Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Nghệ thuật quân sự của việt nam trong cuộc kháng chiến chống mỹ xâm lược giai đoạn ( 1954 – 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.51 KB, 94 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn thầy giáo Đại tá .. trong tổ bộ môn Đường lối
quân sự và cũng là giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi mơn Đường lối quốc phịng an ninh trong học kỳ vừa qua. Trong thời gian qua dưới sự hướng dẫn tận tình của
thầy trưởng khoa GDQP và góp ý chu đáo của các thầy trong khoa đã giúp đỡ tơi
hồn thành đề tài.
Xin trân trọng cảm ơn sự động viên, giúp đỡ tận tình của các thầy, cơ giáo
trong khoa, bạn bè trong lớp K51A GDQP,bên cạnh đó là cùng với sự cố gắng nỗ
lực của bản thân đã giúp tơi hồn thành đề tài này.
Trong q trình làm đề tài chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót,
kính mong q thầy cơ cùng bạn đọc đóng góp ý kiến bổ sung để cho đề tài ngày
càng được hoàn thiện và đạt kết quả tốt hơn. Rất mong nhận được sự quan tâm, góp
ý của thầy, cơ và các bạn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, ngày 21 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện

A. PHẦN MỞ ĐẦU


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay trong công cuộc đổi mới tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Đảng và Nhà nước ta đang phấn đấu xây dựng đất nước “ Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh”. Trong đó nhiệm vụ cơ bản là xây dựng một Nhà
nước thực sự của dân, do dân và vì dân với mục đích “Ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”. Nhưng một vấn đề đặt ra đó là “Dựng nước phải đi đơi với
giữ nước”.
Thực tế trong lịch sử từ thời cổ đại, trung đại, cận đại đến ngày nay cho ta
thấy rõ: Bất cứ quốc gia độc lập nào nếu chỉ chăm lo dựng nước mà coi nhẹ hoặc
sao lãng vấn đề giữ nước đều chịu hậu quả là bị động về chiến lược, gánh chịu tổn


thất lớn hoặc bị kẻ thù thôn tính.
Bởi vậy: Dựng nước đi đơi với giữ nước đó là quy luật tồn tại và phát triển
của dân tộc Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc là vấn
đề chiến lược và có ý nghĩa sống còn, bảo đảm cho dân tộc ta mãi mãi trường tồn
và cường thịnh. Chủ tịch HỒ CHÍ MINH đã từng viết:
“Các vua hùng đã có cơng dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
HỒ CHÍ MINH ( 1954: Đến thăm đền hùng)
Điều đó có nghĩa là chúng ta phải giữ gìn những gì mà các vua hùng đã làm
được để góp phần vào việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện đất nước trong điều
kiện lịch sử mới với mn vàn khó khăn và thử thách hiện nay.
Một dấu hỏi lớn đặt ra cho chúng ta đó là khi tiến hành dựng nước thì bên
cạnh đó việc giữ nước chúng ta phải tiến hành như thế nào để đánh thắng những kẻ
thù lớn.
Việt Nam một dân tộc có truyền thống và tư chất quân sự đặc biệt. Bạn và tôi
chúng ta nhận thấy một điều rằng: Trên thế giới có dân tộc nào yêu quý hịa bình
và độc lập tự do như dân tộc Việt Nam khơng? Chính điều đó đã thơi thúc nhân dân
cả nước đứng lên chiến đấu giữ nước. Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao dân tộc
Việt Nam có tinh thần chiến đấu kiên cường như vậy? Tại sao dân tộc Việt Nam có
thể chiến thắng những kẻ thù lớn mạnh gấp bội mình? Điều đó cũng dễ hiểu, bời vì
dân tộc ta khơng chỉ có sức mạnh về nhân lực, quân sự mà cao hơn nữa đó là có “
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng

SVTH: Lữ Đức Báu

2


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)

nghệ thuật quân sự rất độc đáo và đặc sắc”. Nhờ vậy mà dân tộc ta đã giành được
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong tiến trình
dựng nước và giữ nước đã hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử cụ
thể của mỗi cuộc chiến tranh, mỗi giai đoạn, thời kỳ đấu tranh chống giặc ngoại
xâm để giải phóng và bảo vệ đất nước. Lịch sử tiến hành các cuộc chiến tranh yêu
nước, chính nghĩa chống ngoại xâm của dân tộc ta là lịch sử của những cuộc chiến
tranh nhân dân. Nghệ thuật quân sự Việt Nam là nghệ thuật quân sự của chiến tranh
nhân dân.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta trải qua những bước thăng
trầm, thịnh suy. Nhưng thế kỷ nào, triều đại nào cũng có chiến cơng, chưa bao giờ
vắng người hào kiệt, chưa lúc nào thiếu vắng bóng anh hùng. Việt Nam là một dân
tộc phải vượt qua nhiều thử thách nhất . Nhưng trong thực tế chúng ta thấy “Trải
biến cố nhiều thì trí lực sâu, lo việc xa mà thành cơng kú”. Vì thế lịch sử dân tộc ta
đã hun đúc nên những phẩm giá cao đẹp và vĩ đại, ý chí kiên cường và trí tuệ sáng
tạo của một dân tộc anh hùng.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh điều đó. Thắng lợi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược đã khẳng định sự ra đời tính cách mạng và
tính khoa học cuả một phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, một nền nghệ
thuật quân sự của chiến tranh toàn dân và chiến tranh toàn diện ở nước ta. Thắng
lợi của nhân dân ta trong các cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc vừa qua là thắng lợi của đường lối quân sự đúng đắn của Đảng. Đường lối ấy
vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về
chiến tranh và quân đội vào điều kiện thực tế của Việt Nam, kế thừa và phát triển
truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những
kinh nghiệm quân sự tiên tiến trên thế giới. Bằng sự lãnh đạo tài tình của Đảng đã
lãnh đạo quân và dân ta vận dụng những hình thức và phương thức đấu tranh cách
mạng một cách hợp lí, nâng cao phương thức đó lên một trình độ nghệ thuật mới
phù hợp với quy luật của chiến tranh cách mạng. Chính nền khoa học và nghệ thuật
quân sự cách mạng tuy còn non trẻ nhưng dưới sự lãnh đạo dẫn dắt của Đảng ta vẫn
luôn luôn tràn đầy một sức sống mãnh liệt, cũng chính sức mạnh tiềm tàng ấy đã

khơi dậy sự đồng lòng của quân và dân ta, làm phá sản học thuyết chiến tranh xâm
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng

SVTH: Lữ Đức Báu

3


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
lược, các sản phẩm tư duy quân sự tinh tuý nhất của nước Pháp và đế quốc Mĩ
trong so sánh lực lượng rất không cân sức ban đầu.
Lịch sử chiến tranh giải phóng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đã ghi
nhận rằng: Nghệ thuật quân sự là một nhân tố quan trọng trong chiến tranh. Nhân
dân Việt Nam thắng giặc ngoại xâm khơng chỉ bằng ý chí quật cường mà cịn là sự
kết hợp chặt chẽ ý chí với tài trí sáng suốt, thơng minh, đánh bằng mưu kế thắng
bằng thế thời. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mà
đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là bước phát triển mới cả về
chỉ đạo chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Nghệ thuật quân sự Việt
Nam đạt tới đỉnh cao vừa hàm chứa tính hiện đại của cuộc chiến tranh ở thế kỷ XX,
vừa mang nét đặc trưng nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc.
Vì những lí do này tơi đã quyết định lựa chọn đề tài: “ Nghệ thuật quân sự Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược giai đoan 1954 - 1975”
hy vọng nó sẽ lý giải một cách sâu sắc hơn vấn đề “Tại sao dân tộc việt nam có tinh
thần chiến đấu kiên cường như vậy? Tại sao dân tộc Việt Nam có thể chiến thắng
những kẻ thù lớn mạnh gấp bội mình? Đồng thời đây là một đề tài rất thiết thực.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật quân sự Việt
Nam.
- Tìm hiểu về những nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật quõn sự trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975).
- Nghiên cứu để có thể làm tài liệu tham khảo và làm cơ sở để giảng dạy
môn “Giáo Dục Quốc Phòng” sau này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để làm sáng tỏ mục đích nghiên cứu, đề tài cần tập trung giải quyết các
nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nghệ thuật qũn sự.
Thứ hai: Tìm hiểu nghiên cứu các yếu tố tác động và nội dung nghệ thuật
đánh giặc giữ nước của tổ tiên
Thứ ba: Nghiên cứu về nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật quõn sự Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975).
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng

SVTH: Lữ Đức Báu

4


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
4. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp lý luận thông qua việc nghiên cứu thu thập tài liệu,
các kênh thông tin quân đội
- Sử dụng phương pháp hệ thống để thể hiện đầy đủ quá trình hình thành và
phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam.
- Sử dụng phương pháp lịch sử và lơgíc.
5. Ý nghĩa đề tài
Sau khi nghiên cứu thành công, đề tài này sẽ giúp cho chúng ta hiểu được
nét độc đáo sâu sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử
đồng thời giúp chúng ta hiểu thêm về nghệ thuật quân sự Việt Nam trong quá trình

dựng nước và giữ nước, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954 - 1975).
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo nội dung của đề tài được
chia làm 2 chương:
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIÊT NAM
CHƯƠNG 2 : NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC GIAI ĐOẠN 1954 – 1975

GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng

SVTH: Lữ Đức Báu

5


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn phải chống
lại kẻ thù xâm lược lớn hơn nhiều lần về quân sự, kinh tế. Song với lịng u
nước ,ý chí kiên cường , với cách đánh mưu trí , sáng tạo ,cha ông ta đã đánh thắng
tất cả kẻ thù xâm lược , viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc từ chiến
thắng Bạch Đằng , Như Nguyệt, Chương Dương ...Từ khi Đảng Cộng Sản Việt
Nam ra đời , tinh thần yêu nước và cách đánh của quân dân ta lại được phát huy lên
một tầm cao mới và đánh thắng hai kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự
mạnh là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ . Từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm
của dân tộc, đã hình thành nên nghệ thuật quân sự Việt Nam , đó là nghệ thuật

chiến tranh nhân dân , thực hiện toàn dân đánh giặc.
1. KHÁI NIỆM NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
Nghệ thuật quân sự Việt Nam là nghệ thuật chỉ đạo hoạt động quân sự của
lực lượng vũ trang, đồng thời chỉ đạo hoat động quân sự của nhân dân cầm vũ khí
lên đánh địch, kết hợp chặt chẽ quân sự với binh vận, kết hợp tiêu diệt địch và phát
động quần chúng giành quyền làm chủ.
2. ĐẤT NƯỚC TRONG BUỔI ĐẦU LỊCH SỬ VÀ NHỮNG YẾU TỐ
TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA
ÔNG CHA TA
2.1. Đất nước trong buổi đầu lịch sử
Cách đây mấy nghìn năm, từ khi các Vua Hùng mở nước Văn Lang, lịch sử
dân tộc Viêt Nam bắt đầu thời đại dựng nước và giữ nước. Do yêu cầu tự vệ trong
chống giặc ngoại xâm và yêu cầu làm thủy lợi của nền kinh tế nông nghiệp đã tác
động mạnh mẽ đến sự hình thành đến sự hình thành của nhà nước trong buổi đầu
lịch sử. Nhà nước Văn Lang là nhà nước đầu tiên của nước ta, có lãnh thổ khá rộng
và vị trí địa lí quan trọng, bao gồm vùng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ ngày nay, nằm
trên đầu mối những đường đường giao thông qua bán đảo Đông Dương và vùng
Đông Nam Á.
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng

SVTH: Lữ Đức Báu

6


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
Nền văn minh sơng Hồng cịn gọi là văn minh Văn Lang, mà đỉnh cao là nền
văn hóa Đơng Sơn rực rỡ, thành quả đáng tự hào của thời đại Hùng Vương. Do có
vị trí thuận lợi, nước ta ln bị các thế lực ngoại xâm nhịm ngó. Sự xuất hiện các

thế lực thù địch và âm mưu thơn tính mở rộng lãnh thổ của chúng là nguy cơ trực
tiếp đe dọa vận mệnh đất nước ta. Do vậy, yêu cầu chống giặc ngoại xâm, chống lai
kẻ thù xâm lược để bảo vệ đôc lập chủ quyền và cuộc sống đã sớm xuất hiện trong
lịch sử dân tộc ta. Người Việt muốn tồn tại, bảo vệ cuộc sống và nền văn hóa của
mình chỉ có một con đường duy nhất là đoàn kết đứng lên đánh giặc, giữ nước.
2.2. Các yếu tố tác động đến việc hình thành nghệ thuật đánh giặc của
ông cha ta
2.2.1. Địa lý
Nước Việt Nam nằm ở rìa phia đơng của bán đảo Đơng Dương ,gần trung
tâm của khu vực Đông Nam Á .Trên đất liền điểm cực Bắc ở vĩ độ 23°23’ B tại Xã
Lũng Cú , huyện Đồng Văn , tỉnh Hà Giang ; điểm cực Nam ở vĩ độ 8°34’B tại xã
Đất Mũi , huyện Ngọc Hiển , tỉnh Cà Mau ; điểm cực Tây ở kinh độ 102°09’ Đ tại
xã Sín Thầu ,huyện Mường Nhé , tỉnh Điện Biên và điểm cực Đông Ở kinh độ
109°24’ Đ tại xã Vạn Thạnh ,huyện Vạn Ninh , Tỉnh Khánh Hịa .
Ở ngồi khơi , các đáo của nước ta còn kéo dài tới tận khoảng vĩ độ 6°50’B ,
và từ khoảng kinh độ 101°Đ đến khoảng 117°20’Đ trên Biển Đông . Như vậy, Việt
Nam vừa gắn liền với lục địa Á –Âu , vừa tiếp giáp với Biển Đơng và thơng ra Thái
Bình Dương rộng lớn, kinh tuyến 105°Đ chạy qua nước ta trên đại bộ phận lãnh thổ
Việt Nam nằm ở khu vực múi giờ thứ 7.
Lãnh thổ Việt Nam là một khối thống nhất và toàn vẹn bao gồm vùng đất ,
vùng biển ,vùng trời.vùng đát Việt Nam gồm toàn bộ phần đát liền và các hải đảo ,
có tổng diện tích 331212km2 (niên giám thống kê năm 2006) nước ta có hơn
46000km đường biên giới trên đất liền , trong đó có đương biên giới Việt Nam –
Trung Quốc dài hơn 1400km , đường biên giới Việt Nam –Lào dài gần 2100km và
đường biên giới Việt Nam –Campuchia dài hơn 1100km . Phần lớn biên giới nước
ta nằm ở khu vực miền núi , đường biên giới trên đát liền của nươc ta với các nước
láng giềng được hình thành trong qua trình lịch sử , hiện nay đã được phân giới và
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
7



Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
đang tiến hành cắm mốc. Nước ta có đường bờ biển dài 3260km , cong hình chữ S ,
chạy từ thi Xã Móng Cái(Qng Ninh )ở phía Bắc đén thị xã Hà Tiên (Kiên Giang ) ở
phía Tây Nam .
khi nhà nước Văn Lang nhà nước đầu tiên của nước ta đén nhà nước Việt
Nam ngày nay có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam Á và biển đơng
,có hệ thống giao thơng đường bộ , đường biển , đường sông , đường không , bảo
đảm giao lưu trong khu vực Châu Á và thế giới thuận lợi .Đã từ lâu , nhiều kẻ thù
ln nhịm ngó , đe dọa và tiên công xâm lược . Để bảo vệ đát nước bảo vệ sự
trường tồn của dân tộc , ơng cha ta đã đồn kết và phát huy tối đa ưu thế của địa
hình để lập thế trận đánh giặc .
2.2.2. Kinh tế
Như chóng ta biÕt những phương pháp tiến hành chiến tranh, quá trình và
kết cục của chiến tranh phụ thuộc vào trình độ xã hội, chính trị và kinh tế của các
nước tham chiến, vào trình độ phát triển khoa học, tinh thần của nhân dân và sức
mạnh của các lực lượng vũ trang. Nhưng các điều kiện tự nhiên và mức độ chuẩn bị
vùng lãnh thổ mà ở đó có thể xảy ra các hoạt động tác chiến cũng ảnh hưởng rất
quan trọng đến cuộc đấu tranh vũ trang.
Chiến tranh hiện đại là một hiện tượng xã hội phức tạp, nó đụng chạm đến
mọi mặt đời sống và hoạt động của cả nước cũng như của liên minh nhiều nước.
Nếu chiến tranh thế giới xảy ra, nó sẽ là cuộc xung đột vũ trang quyết liệt giữa hai
hệ thống xã hội đối địch trên thế giới. Cuộc chiến quy mô lớn xâm lược nước ta
nếu xảy ra, cũng có tính chất phức tạp và hủy hoại lớn. Với tính chất của một cuộc
chiến tranh như thế thì tri thức của khoa học quân sự không thể chỉ giới hạn ở
những phương thức tiến hành đấu tranh vũ trang, mà khoa học quân sự còn phải
quan tâm đến những khả năng chính, kinh tế, tinh thần và quân sự của các nước
như của liên minh các nước, phải quan tâm đến những điều kiện tự nhiên và hồn

cảnh xã hội ở các vùng có thể xảy ra tác chiến.
Một quốc gia độc lập muốn dựng nước và giữ nước thì địi hỏi kinh tế phải
phát triển. Việt Nam đất nước với nền kinh tế tự cung tự cấp, sản xuất nơng nghiệp
là chính, trong đó trồng trọt và chăn ni là chủ yếu, trình độ canh tác thấp. Trong
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
8


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
quá trình phát triển cha ơng ta đã biết kết hợp chặt chẽ tư tưởng dựng nước phải đi
đôi với giữ nước, thực hiện nhiều kế sách như “phó quốc binh cường”, “ngụ binh ư
nơng”.
2.2.3. Chính trị
Đất nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, không qua chế độ chiếm
hữu nô lệ, phân vùng cát cứ không nhiều. Do phải cùng nhau chung lưng đấu cật
chống lại thiên tai, địch hoạ, các nhà nước phong kiến đã có những tư tưởng tiến bộ
thân dân, những chính sách hồ hợp dân tộc đúng đắn, nên các dân tộc ít xảy ra
mâu thuẫn, hận thù. Các dân tộc đều sống hồ thuận, gắn bó thuỷ chung, u q
hương đất nước. Đây là nhân tố, là cơ sở tạo nên sức mạnh đoàn kết, thống nhất
dân tộc, sự cố kết cộng đồng bền vững. Trong quá trình xây dựng đất nước, chúng
ta đã tổ chức ra nhà nước xác định chủ quyền lãnh thổ, tổ chức ra quân đội, đề ra
luật pháp để quản lý, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các nhà nước phong kiến Việt
Nam đều có tư tưởng trọng dân, đưa ra nhiều chính sách hợp với lịng dân, xác định
vai trị, vị trí của quần chúng nhân dân, mối quan hệ giữa dân với nước, nước với
dân được ví như “khơng thể phân biệt được đâu là cá đâu là nước” nên đã động
viên và phát huy được sức mạnh tồn dân trong cơng cuộc xây dựng đất nước, động
viên cả nước đánh giặc gìn giữ non sông. Trong đánh giặc, quân và dân ta đã chiến
đấu dũng cảm, kiên cường, bất khuất, tinh thần quyết tâm cao, với ý chí quật cường

sắt đá và nghị lực phi thường, luôn sáng tạo ra nhiều cách đánh hay, đánh giặc mềm
dẻo khơn khéo, mưu trí sáng tạo. Dân tộc ta đã chiến đấu và đánh bại nhiều kẻ thù,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững độc lập cho dân tộc.
2.2.4. Văn hóa – xã hội
Dân tộc ta có một nền văn hố bản địa xuất hiện sớm, từ thời tiền sử với kết
cấu bền vững có nhà, có làng, có bản, có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân
tộc, làng xã lại có một truyền thống phong tục tập quán riêng. Nhưng trong quá
trình lao động, đấu tranh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì các dân tộc đã vun đắp
nên những truyền thống văn hóa chung như: Tinh thần u nước, đồn kết, gắn bó,
yêu thương đùm bọc che chở lẫn nhau, ý thức lao động cần cù sáng tạo, ý chí tự lực
tự cường, đấu tranh dũng cảm, kiên cường, bất khuất...Đây là nguồn gốc sức mạnh
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng

SVTH: Lữ Đức Báu

9


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
của dân tộc để chống lại thiên nhiên, đánh bại mọi thế lực, mọi kẻ thù xâm lược.
Trong quá trình xây dựng đất nước, dân tộc ta luôn coi trọng phát triển nền văn hoá,
giáo dục kiến thức hội hoạ, âm nhạc mang bản sắc truyền thống dân tộc, đồng thời
không ngừng tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nền văn hố thế gới làm cho
nền văn hóa nước ta ngày càng phong phú, đa dạng và tràn đầy sức sống.
Tóm lại, Các yếu tố địa lý kinh tế, chính trị, văn hố xã hội có ảnh hưởng rất
lớn đến nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên ta. Tất cả nững yếu tố đó đã khơng ngừng
được tìm tịi và phát triển, tạo nên sức mạnh to lớn cho dân tộc ta trong quá trình
xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh bảo vệ giống nòi, giữ vững nền độc
lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

3. NỘI DUNG NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC CỦA TỔ TIÊN
3.1 Tư tưởng, kế sách đánh giặc
Với tư tưởng tích cực chủ động tiến cơng và kế sách đánh giặc mềm dẻo,
khéo léo của dân tộc ta đã được các triều đại Lí, Trần, Hậu Lê...và Quang Trung
vận dụng một cách linh hoạt, sánh tạo, đưa quân và dân ta đánh bại nhiều kẻ thù
xâm lược, giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc và được thể hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất, Tư tưởng tích cực, chủ động tiến cơng
Lịch sử chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cho
thấy: “Tư tưởng chiến lược tiến công là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đánh thắng
các đạo quân xâm lược đất nước ta”.
Quan điểm quân sự của dân tộc Việt Nam cho rằng: chỉ có tiến cơng và tiến
cơng một cách kiên quyết mới có thể đánh bại được kẻ thù để giải phóng đất nước
và bảo vệ Tổ quốc. Và trên thực tế, các cuộc chiến tranh chống xâm lược đã giành
được thắng lợi, dân tộc Việt Nam đều rất coi trọng nghệ thuật tiến công và thực
hiện tiến công rất tài giỏi.
Cách tiến công của chúng ta là tích cực chuẩn bị, tiến cơng liên tục, tiến
cơng từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến toàn bộ. Đạt được mục tiêu tiến công là tiêu diệt
nhiều sinh lực địch, làm thay đổi so sánh lực lượng ta và địch trên chiến trường,
thay đổi cục diện chiến tranh và ta dành thắng lợi. Tư tưởng tích cực chủ động tiến
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
10


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
công là chủ động giành quyền đánh giặc trên các mặt trận của dân tộc, kiên quyết
tiến công bằng sức mạnh tổng hợp tồn dân, khơng thụ động phịng ngự đó là yếu
tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh và là nét đặc sắc trong nghệ thuật đánh

giặc giữ nước của dân tộc ta. Với thế cơ động tiến công từ mọi phía, hãm địch vào
thế bị động lúng túng, nắm được thời cơ chuyển sang phản công, tiến công và giành
thắng lợi. Từ thời nhà Trần vào thế kỉ thứ XIII, trước thế mạnh của quân Nguyên Mông, tư tưởng tích cực chủ động tiến cơng được thể hiện bằng việc không chấp
nhận yêu sách của Chúa Nguyên, mà động viên nhân dân cả nước chuẩn bị vũ khí
kháng chiến, xây dựng quyết tâm đánh giặc cao cho quân dân cả nước. Với ý chí
“sát thát” thề giết giặc Nguyên - Mông. Khi quân Nguyên Mông vào xâm lược
nước ta, nhà Trần đã phát huy sức mạnh toàn dân, thế trận làng nước, chặn giặc
phía trước, đánh giặc phía sau, triệt phá đường tiếp tế lương thực, cô lập địch, tập
trung lực lượng, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và rút lui, phản công chiến lược và
kết quả cả 3 lần đều đánh bại cuộc tiến công xâm lược của giặc Nguyên Mông.
Đầu thế kỉ XV trước sự xâm lăng của giặc Minh, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã
đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Với lịng u nước thương dân, ý chí
căm thù giặc của nghĩa quân Lam Sơn “Không đội trời chung với giặc, thề không
cùng sống chung với chúng” đã chuyển thành quyết tâm đánh giặc rất kiên cường
của quân sĩ dù phải “Nằm gai nếm mật vẫn bền gan chiến đấu”. Thời kỳ đầu khởi
nghĩa, nghĩa qn gặp mn vàn khó khăn “Sớm tối không được hai bữa áo mặc,
đông hè chỉ được có một manh, qn lính chỉ độ vài nghìn, khí giới thì thật tay
khơng”. Nhiều lần bị kẻ địch vây hãm, Lê Lợi đã tổ chức cuộc tiến công phá thế
bao vây phong tỏa của kẻ thù. Đến năm 938 chỉ bằng một trận Ngô Quyền đã đánh
tan đội thuỷ quân xâm lược của Lưu Hoằng Thao trên sông Bạch Đằng, kết thúc
thời kỳ mất nước kéo dài hàng ngàn năm.
Thời nhà Lý, do có nhiều chính sách, cải cách tiến bộ để xây dựng đất nước,
củng cố quốc phịng như: “khuyến nơng”, “ngụ binh ư nơng” (gửi qn ở dân)...đã
tạo nên sức mạnh, giành quyền chủ động đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn mua
chuộc lôi kéo, đe doạ, xâm lấn biên giới của kẻ thù. Trước nguy cơ bị quân Tống
xâm lược, tư tưởng chỉ đạo tác chiến của nhà Lý là: “Giành quyền chủ động đánh
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
11



Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
trước để phá thế mạnh của giặc”. Lý Thường Kiệt nói “Ngồi yên chờ giặc không
bằng đem quân ra chặn trước mũi nhọn của chúng”, bằng hành động thiết thực của
mình, đích thân vua Lý Thái Tơng cầm qn xuống phương Nam đánh giặc Chăm
Pa, đã phá được thế liên kết gọng kìm của kẻ thù từ hai đầu đất nước, tạo điều kiện
tập trung lực lượng đánh giặc phương Bắc. Cuối năm 1075 đầu năm 1076 Lý
Thường Kiệt đã mở cuộc tiến công chủ động đánh sang thành Ung Châu, Khâm
Châu, Liêm Châu phá thế chuẩn bị tiến công xâm lược của quân Tống. Sau đó chủ
động lui về xây dựng phịng tuyến Sơng Cầu (sơng Như Nguyệt) thành thế “hoành
trận” để đánh giặc. Tư tưởng chỉ đạo đánh giặc của quân và dân nhà Lý là kết hợp
chặt chẽ giữa phịng ngự và phản cơng, xây dựng lực lượng phát triển mở rộng thế
trận, chủ động tiến công địch, quy mơ ngày càng lớn cả bằng qn sự, chính trị,
binh vận kết hợp đánh tiêu diệt địch.
Khởi nghĩa Tây Sơn thế kỉ XVIII do ba anh em nhà Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo đã được nhân dân đồng lòng ủng hộ.
“Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà nuôi mẹ hiền”
(ca dao)
Lực lượng nghĩa quân ngày càng phát triển mạnh, vốn tư tưởng tích cực chủ
động tiến cơng nghĩa qn đã giải phóng một vùng rộng lớn từ Quảng Nam đến
Bình Thuận, đánh tan Chúa Nguyễn ở đằng trong, Chúa Trịnh ở đằng ngoài. Nghe
tin bọn Nguyễn ánh, Lê Chiêu Thống “Cọng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về giày
mộ tổ” mở đường cho gần 3 vạn quân Xiêm và gần 30 vạn quân Mãn Thanh sang
xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ đã tổ chức cuộc hành binh thần tốc, tập trung lực
lượng mạnh, đánh bất ngờ, với sự hiệp đồng giữa quân thuỷ, kỵ binh, pháo binh và
voi chiến đã đánh tan quân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút tiêu diệt quân Mãn
Thanh ở Ngọc Hồi - Đống Đa, giữ vững nền độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Những lần đánh thắng quân xâm lược đó là những lần biểu hiện cho nghệ
thuật tiến công rất tài giỏi của cha ông ta, là nét đặc sắc về tư tưởng, chủ động và
kiên quyết tiến công, nghệ thuật tiến cơng cịn gắn liền với tinh thần tích cực chủ
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
12


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
động tiến công của một dân tộc nhỏ đánh thắng những kẻ thù xâm lược lớn hơn
mình rất nhiều lần. ở phạm trù chiến lược, nghệ thuật quân sự Việt Nam khơng có
phịng ngự mà chỉ có tiến cơng, coi tiến cơng là tư tưởng chỉ đạo, cũng có nghĩa coi
phịng ngự là tạm thời, là sách lược, là biện pháp cần thiết để tạo thế, tạo thời có lợi
cho phản cơng. Nhưng khơng vì thế mà dân tộc ta coi nhẹ phịng ngự vì thành luỹ
và tổ chức phịng ngự cũng là biện pháp, phương tiện tạo ra thế trận và thời cơ
giống như các yếu tố khác để phát huy sức mạnh của mình, đạt tới mục đích tiến
cơng và phản cơng. Bằng cách đó đã chặn đứng các cuộc tiến công quyết liệt của
địch để tạo thời cơ, sau đó chuyển sang phản cơng và tiến cơng đánh bại quân giặc.
Trong nghệ thuật quân sự dân tộc Việt Nam, phịng ngự ln gắn liền
với tiến cơng và phản cơng. Vừa chặn địch ở chính diện, vừa đánh vào bên
sườn phía sau, kết hợp phản cơng và tiến cơng ngay khi đang cịn phịng ngự,
tìm cách bộc lộ sơ hở để ta chuyển sang tiến công hoặc phản công, đó là cách
phịng ngự thế cơng.
Thứ hai, kế sách đánh giặc
Chiến tranh là một quá trình đấu tranh vũ trang rất quyết liệt giữa hai bên
tham chiến để dành ưu thế mà thắng. Sự đọ sức quyết liệt ấy đòi hỏi phải có lực
lượng, song nó cịn gắn liền với sự đấu tranh rất gay go quyết liệt về trí tuệ của các
bên tham chiến, bên nào thông minh hơn sẽ thắng. Càng đọ sức quyết liệt và gay go
thì càng biểu hiện quy luật chung của chiến tranh “Mạnh được yếu thua”, mạnh

yếu tuỳ thuộc vào số lượng, chất lượng mọi người tham chiến, tranh bị vật chất kỹ
thuật và nguồn lực bảo đảm các mặt cho cuộc chiến tranh đó, và cịn phụ thuộc rất
lớn vào tài nghệ chỉ đạo, chỉ huy của người cầm quyền cùng năng lực sáng tạo
trong vận dụng nghệ thuật của người tham chiến trên chiến trường. Vì vậy ai có sức
mạnh hơn, thơng minh hơn và sáng tạo hơn thì ngưới đó sẽ chiến thắng.
Do đó kế sách đánh giặc ở đây là mưu kế, là sách lược đánh giặc của dân
tộc. Kế sách phải mềm dẻo, khéo léo kết hợp chặt chẽ giữa tiến cơng và phịng ngự,
qn sự với binh vận, ngoại giao tạo ra thế mạnh của ta phá thế mạnh của địch,
trong đó tiến cơng qn sự ln giữ vai trị quyết định. Kế sách đó được vận dụng
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng

SVTH: Lữ Đức Báu

13


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
linh hoạt sáng tạo cho từng cuộc chiến tranh. Vì vậy mưu kế và kế sách giữ vai trò
hết sức quan trọng trong nghệ thuật đánh giặc.
Mưu kế trong chiến tranh tạo ra thế trận và thời cơ có lợi mà đánh thắng
địch, đó là yếu tố thế và thời trong chiến tranh do mưu kế tạo nên. Trong lịch sử
đấu tranh của dân tộc, nhân dân ta luôn phải đương đầu với những kẻ thù lớn mạnh
hơn mình rất nhiều lần, chúng vừa đơng lại có tiềm lực kinh tế, quân sự to lớn hơn.
Nhân dân ta đánh giặc trong điều kiện nhỏ đánh lớn, ít địch nhiều, yếu chống mạnh
và thường bị quân thù bao vây về mọi phía.
Từ đó mà nghệ thuật đánh giặc của cha ơng ta kể từ xưa đến nay đều vì thế
mà nghĩ đến mưu kế, tạo thời cơ, nắm bắt thời cơ, dành chủ động, đánh bất ngờ để
thắng địch. Trên sông Bạch Đằng, Ngơ Quyền đã dùng mưu trí cắm cọc nhọn bịt
sắt chơn xuống lịng sơng có qn mai phục tạo ra sức mạnh tổng hợp làm thế

mạnh của ta dụ quân địch vào thế trận, rồi đánh quặt lại chúng lúc thuỷ triều rút
nước xuống để tiêu diệt địch. Đây là nghệ thuật tạo, nắm thời cơ. Sự thông minh,
sáng tạo trong chiến tranh là biểu hiện trước hết ở mưu kế hay và khéo léo. Mưu
hay kế sâu không chỉ biểu hiện ở phạm trù chiến lược mà còn biểu hiện rất rõ ở
phạm trù chiến dịch, chiến đấu trong nghệ thuật quân sự của dân tộc ta. Có mưu
hay kế khéo thì các trận đánh lớn, nhỏ cũng như tác chiến đều cho phép ta với lực
lượng ít hơn, có thể đánh thắng được một đối thủ có lực lượng đơng và vũ khí trang
bị kỹ thuật mạnh hơn. Mưu hay kế khéo có thể buộc địch đánh theo cách đánh của
ta, biến địch từ tiến công thành bị tiến cơng, q trình giao chiến buộc địch bộc lộ
ra những sơ hở để ta chủ động và bất ngờ đánh thắng .
Trước thế giặc Nguyên - Mông đang mạnh, mưu lược đánh gặc của quân dân
thời Trần là: Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, nơi hiểm yếu của kẻ thù. “Nguyên
binh nhuệ khí đang hứng kíp đánh chẳng bằng kiên thủ chờ suy”. Quân dân thời
Trần vừa chặn đánh vừa rút lui từng bước, kết hợp với tổ chức cho tồn dân lập
kế“thanh dã” (làm vườn khơng nhà trống) với đánh phá nhỏ lẻ ở phía trước, bên
sườn phía sau. Quân dân ta đã đẩy quân Nguyên vào thế cùng lực kiệt tiến thối
lưỡng nan. Lúc đó ta mới tập trung lực lượng, chuyển sang phản công kiên quyết,
tiến công liên tục, lập nên chiến thắng vang dội ở Đông Bộ Đầu, Hàm Tử, Chương
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
14


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
Dương...ba lần đem quân xâm lược Đại Việt, đạo kị binh thiện chiến Nguyên Mông đã từng chinh phục khắp lục địa Âu- á đã bị đánh bại. Trong cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc, thời kỳ đầu khởi nghĩa, so sánh lực lượng ta yếu hơn địch,
nhưng tổ tiên ta đã sử dụng nhiều kế sách đánh giặc rất mềm dẻo và vơ cùng khơn
khéo. Nghĩa qn Lam Sơn thì dùng kế “Bên ngoài giả thác hoà thân” để “bên
trong lo rèn chiến cục”. Nghĩa quân lại dùng mưu: “Hoà hỗn với Chúa Trịnh ở

đằng ngồi, để tập trung lực lượng đối phó với Chúa Nguyễn ở đằng trong”. Nhờ
có nghệ thật khơn khéo đó mà ta đã tránh được sự đánh phá rất quyết liệt của kẻ
thù, đưa phong trào khởi nghĩa phát triển mạnh mẽ trong công cuộc giải phóng dân
tộc. Có mưu hay kế khéo khơng những tiêu diệt được nhiều địch phá huỷ được
nhiều phương tiện chiến tranh, lấy được tranh bị vũ khí phương tiện của địch để
dùng cho ta, làm cho ta càng đánh càng mạnh, mà một vấn đề quan trọng hơn nữa
là ta đã đánh bại được những chủ trương biện pháp, thủ đoạn, tác chiến quan trọng
của địch, làm cho địch qn đơng mà khơng dám dùng, cịn lực lượng tinh nhuệ mà
không dám sử dụng để thi thố tài năng vào đúng nơi và đúng lúc.
Mưu đồ của địch từ đó mà đi tới chỗ dần dần suy sụp, càng đánh càng bị
thua đau đớn, thiệt hại của chúng càng lớn hơn, tác động tinh thần đối với chúng
còn nguy hại nhân lên gấp bội, dẫn đến ý chí tinh thần của chúng bị lung lay, âm
mưu xâm lược bị nứt rạn, mâu thuẫn tăng lên cuối cùng bị tan vỡ. Mưu kế trước hết
là lừa địch, tìm cách điều địch để phá thế địch mà tiêu diệt địch.
Trần Hưng Đạo nói “Đời xưa người giỏi dùng binh ý muốn như thế mà
khơng là như thế, nay thì ý muốn không như thế cho nên làm như thế, khiến họ lại
ngờ là ý muốn như thế. Đó là phép tinh vi để phá quân, bắt tướng. Cái làm chỉ là
cái bóng, làm mà khơng nghĩ thế chỉ là cái bóng trong cái bóng mà thơi - như hai
cái gương trao đổi nhau, thực là huyền ảo mà khơng huyền ảo”.
Ngồi ra mặt trận ngoại giao cũng gĩư vai trò hết sức to lớn. Thời Trần đánh
thắng giặc Nguyên - Mông đã mở mặt trận tiến công ngoại giao, buộc chúa Nguyên
phải công nhận xâm phạm quốc cảnh “Đại việt” để ta thả 5 vạn tù binh về nước.

GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng

SVTH: Lữ Đức Báu

15



Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
Nghĩa qn Lam Sơn, Tây Sơn dùng kế sách “hồ hỗn” tránh sức mạnh
ban đầu của giặc để xây dựng lực lượng phát triển thế trận, sau đó mới mở các cuộc
tiến cơng ngày càng lớn .
Từ đó cho thấy tư tưởng chỉ đạo đánh giặc của nhân dân ta phải dành, giữ
vững quyền chủ động, liên tục tiến công địch. Nhưng tuỳ theo điều kiện của từng
cuộc chiến tranh, so sánh lực lượng ta và địch, để tìm ra cách đánh thích hợp tiêu
diệt chúng. Kế sách đánh giặc của nhân dân ta rất mềm dẻo, khôn khéo, kết hợp
chặt chẽ giữa tiến công quân sự với binh vận, ngoại giao...tạo ra thế mạnh của ta,
phá thế mạnh của địch, đánh bại chúng, trong đó tiến cơng qn sự ln giữ vai trị
quyết định.
3.2. Tồn dân là binh cả nước đánh giặc
Đây là nghệ thuật về tổ chức, sử dụng lực lượng, động viên tinh thần, phát
huy sức mạnh, cách đánh giặc theo sở trường của từng người, từng lực lượng, mỗi
bản làng, thơn xóm...trên cả nước tạo thành sức mạnh toàn dân là binh cả nước
đánh giặc.
Toàn dân là binh, cả nước đánh giặc là nghệ thuật đánh giặc truyền thống
độc đáo, sáng tạo của dân tộc ta, là chiến thuật chiến tranh nhân dân tồn dân đánh
giặc, nó được thể hiện trong cả khởi nghĩa vũ trang, trong chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc và chiến tranh giải phóng dân tộc.
Thắng lợi của nhân dân ta chống kẻ thù xâm lược trong lịch sử đều do biết
tiến hành chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh toàn dân là binh, cả nước đánh
giặc mà nội dung thực chất là nghệ thuật quân sự dựa vào dân, lấy dân làm gốc để
tiến hành chiến tranh. Nó mang tính truyền thống của nghệ thuật quân sự Việt Nam,
nó đã trở thành nguyên lý sâu sắc nhất để tiến hành giành thắng lợi khởi nghĩa vũ
trang và chiến tranh cách mạng suốt hàng ngàn năm lịch sử.
- Cơ sở phát động toàn dân đánh giặc.
Các cuộc chiến tranh mà nhân dân ta tiến hành đều là chiến tranh yêu nước
chính nghĩa để bảo vệ Tổ quốc hoặc giải phóng dân tộc, đây là nguồn sức mạnh

tinh thần to lớn thúc đẩy toàn đân hăng hái tham gia, nhà nhà hưởng ứng, người
người đứng lên đánh giặc cứu nước. Dân tộc ta có truyền thống đoàn kết, yêu nước,
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
16


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
thương nịi, ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất, tinh thần quyết đánh quyết thắng
quân xâm lược để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
Từ xa xưa, nhân dân ta đã biết đứng lên chống giặc ngoại xâm, biết dựa vào
sức lực của chính mình, tạo ra sức mạnh đồn kết và kiên trì đấu tranh lâu dài, cuối
cùng dành được thắng lợi, mở đầu cho trang sử chống ngoại xâm rất vẻ vang của
dân tộc. Lực lượng chủ yếu ấy là những người dân của các bộ tộc, bộ lạc được huy
động ra đi làm dân binh để chiến đấu. Với trang bị vũ khí lúc ấy vừa bằng tre, gỗ,
vừa bằng sắt, đồng, đá. Tre, gỗ, đá dùng làm gậy gộc, mũi tên, lao và đá ném; sắt
đồng làm ra giáo, mác, rìu, lao...
Những trang bị ấy thường ngày là những phương tiện lao động sản xuất, săn
bắn thú rừng để sinh sống, đồng thời cũng là vũ khí chiến đấu chống giặc khi cần
thiết. Sức mạnh đó là sức mạnh dựa vào sự đoàn kết của các bộ tộc chống ngoại
xâm để bảo vệ dân tộc, bảo vệ giống nòi.
Lực lượng vũ trang nhiều thứ quân để thực hiện “trăm họ là binh, tồn dân
đánh giặc”. Do có bước phát triển tiến bộ về tư tưởng, tổ chức xây dựng đất nước,
củng cố quốc phòng, các nhà nước phong kiến Đại Việt đã gắn chặt dân với nước,
nước với dân, tạo cơ sở vững chắc cho nghệ thuật đánh giặc “toàn dân vi binh, cử
quốc nghênh địch” thời chiến đã có bước phát triển quan trọng, ảnh hưởng lớn đến
quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Trải qua bao nhiêu thế hệ, dân tộc Việt Nam với khí phách anh hùng ngày
càng nảy nở và phát triển, đã kiên quyết liên tục đứng lên chống ngoại xâm, sẵn

sàng chịu đựng mọi gian khổ, bảo vệ quyền sống của mình trên mảnh đất quê
hương.
- Nội dung nghệ thuật phát huy sức mạnh toàn dân là binh, cả nước đánh giặc.
Thứ nhất, tổ chức động viên lực lượng
Là tổ chức động viên toàn dân, mọi nhà, mọi người đều đánh giặc, “trăm họ
là binh, cả nước đánh giặc” tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc. Với truyền
thống yêu nước nồng nàn, tự lập tự cường, anh dũng bất khuất gắn liền với ngọn cờ
đại nghĩa chiến đấu vì độc lập, thống nhất đất nước “nhân dân ta đã sớm có ý thức
gắn quyền lợi của Tổ quốc với quyền lợi của gia đình và bản thân, gắn bó nước với
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
17


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
nhà, làng với nước trong mối quan hệ keo sơn bền chặt”, “nước mất nhà tan”, câu
nói đó đã có từ lâu đời cho nên mỗi khi có giặc xâm lược thì mọi người đều đồng
lịng đứng dậy chống giặc để giữ nước, giữ nhà. “Cả nước chung sức đánh giặc đó
là truyền thống quân sự của dân tộc Việt Nam”.
Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, các nhà nước phong kiến Đại
Việt đã tổ chức sử dụng lực lượng vũ trang cùng nhân dân biên giới, đánh bại mọi
âm mưu thủ đoạn mua chuộc lơi kéo, kích động...của kẻ thù, giữ vững biên cương
của Tổ quốc, các địa phương cịn tích cực tổ chức lực lượng, động viên nhân dân
chủ động xây đồn luỹ, chuẩn bị vũ khí sẵn sàng đánh giặc.
Thời nhà Lý đã động viên hàng trăm vạn dân tham gia lập nên thế “hoành
trận” để đánh giặc ở sông Cầu (sông Như Nguyệt). Do cũng chuẩn bị tốt lực lượng,
thế trận nên quân dân địa phương vùng Lạng Sơn, Cao Bằng cùng quân đội triều
đình sang đất Tống để phá thế tiến công chuẩn bị trước của giặc. Sự tham gia đông
đảo của quần chúng nhân dân với khí thế tiến cơng ngày càng mạnh đã trở thành

nhân tố rất quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng và bảo tồn dân tộc.
Thời nhà Trần tổ chức hội nghị “Diên Hồng”, cùng nhân dân bàn cách đánh
giặc sau hội nghị cả nước dấy lên phong trào đánh giặc lập công. Tiêu biểu là đội
dân binh người Tày ở Lạng Sơn do Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh chỉ huy cùng
một bộ phận quân triều đình liên tục chặn giặc trong nhiều ngày đêm. Đội quân gia
nô của Nguyễn Địa đã chém chết tên phản bội Trần Kiệm ngay trên mình ngựa
trước cửa Chi Lăng. Lực lượng dân binh ở Tây Bắc do Hà Bổng, Hà Đặc, Hà
Chương đã chặn đánh kiên quyết liên tục quân Nguyễn ở Thu Vạt, Bạch Hạc...khi
tiến công địch ở Nam Thăng Long, lực lượng dân binh, quân các lộ phủ của Trần
Thống, Nguyễn Khả Lạp đã phối hợp với qn triều đình đánh giặc lập nên chiến
cơng ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương.
Chiến thắng Vạn Kiếp có cơng to lớn của Hoài Văn Hầu, Trần Quốc Toản
- người đã tổ chức chặn đánh quyết liệt ở sông Như Nguyệt buộc quân Nguyên
phải đi vào đúng thế trận của ta. Trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng được
nhân dân đồng lòng, quyết tâm ra sức ủng hộ Trần Quốc Toản, đã giàn thế trận
hiểm, kết hợp với tài nghi binh lừa địch của dân binh địa phương, ta đã bắt gọn
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
18


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
quân giặc, bắt sống nhiều tướng giặc như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Trích Lê Cơ. Ba
lần xâm lược Đại Việt, cả 3 lần đều thất bại dưới quân và dân ta, làm cho kẻ thù
khiếp sợ không dám xâm phạm. Thắng lợi của dân tộc ta đã góp phần làm suy
yếu thế lực của đế quốc Mông Cổ, làm thất bại âm mưu biến nước ta thành bàn
đạp để mở rộng xâm lược xuống các nước Đơng Nam á. Đó là những cống hiến
quan trọng có ý nghĩa lớn lao của dân tộc ta đối với cuộc chiến tranh của các dân
tộc Châu á chống xâm lược và thống trị của đế quốc Nguyên - Mông hồi thế kỉ

XIII.
Khởi nghĩa Lam Sơn với mục tiêu “kéo cùng dân ra khỏi lầm than”, quân
khởi nghĩa được nhân dân ủng hộ mạnh mẽ phát triển lên thành cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc. Khi đánh giặc, quân khởi nghĩa đi đến đâu cũng “chật đất
người theo”, nghĩa quân đánh giặc ở đâu nhân dân ở đó nổi dậy hưởng ứng. Quân
Lam Sơn tiến qn vào Nghệ An, Tân Bình, Thanh Hố người trẻ gia nhập nghĩa
quân, người già cũng tham gia đánh giặc, chỉ riêng Trà Lân đã có hơn 5000 thanh
niên được tuyển vào quân đội. Khi tiến quân ra Bắc Bộ, cả đồng bằng vùng lên
đánh giặc, chiến thắng Tốt Động, Chúc động, Đơng Quan, Chi Lăng đều có dân
binh và nhân dân trong vùng giúp sức mà sử sách cịn ghi “Hào kiệt các lộ ở kinh
đơ và nhân dân các lộ, phủ, huyện tấp nập kéo đến cửa quân hết sức liều chết đánh
thắng giặc ở các xứ”. Sau mười năm chiến đấu bền bỉ, gian khổ và ngoan cường,
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Thắng lợi của cuộc chiến thật là oanh liệt, toàn diện và triệt để đã đập tan hồn tồn
ý chí xâm lược nước ta của nhà Minh, đất nước được giải phóng và nền độc lập dân
tộc nhờ đó mà được bảo đảm gần 4 thế kỉ (đầu thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XVIII)
không bị nạn ngoại xâm, phong kiến phương Bắc đe doạ.
Dưới chế độ hà khắc và ngột ngạt của họ Nguyễn, nhân dân ta từ lâu đã tích
chứa nhiều bất mãn oán giận và căm thù. Phong trào đấu tranh của nhân dân đàng
trong có nổ ra chậm hơn đàng ngồi nhưng mỗi khi bùng nổ thì lại rất mạnh mẽ và
kiên quyết. Từ đó cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ, nghĩa quân tiến công vào
đàng trong được nhân dân hết lòng ủng hộ đánh tan chúa Nguyễn, tiêu diệt quân
Xiêm tiến quân ra đàng ngoài tiêu diệt luôn cả Chúa Trịnh, thống nhất đất nước.
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
19


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)

Trước họa xân lược của giặc Thanh, mùa xuân năm 1789 Quang Trung cấp tốc mở
cuộc hành binh ra Bắc, chỉ dừng lại Nghệ An có 10 ngày mà đã có hàng vạn thanh
niên tình nguyện gia nhập nghĩa quân. Trong các trận quyết chiến ở Ngọc Hồi,
Khương Thượng, Thăng Long có sự giúp đỡ phối hợp của nhân dân, nghĩa quân đã
có “luỹ mộc” để cản phá hoả lực của Hứa Tế Hanh lập thành “trận rồng lửa” (hoả
long trận) quân vây kín bốn mặt thành, đánh tan hàng vạn quân của Sầm Nghi
Đống, Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa khơng kịp đóng n, người khơng
kịp mặc áo giáp vượt cầu phao nhằm hướng Bắc mà chạy.
Trong các cuộc chiến tranh này, ngoài lực lượng quân sự thì dân chúng cũng
tham gia trực tiếp chống giặc bằng nhiều hình thức rất phong phú, ra sức hỗ trợ về
mọi mặt để đánh thắng kẻ thù. Đối với đất nước ta, trước nạn xâm lược thường
xuyên đe dọa của kẻ thù, các vị lãnh tụ luôn biết dựa vào dân, coi việc chăm lo súc
mạnh của nhân dân làm nền tảng cho việc giữ nước và giải phóng đất nước. Hình
thức chiến tranh nhân dân sớm xuất hiện, khơng những kế thừa được phong trào
đấu tranh có tính chất quần chúng rộng rãi với truyền thống anh hùng bất khuất đã
có từ xa xưa, mà cịn phát triển lên một trình độ mới rất cao, lập nên những kỳ tích
vang dội với những chiến cơng hiển hách. Hình thức tổ chức lực lượng quân sự lúc
này bao gồm ba thứ quân (quân cấm của triều đình, quân các lộ các địa phương và
dân binh) ngày càng hoàn thiện, gồm bộ binh, thuỷ quân và các loại hình binh
chủng khác. Tổ tiên ta đánh thắng địch không chỉ ở miền rừng núi, trung du mà ở
cả đồng bằng, trên sông nước và ngoài cửa biển. Đánh thắng giặc Tống, Nguyên,
Minh, Xiêm, Thanh đã chứng minh sức mạnh toàn dân trong nghệ thuật đánh giặc
“toàn dân là binh cả nước đánh giặc”, điều đó được nhà quân sự thiên tài Trần
Quốc Tuấn khẳng định “Sở dĩ nước ta thắng được giặc ngoại xâm qua nhiều thời
đại là do ta biết đồng lòng đánh giặc, cả nước chung sức…”, ngược lại thời Hồ
dựng nước và giữ nước theo tư tưởng “ích kỉ phi gia”, “để trong nước lịng dân
ốn hận”. vì thế dù cho Hồ Quý Ly có xây thành cao, đắp được luỹ dày thì khi
chiến tranh xảy ra mà “dân không theo” cũng dẫn đến thất bại thảm hại, làm cho
đất nước bị đô hộ kéo dài hàng ngàn năm.
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng


SVTH: Lữ Đức Báu

20


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
Thứ hai, Với sức mạnh“toàn dân là binh, cả nước đánh giặc” đã hình thành
nên thế trận đánh giặc độc đáo, sáng tạo ra nhiều cách đánh đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình đánh giặc, quân và dân nước Đại Việt đã khéo léo vận dụng
kết hợp chặt chẽ giữa mưu, kế, thế, thời, lực để tạo ra sức mạnh của ta đánh phá,
làm suy yếu hạn chế thế mạnh của địch trên phạm vi chiến lược và chiến đấu tiêu
diệt chúng. Thế trận của ta là kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương (thế của các
lộ, các vương hầu xưa kia, thế bộ đội địa phương và quân du kích) với thế trận
chiến tranh bằng hoạt động tác chiến của quân chủ lực (du quân của triều đình) là
thế trận chiến lược của các lực lượng vũ trang kết hợp với các lực lượng chính trị
triển khai trên các địa bàn xung yếu và kết hợp chặt chẽ với nhau hãm địch vào thế
khơng có lợi.
Thời nhà Lý do tạo được thế bất ngờ chủ động đánh trước phá được thành
lũy của giặc ở hai đầu đất nước đã làm đảo lộn kế hoạch xâm lược của kẻ thù.
Trong trận tiến công thành Ung Châu, tướng giặc Tô Giám thúc quân phòng thủ
chống trả quyết liệt. Quân ta đã sử dụng cách đánh vừa vây hãm vừa công thành,
trong đột phá ta sử dụng hoả công, thang mây (vân thê) để nhập thành, đào hầm
qua chân thành, dùng bao đất xếp thành bậc cao đưa quân vào thành đánh phá. Khi
lui về phòng thủ đất nước, quân dân tổ chức thành hai tuyến chặn giặc. Tuyến trước
do quân các lộ, phủ cùng dân binh địa phương bố trí lực lượng dọc các tuyến đường
bộ và đường sông mà địch tiến công, dựa vào thế hiểm trở của núi rừng, sông suối,
đèo ải để chặn đánh giặc. Tuyến sau dựa vào thế núi, thế sông ta xây dựng chiến
luỹ dài hàng trăm dặm, cao mấy thước; ở Nam sông Như Nguyệt, phía trước đóng

cọc tre dày đặc với nhiều hầm chơng. Lực lượng bố trí có qn bộ, qn thủy cùng
với dân binh tại chỗ có cả thế phịng và thế cơng tạo nên thế trận vững chắc, có cả
chính diện, chiều sâu và trọng điểm phát huy sức mạnh, sở trường của các lực
lượng, chặn giặc ở phía trước, tiến đánh giặc ở phía sau, hãm địch vào thế bất lợi để
ta chuyển sang phản công. Trong tiến công, qn ta lại dùng kế “dương Đơng kích
Tây”, tổ chức những trận tập kích bất ngờ làm cho quân Tống không kịp chống đỡ
tổn thất rất nhiều. Kết hợp với địn tiến cơng ngoại giao, dân tộc ta đã đánh bại
cuộc chiến tranh xâm lược của giặc Tống. Thắng lợi huy hoàng của cuộc kháng
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
21


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
chiến trước hết là kết quả của một bước phát triển vượt bậc của dân tộc ta mọi mặt
về tinh thần, vật chất và tổ chức. Sau hơn một thế kỉ giành được độc lập (thế kỉ X),
do sự lớn mạnh đó quân dân thời Lý đã tiến hành cuộc kháng chiến với tinh thần
chủ động, tư thế đạp lên đầu kẻ thù, khí phách hiên ngang và ý thức sâu sắc về
quyền bất khả xâm phạm của dân tộc, làm chủ đất nước và vận mệnh của mình.
Thời Trần, quân dân ta đã lợi dụng địa hình, địa vật phát huy sức mạnh quân
thuỷ bộ, quân các lộ, phủ cùng nhiều lực lượng dân binh tại chỗ chặn đánh địch
từng bước. Quân ta còn chủ động rút lui chiến lược phối hợp đánh phá mạnh mẽ ở
phía trước bên sườn, phía sau bằng địn qn sự, binh vận triệt phá quân lương để
tiêu hao hạn chế thế mạnh ban đầu của giặc. Quân dân thời Trần còn lập kế nghi
binh, bí mật cơ động lực lượng làm cho kị binh Nguyên - Mông càng truy đuổi
càng không đánh được đối phương mà lực lượng ngày càng tiêu hao mệt mỏi. Quân
dân ta đánh tan được ý đồ đánh lớn, tiến công hợp vây từ nhiều hướng mũi của kẻ
thù, bảo vệ được lực lượng, lập được thế trận nhân dân. thời Trần đã hãm được giặc
Nguyên vào thế “Bị treo lơ lửng” làm cho chúng sức cùng lực kiệt (xưa kia quân kị

binh Mông Cổ rất cơ động, giỏi đánh ngoài thành luỹ, trên đồng nội đã phát huy
được cao độ sở trường của chúng trên nhiều chiến trường từ á sang Âu”. Nhưng
trước những cách đánh sáng tạo, mưu mẹo của quân ta, sự gắn bó giữa quân chủ
lực triều đình với quân địa phương trong thế trận liên hồn, qn Mơng Cổ đã
khơng phát huy được cách đánh sở trường như chúng muốn; Nguyên Sử đã thừa
nhận trên đất nước Đại Việt “Quân và ngựa Nguyên - Mông đã không thể thi thố
được tài năng nào”. Tướng giặc là Thốt Hoan phải lệnh cho Toa Đơ đóng qn lại
ở Trường Yên để kiếm lương thực. Lập được thế trận, tạo được thời cơ; quân dân
thời Trần chuyển sang phản công trên cả 3 hướng chiến lược, tiêu diệt cả hai tập
đồn qn của Thốt Hoan và Toa Đơ. Để tiêu diệt cụm quân Thoát Hoan ở Thăng
Long nhà Trần đã phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính binh của Trần Quang
Khải với lực lượng kị binh của Trần Quốc Tuấn cùng lực lượng dân binh tại chỗ tạo
nên sức mạnh đánh tan quân giặc ở A Lỗ, Giám Khẩu, Tây Kết, Hàm Tử, Chương
Dương giải phóng Thăng Long, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trốn chạy về
nước. Đó thực sự là cách đánh “Phàm chiến đấu lấy đạo chính để hợp, lấy đạo kỳ
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
22


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
để thắng, chính kỳ biến hố khơn cùng vậy”. Trong vịng 30 năm (1258 - 1288) dân
tộc ta đã 3 lần đương đầu với những đạo quân xâm lược khét tiếng của đế quốc
Mông Cổ đang chiến thắng khắp trên thế giới. Mỗi lần xâm lược, quy mô và mức
độ của chiến tranh lực càng lớn, ác liệt hơn, nhưng mỗi lần kháng chiến, dân tộc ta
lại càng kiên cường, sáng tạo, chiến thắng lại càng vẻ vang hơn.
Khởi nghĩa Lam Sơn, nghĩa quân đã phát huy thế mạnh của chiến tranh giải
phóng dân tộc, sức mạnh của tồn dân, vận dụng cách đánh vây hãm thành, đánh
quân cứu viện. Với tư tưởng “Giặc đơng ta ít, lấy ít đánh đơng, chỉ ở nơi đất hiểm

mới được công” ta thực hiện “nhử người đến chứ không để người nhử đến” trong
trận Chúc Động, Tốt Động.
Sau chiến thắng Ninh Kiều, nghĩa quân Lam Sơn được tăng cường cả về số
lượng cũng như chất lượng và trang bị vũ khí. Trên cơ sở đó nghĩa qn tiếp tục
vây hãm thành Đơng Quan và các thành luỹ nằm sâu bên trong hậu phương của ta
(như thành Nghệ An, Diễn Châu, Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh...) cịn những thành
luỹ nằm trên hai đường tiếp viện của địch từ Vân Nam và Quảng Tây đến Đông
Quan (Như thành Điêu Diêu, Thị Cầu, Xương Giang, Khâu Ôn, Tam Giang...) thì
nghĩa quân chủ trương kiên quyết tiêu diệt địch cho kỳ hết trước khi viện binh của
nhà Minh kéo sang. Đặc biệt trong giai đoạn này, công tác vận động và thuyết phục
kẻ thù được đẩy mạnh nhằm hỗ trợ cho cuộc tiến công bằng quân sự. Đúng như dự
kiến của ta, Vương Thông tập trung 9 vạn binh, sử dụng hai mũi chính kỳ vây chặt
Cao Bộ nhằm tiêu diệt quân khởi nghĩa. Nắm được ý đồ của giặc “tương kế tựu
kế”, “nhanh chóng như thần máy then đóng mở” (Nguyễn Trãi) quân ta lợi dụng
địa hình hiểm trở lập thế trận mai phục, chặn địch ở Cao Lỗ, khố đi cắt địch ở
Ninh Kiều, dồn quân Minh xuống cánh đồng Tốt Động, Chúc Động để tiêu diệt;
đúng như dự kiến đến canh năm địch tiến công lên Cao Bộ; tướng Đinh Lễ cho
pháo ở nơi yếu hại lừa địch, nghe tiếng pháo Vương Thông lầm tưởng cánh quân
kỳ đã đánh phía sau Cao Bộ, liền xua quân đi tắt vào Cao Bộ. Khi quân địch đã qua
cầu, toàn bộ quân Minh lọt vào trận địa mai phục của ta. Từ 3 phía qn ta xơng ra
thả sức chém giết, quân địch bị hãm vào đầm lầy người ngựa vướng vào nhau
không sao chống cự được, tướng Trần Hiệp tử trận, tổng chỉ huy Vương Thông bị
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu
23


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
thương, quân chết vô kể, cánh kị binh vội tháo chạy qua cánh đồng Chúc Động lại

bị rơi vào trận địa mai phục của ta quân số chết quá nửa. Sau mười năm chiến đấu
bền bỉ, gian khổ và ngoan cường cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã hoàn thành vẻ vang
nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Trong khởi nghĩa Tây Sơn, nghĩa quân đã sử dụng kế sách tác chiến “Nghi
binh thăm dị”, đưa một bộ phận linh thuyền ra phía trước tiến đánh một số trận tập
kích thăm dị rồi bỏ chạy, mặt khác sai người đàm phán với tướng Xiêm “xin” rút
binh làm cho địch càng chủ quan gây được mối nghi ngờ trong nội bộ của chúng,
phía ta có thêm thời gian chuẩn bị chiến đấu. Chúng lầm tưởng lực lượng Tây Sơn
nhỏ yếu, nên quân Xiêm - Nguyễn lợi dụng lúc nước cường, gió chướng, đêm ngày
8 tháng chạp năm Giáp Thìn (18/01/1875) đưa tồn bộ thuyền binh từ Trà Tân tiến
thẳng đến Mỹ Tho, để tiêu diệt quân Tây Sơn. Nắm được ý định của giặc, quân Tây
Sơn tổ chức thế trận phục kích trên sơng Tiền Giang tập trung lực lượng tiêu diệt
quân địch trên đoạn Rạch Gầm - Xồi Mút. Tận dụng địa hình kín đáo, hiểm trở
quân Tây Sơn bí mật bố trí thuyền binh chặn đánh đầu, khố đi, hãm địch trong
khu quyết chiến tập trung lực lượng ở hai bên bờ và cù lao Thới Sơn đánh tạt sườn
quân giặc. Khoảng đầu canh năm ngày 19/01/1785 gần 400 thuyền binh của giặc
lọt vào thế trận chiến đấu ta đã bày đặt sẵn. Bằng một thế trận chiến đấu hiệp đồng
thuỷ, bộ, pháo, Tây Sơn đã tiêu diệt gọn 5 vạn quân Xiêm - Nguyễn. Từ đó quân
Xiêm “Sợ quân Tây Sơn như sợ cọp”, vua Xiêm phải thừa nhận tướng Xiêm “Ngu
hèn, kiêu căng hung hãn đến nỗi bại trận” làm “Bại binh nhục quốc”. Nghệ thuật
đánh giặc tài giỏi của quân Tây Sơn còn được thể hiện trong cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược nhà Thanh. Trước thế mạnh của giặc, lại có lực lượng tay sai
Lê Chiêu Thống dẫn đường, qn Tây Sơn ở Bắc Hà khơng nhiều, Ngơ Thì Nhậm
nói “Phép dùng binh chỉ có một đánh, một giữ mà thơi ”. Tướng sĩ Tây Sơn đã tìm
ra cách đánh “Lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động,
tuỳ theo tình thế mà bày ra chước lạ”. Quân Tây Sơn quyết định rút về giữ vùng
đất hiểm ở Tam Điệp, Bỉm Sơn để bảo toàn lực lượng, không bỏ mất mũi tên, cho
chúng ngủ nhờ một đêm rồi lại đuổi đi. Nhận được tin quân giặc vào Thăng Long,
Quang Trung tổ chức cuộc hành binh thần tốc ra Bắc Hà, biết được quân Thanh
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng

SVTH: Lữ Đức Báu
24


Nghệ thuật quân sự của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giai
đoạn ( 1954 – 1975)
đang dựa vào quân đông, tướng nhiều, xem thường đối phương, nói “Qn Tây
Sơn như cá chậu chim lồng cịn chút hơi thừa thoi thóp khơng đáng nói đến” .
Trước tình hình đó, qn ta dùng kế “kích tướng” đẩy qn giặc vào thế chủ quan,
ít đề phịng, sai người mang thư đến Tôn Sỹ Nghị “để xin hàng”, làm cho quân
Thanh càng mất cảnh giác, xem thường ta. Tôn Sỹ Nghị ra lệnh cho Quang Trung
“Hãy rút quân về Thuận Hoá để chờ phân xử”, truyền lệnh cho quân sỹ “Nghỉ
mười ngày để cùng vui đón xuân”. Tận dụng sai lầm đó của giặc, quân Tây Sơn lập
kế hoạch, tổ chức lực lượng tiến công chiến lược đánh địch trên cả 5 hướng. Cách
đánh: Bí mật cơ động, triển khai lực lượng nhỏ, hình thành thế bao vây, vu hồi chia
cắt, đồng loạt tiến cơng chính diện, hẹp, chiều sâu lớn. Tập trung lực lượng mạnh,
đột kích vào các cụm quân lớn của giặc ở Ngọc Hồi, Khương Thượng (Đống Đa),
Thăng Long. Bị bất ngờ trước cách đánh nhanh hiểm ở phía trước, bên sườn, phía
sau của nghĩa quân Tây Sơn, quân Thanh không kịp chi viện cho nhau, quân Tây
Sơn đã thọc sâu tiến thẳng tới cung Tây Long. Tại bản doanh, Tôn Sỹ Nghị đang lo
lắng theo dõi mặt trận phía Nam để sẵn sàng điều quân đi tiếp viện. Bỗng nhiên hắn
được tin cấp báo đồn Khương Thượng bị tiêu diệt, hắn đang hoảng hốt chưa kịp đối
phó thì đạo qn của Đơ đốc Long đã tràn vào thành Thăng Long như một mũi tên
lao thẳng vào bản doanh của hắn. Hắn khiếp sợ đến nỗi không kịp mặc áo giáp và
đóng yên ngựa, vội vàng cùng với toán quân kị binh hầu cận vượt cầu phao tháo
chạy trước. Quân Thanh tan vỡ tranh nhau tìm đường chạy trốn, Tôn Sỹ Nghị ra
lệnh cắt cầu phao để cản đường truy kích của quân Tây Sơn. Do hành động tàn
nhẫn của hắn, hàng vạn quân Thanh bị bỏ xác dưới sông Hồng. Tôn Sỹ Nghị và
bọn tàn quân chạy trốn một cách thảm hại. Khắp nơi trên đường chạy trốn, chúng bị
chặn đánh tơi bời và bị tiêu diệt gần hết, số sống sót phải luồn rừng, lội suối theo

đường tắt trốn về nước. Bại tướng Tôn Sỹ Nghị cũng phải vứt bỏ tất cả sắc thư ấn
tín để lo chạy thoát thân, theo lời kể của một viên quan chạy theo Tôn Sỹ Nghị:
“Tôi và Tôn Sỹ Nghị đói cơm khát nước khơng kiếm ra đâu được, ăn uống cứ phải
đi suốt bảy ngày bảy đêm mới đến chốn Nam Quan”. Bằng một cuộc hành binh
thần tốc đánh giặc mưu trí sáng tạo chỉ trong thời gian ngắn, nghĩa quân Tây Sơn
đã quét sạch gần 30 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi nước ta.
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
SVTH: Lữ Đức Báu

25


×