo chứng tương ứng với số lượng hợp đồng; ví dụ như một người lập 3 HĐGS thì
phải đóng một số tiền bảo chứng gấp 3 lần số tiền bảo chứng quy định cho một hợp
đồng đó.
12
Thông thường, mức tiền bảo chứng chỉ nằm trong khoảng từ 2% đến 20% giá trị
HĐGS tuỳ thuộc vào loại hàng hóa. Mức tiền bảo chứng càng thấp thì khả năng đòn bẩy
tài chính càng cao (????). Tiền bảo chứng chỉ là một tài khoản cam kết thi hành hợp
đồng ở một mức giá cụ thể, (không phải là chi phí cho việc lập HĐGS) do đó sự thay
đổi giá cả trên TTGS so với mức giá mà người đó đã thiết lập có thể ảnh hưởng đến tài
khoản bảo chứng.
Giả sử như một người ký thác vào công ty kinh doanh HĐGS một số tiền bảo
chứng là 2.500 USD để mua một HĐGS của một loại hàng hóa trị giá 10.000 USD và
mức duy trì tiền bảo chứng do SGD quy định là 1.500 USD. Trong trường hợp này thì
tài khoản bảo chứng bằng 25% giá trị hợp đồng. Nếu giá trị của hàng hóa cơ sở đó trên

TTGS tăng lên thành 11.000 USD, người đó thanh lý hợp đồng của mình thì thu về một
khoản lợi là 1.000 USD. Tương ứng với số vốn bỏ ra là 2.500 USD thì anh ta được lãi
40% thay vì chỉ lãi 10% nếu phải đóng đầy đủ toàn bộ số tiền tương ứng giá trị hợp
đồng. Nhưng ngược lại, nếu giá trị hàng hóa cơ sở trên TTGS giảm xuống còn 9.000
USD tương ứng với khoản lỗ là 1.000 USD thì dù anh ta chưa thanh lý hợp đồng nhưng
khoản lỗ đã làm cho tài khoản bảo chứng của anh ta dự kiến mất đi 1.000 USD, chạm
vào mức duy trì tài khoản bảo chứng. CQTL sẽ đưa thông báo gọi đóng tiền thông qua
công ty kinh doanh HĐGS mà anh có tài khoản để đảm bảo tài khoản bảo chứng đúng
như mức quy định. Nếu không đóng tiền thì CQTL tự động thanh lý hợp đồng đó,
khoản lỗ của anh ta lên đến 40% so với tiền đầu tư ban đầu.
Như vậy, đòn bẩy tài chính như là con dao hai lưỡi. Nó mang lại nhiều lợi nhuận
cho nhà đầu tư, giúp cho mọi người có thể kiếm lời từ sự thay đổi giá cả của các loại
hàng hóa. Ngược lại, nó cũng là nơi dành cho những người đầu cơ dám chấp nhận rủi ro
và là công cụ nguy hiểm cho các loại tội phạm tài chính. Trường hợp của quỹ Quantum
dùng đòn bẩy HĐGS để kinh doanh đã làm khủng hoảng nền kinh tế Thái Lan, các nước
khu vực Đông Nam Á vào năm 1997 là một ví dụ tiêu biểu cho sự thống nhất biện
chứng giữa rủi ro và lợi ích của HĐGS. Tuy vậy, những trường hợp như vậy chỉ là
những trường hợp cá biệt, vai trò của nó dành cho nhóm người bảo hộ còn rất lớn, đó là
lý do vì sao mà TTGS vẫn tồn tại và phát triển ngày càng mạnh mẽ.
- Bên cạnh đó, HĐGS còn có vai trò là một công cụ bảo hộ.
Nhóm người bảo hộ là tất cả những người sử dụng HĐGS để bảo hộ cho hoạt
động kinh doanh của mình, bao gồm: người sản xuất, người sở hữu hàng hóa, người
13
xuất khẩu, người nhập khẩu, các công ty, các công ty quản lý quỹ, các ngân hàng, các
công ty đa quốc gia và kể cả Chính phủ. Họ bảo hộ những rủi ro sau:
- Đối với sự biến đổi về giá cả hàng hóa đối với các nguyên vật liệu thô (về năng
lượng, kim loại, nông sản…). Người mua không muốn giá quá cao nên đã mua trước
bằng HĐGS ở một giá định trước, còn người bán thì không muốn giá cả rớt quá thấp
nên đã bán trước bằng HĐGS.
- Đối với sự thay đổi của tỷ giá hối đoái. Người nhập khẩu thì không muốn đồng ngoại

tệ thanh toán lên giá nên đã mua trước bằng HĐGS, trong khi người xuất khẩu thì không
mong muốn đồng ngoại tệ rớt giá bằng cách bán trước đồng ngoại tệ thanh toán bằng
HĐGS.
- Đối với sự thay đổi về lãi suất. Các nhà kinh tế đã chứng minh được rằng lãi suất
luôn đi ngược lại với giá trái phiếu Chính phủ. Lãi suất cao thì giá trái phiếu sẽ hạ,
ngược lại, nếu lãi suất hạ thì giá trái phiếu cao. Dựa vào tính chất đó mà các công ty, các
quỹ đầu tư hoặc kể cả Chính phủ thi hành các chính sách tài chính của mình sao cho ít
bị thiệt hại vì sự thay đổi về lãi suất. Chẳng hạn như một công ty muốn phát hành trái
phiếu nhưng sợ lãi suất thị trường lên thì công ty phải tốn nhiều tiền để trả lãi, công ty
thực hiện chiến lược bảo vệ bằng cách lập HĐGS bán trái phiếu Chính phủ trong tương
lai. Nếu lãi suất thị trường lên thật thì giá trái phiếu Chính phủ sẽ hạ, công ty này sẽ
thanh lý HĐGS trước đó bằng cách mua lại trái phiếu ở giá thấp. Khoản chênh lệch giá
lời thu được sẽ bù đắp vào chi phí trả lãi suất trái phiếu của công ty.
- Đối với sự thay đổi của giá cả chứng khoán thì cũng tương tự như đối với trường
hợp bảo vệ giá cả hàng hóa. Người dự định mua chứng khoán nhưng không muốn giá
quá cao nên đã mua trước, nếu giá chứng khoán không lên hoặc rớt thì họ sẵn sàng mất
một khoản thua lỗ (trong tài khoản bảo chứng) trên TTGS còn hơn mua và nắm giữ
chứng khoán thật sự. Còn người muốn bán chứng khoán thì lo ngại giá sẽ giảm, nếu giá
không giảm mà ngược lại còn tăng thì người bán sẽ chấp nhận một phần thua lỗ mà
không bán chứng khoán nữa.
Đối với người bảo hộ thì họ có thể lựa chọn, một là thực hiện đúng như hợp đồng
(thi hành hợp đồng), hoặc hai là thanh lý hợp đồng bằng thanh toán bù trừ. Thông
thường, vì những lý do bị động về thời gian, địa điểm giao hàng, người bảo hộ vẫn thích
thực hiện nghiệp vụ thanh toán bù trừ như nhà đầu cơ để bảo vệ cho rủi ro của họ.
14

×