Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

bài tập học kì: “Phân tích quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp bảo lãnh.”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.17 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
MỞ BÀI
NỘI DUNG
I.Khái quát về biện pháp bảo lãnh………………………………………..………..1
1. Khái niệm………………………………………………………………………..…1
2. Đặc điểm……………………………………………………………………….....1
II. Quy định của BLDS 2015 về biện pháp bảo lãnh………………………………2
1.Chủ thể của quan hệ bảo lãnh. ……………………………………………………2
2.Hình thức bảo lãnh. ………………………………………………………………3
3.Phạm vi bảo lãnh theo quy định BLDS. ……………………………………….…3
4. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh………………………………..…………..4
5. Nhiều người cùng bảo lãnh cho 1 người……………………………………….…5
6. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lãnh. ……………………..…6
7.Trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh. ………………………………………….…7
8. Xử lí tài sản của bên bảo .…………………………………………………..….…7
9.Miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định BLDS 2015. ………..…...…8
10. Các trường hợp chấm dứt bảo lãnh. ………………………………………...….9
III. Một số kiến nghị. ……………………………………………………………….9
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

0


MỞ BÀI
BLDS năm 2015 với những thay đối đáng kể đã tác động rất lớn đến việc thực
hiện giao dịch giữa các bên. Bảo lãnh là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực dân sự do tính hiệu quả của biện pháp
này. Theo đó bên bão lãnh cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ nếu bên
có nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. Và
để nghiên cứu, làm rõ xem pháp luật hiện hành quy định như thế nào về biện pháp


này em xin chọn đề tài : “Phân tích quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp
bảo lãnh.”
NỘI DUNG
I.Khái quát về biện pháp bảo lãnh
1. Khái niệm
Theo quy định tại Điều BLDS 2015 thì: “ bảo lãnh là việc người thứ ba (sau
đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo
lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo
lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ….”
Như vậy, khác với cầm cố, thế chấp và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự khác, trong bảo lãnh sẽ có sự xuất hiện của bên bảo lãnh. Bên bảo lãnh
đứng ra cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Đặc điểm:
-

Chủ thể của quan hệ bảo lãnh gồm hai bên là bên bảo lãnh và bên nhận bảo

lãnh.
- Đối tượng của bảo lãnh luôn là công việc ( thay mặt người được bảo lãnh thực
hiện nghĩa vụ).
- Bảo lãnh là một biện pháp đối nhân. Đối với biện pháp bảo lãnh, bên có quyền
chỉ được trao quyền yêu cầu đối với bên bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
và không được trao quyền đối với một tài sản cụ thể nào của bên bảo lãnh.
1


- Bảo lãnh chỉ phát sinh trên cơ sở có sự thỏa thuận của các bên chủ thể.

- Biện pháp bảo lãnh được coi là hợp đồng phụ, không tồn tại độc lập, luôn được
xác lập cùng một hợp đồng hoặc thỏa thuận khác (hợp đồng chính) với mục đích để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong một hợp đồng được xác định (hợp đồng chính).
-

Mục đích: bảo đảm việc thực hiện hợp đồng chính, có tính chất dự phịng, chỉ

được áp dụng khi hành vi vi phạm nghĩa vụ xảy ra.
- Phạm vi của các biện pháp bảo đảm: không vượt quá phạm vi của nghĩa vụ được
bảo đảm. Nếu các bên khơng có thỏa thuận khác, thì phạm vi là tồn bộ nghĩa vụ
chính.
- Nghĩa vụ giữa những người cùng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh là nghĩa vụ
liên đới, trừ khi có thỏa thuận khác
- Bên bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên có nghĩa vụ khơng thực
hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ hoặc chỉ khi bên được bảo lãnh khơng có
khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
II. Quy định của BLDS 2015 về biện pháp bảo lãnh
1. Chủ thể của quan hệ bảo lãnh.
Chủ thể của quan hệ bảo lãnh gồm 2 bên là bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh,
còn bên được bảo lãnh chỉ là chủ thể có liên quan.
Bên bảo lãnh: Là bên cam kết trước bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ được
bảo đảm trong việc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa
vụ đó nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ.
Bên nhận bảo lãnh: Là bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm
bằng biện pháp bảo lãnh.
2. Hình thức bảo lãnh.
BLDS 2015 khơng quy định về hình thức bảo lãnh. Theo đó các bên có thể tự
do lựa chọn hình thức là văn bản, lời nói hay bằng hành vi cụ thể, trừ trường hợp
pháp luật bắt buộc phải được thể hiện bằng văn bản có cơng chứng, chứng thực.


2


Đây là điểm mới rất tích cực của BLDS 2015 so với BLDS 2005. Bởi lẽ, việc không
quy định về hình thức bảo lãnh sẽ giúp các bên linh hoạt hơn, chủ động hơn trong
việc thiết lập quan hệ bảo lãnh.
Tuy nhiên, do không được lập thành văn bản, nên nếu trường hợp bên bảo
lãnh từ chối thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì đây sẽ là một rủi ro
lớn. Rõ ràng, bên nhận bảo lãnh khơng có chứng cứ hay tài liệu nào để chứng minh
bên bảo lãnh đã đứng ra bảo lãnh, do đó quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa
vụ thay cho bên được bảo lãnh của bên nhận bảo lãnh sẽ không thể thực hiện.
3.Phạm vi bảo lãnh theo quy định BLDS.
Theo quy định tại Điều 336 BLDS thì phạm vi bảo lãnh có thể là 1 phần hoặc
tồn bộ nghĩa vụ và có mở rộng thêm nghĩa vụ bảo lãnh gồm cả “lãi trên số tiền
chậm trả” so với quy định chỉ có “tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt
hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác” ở BLDS 2005[5]. Với quy định trên, việc
BLDS 2015 mở rộng thêm nghĩa vụ bảo lãnh gồm cả “lãi trên số tiền chậm trả” nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích của bên nhận bảo lãnh. Rõ ràng, khi bên bảo lãnh và bên được
bảo lãnh chậm trả nợ cho bên nhận bảo lãnh, thì bên nhận bảo lãnh khơng thể sử
dụng khoản tiền đáng ra là của họ để thực hiện cơng việc khác, do đó, pháp luật đã
bổ sung thêm quy định này với mục đích bảo đảm lợi ích đáng ra bên nhận bảo lãnh
sẽ được hưởng, nếu khơng có hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia.
Ví dụ: M vay N số tiền 100 triệu đồng, thời hạn 3 tháng, lãi suất 1% /tháng. K
bão lãnh toàn bộ nghĩa vụ trả nợ của M. Sau 3 tháng, nếu M khơng có khả năng
thanh tốn, thì K phải thực hiện nghĩa vụ đó thay M. BLDS 2015 quy định rằng, K sẽ
phải thay M trả số tiền 100 triệu đồng cho N, cùng với đó là số tiền lãi 3 triệu đồng
(1% /tháng) và số tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại (nếu có). Giả sử, 1 tháng sau đó,
K mới trả 100 triệu cho N, thì K buộc phải thanh tốn cho N thêm lãi trên số tiền
chậm trả (100 triệu đồng) trong 1 tháng đó theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà

nước.
- Mặt khác, tại Khoản 3 Điều 336 BLDS 2015 cũng quy định thêm việc các bên có
thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh. Vì về nguyên tắc, bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm mang tính đối
nhân, tức là, quyền của bên nhận bảo lãnh có được thỏa mãn hay khơng hồn tồn
phụ thuộc vào bên bảo lãnh. Do đó, để nâng cao tinh thần trách nhiệm của bên bảo
3


lãnh trong việc nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ của mình khi phát sinh, pháp luật quy
định khi các bên thỏa thuận tiếp tục áp dụng một biện pháp bảo đảm bằng tài sản
khác trong quan hệ bảo lãnh để ràng buộc, dự phịng thì pháp luật cũng sẽ tơn trọng
và bảo đảm thực hiện thỏa thuận đó. Chẳng hạn A cam kết bảo lãnh cho B vay tiền
của C. Để ràng buộc trách nhiệm của A cũng như đảm bảo tối đa quyền và lợi ích của
mình trong quan hệ này. A và C thỏa thuận, A phải dùng một tài sản để chuyển giao
cho C (cầm cố) để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh.
- Ngoài ra, Khoản 4 Điều 336 BLDS cũng quy định trường hợp nghĩa vụ được bảo
lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh khơng bao gồm nghĩa
vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.
Bởi vì các chủ thể này khơng cịn năng lực chủ thể trong các quan hệ pháp lụật nói
chung và quan hệ bảo lãnh nói riêng.
4. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ nếu đến thời hạn mà bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của họ trước bên nhận bảo
lãnh. Do đó, khi chưa đến hạn thực hiện nghiã vụ của bên được bảo lãnh, thì bên
nhận bảo lãnh khơng có quyền u cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên được bảo lãnh ( Điều 339 BLDS).Tuy nhiên bên bảo lãnh không phải thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với
bên được bảo lãnh.
Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bắt đầu tư thời điểm nào thì người

bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó được xác định theo từng trường hợp cụ thể.
Tại Điều 335 BLDS có quy định bên bảo lãnh : “sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà
bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ” nên thời
điểm mà theo đó bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ được xác định theo hai trường
hợp:
Thứ nhất, khi nghĩa vụ được abor đảm bằng bảo lãnh đến thời hạn thực hiện. Xác
định việc thực hiên nghĩa vụ của bên bảo lãnh bắt đầu từ thời điểm này trong trường
hợp các bên trong quan hệ bảo lãnh không có thỏa thuận khác về thời điểm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh. Như vậy trong trường hợp này bên nhận bảo lãnh có quyền yêu

4


cầu bên bảo lãnh thực hiện nghãi vụ kể từ thời điểm bên được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ khi đên hạn.
Thứ hai, nếu các bên có thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện
nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ, thì nếu khơng
có căn cứ xác định bên được bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện , bên nhận bảo
lãnh khơng được quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện thay. Như vây thời điểm
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp này được xác định từ thời điểm có đủ
căn cứ để xác định về việc bên được bảo lãnh khơng cịn khả năng thực hiện nghĩa
vụ.
5. Nhiều người cùng bảo lãnh cho 1 người
Thông thường, đối với 1 nghĩa vụ chỉ cần 1 người bảo lãnh là có thể đảm bảo
cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên trong 1 số trường hợp, việc 1 người
bảo lãnh cho người khác có thể xảy ra những trường hợp sau: Họ chỉ cam kết bảo
lãnh cho 1 phần nghĩa vụ; hoặc cam kết bảo đảm toàn bộ nghĩa vụ nhưng thực tế khả
năng để đảm bảo cho việc thực hiện tồn bộ nghĩa vụ là khơng khả thi. Hai trường
hợp này có thể dẫn đến tình trạng quyền của bên nhận bảo đảm không được thực

hiện mặc dù vẫn áp dụng biện pháp bảo đảm.
Do đó pháp luật quy định trường hợp các bên có thể thỏa thuận để nhiều người
cùng bảo lãnh 1 nghĩa vụ , theo đó những người này phải liên đới thực hiện việc bảo
lãnh: “Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì phải liên đới thực hiện việc
bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo
các phần độc lập; bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo
lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ….”
Đồng thời BLDS 2015 cũng quy định: “ khi một người trong số những người bảo
lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì có quyền
u cầu những người bảo lãnh cịn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với
mình.”
Tuy nhiên việc nhiều người đứng ra bảo lãnh cho 1 người vẫn có thể được thực
hiện riêng rẽ, độc lập nếu các bên có thỏa thuận bảo lãnh theo từng phần riêng rẽ. Gỉa
sử A vay B 1 tỷ, C bảo lãnh cho A sẽ trả 500 triệu, D bảo lãnh sẽ trả 500 triệu còn lại.
Trong trường hợp này, nghĩa vụ của A có hai người cùng bảo lãnh và đây là trường
hợp bảo lãnh theo phần ( các bên thỏa thuận, mỗi người bảo lãnh thực hiện 1 phần
5


nghĩa vụ tương ứng trong phạm vi bảo lãnh đã thỏa thuận mà khơng có quyền u
cầu 1 trong số những người bảo lãnh thực hiện toàn bộ nghĩa vụ).
6. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lãnh.
Quyền và nghĩa vụ của bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh được đề cập trong
hầu hết các quy định của BLDS từ Điều 335- Điều 342. Theo đó tại Điều 340 BLDS
2015 quy định rằng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên bảo lãnh có quyền yêu
cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo
lãnh đã thực hiện.
Với quy định này, bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo
lãnh đến đâu (trong phạm vi bảo lãnh) thì họ có quyền u cầu bên được bảo lãnh
phải hồn trả lại cho họ đến đó. Rõ ràng, thời điểm bên bảo lãnh có quyền yêu cầu

theo quy định của BLDS 2015 là sớm hơn so với quy định bên bảo lãnh chỉ được
quyền yêu cầu bên được bảo lãnh hoàn trả lại nghĩa vụ mà họ đã thực hiện thay khi
họ đã hoàn thành nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh.
Bởi bên bảo lãnh không phải là bên có nghiã vụ đối với bên nhận bảo lãnh,
mà bên bảo lãnh chỉ cam kết, đứng ra đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên
có nghãi vụ (bên được bảo lãnh) khi bên đó khơng thực hiện hoặc thực hiện không
đúng. Hay trường hợp bên được bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ thì
bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay. Bên được bảo lãnh chỉ không phải thực hiện
nghiã vụ với bên nhận bảo lãnh, nhưng sẽ phát sinh nghĩa vụ hoàn trả giữa bên được
bảo lãnh với bên bảo lãnh. Vì vậy Điều 340 BLDS đã quy định bên bảo lãnh có
quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ với mình trong phạm vi nghĩa
vụ bảo lãnh đã thực hiện.
Ví dụ: C vay D số tiền 300 triệu đồng, thời hạn vay là 6 tháng. E bảo lãnh toàn bộ
khoản vay trên của C. Khi hết thời hạn, nếu C khơng có khả năng thanh tốn đầy đủ
cho D, thì E phải thực hiện nghĩa vụ đó. Giả sử, E thỏa thuận với D sẽ thanh toán
trước cho D 200 triệu đồng, số tiền cịn lại sẽ thanh tốn tiếp trong vịng 1 tháng và
được D chấp thuận. Thì trong tình huống này, sau khi E thanh tốn trước cho D 200
triệu đồng, thì E có quyền u cầu C hoàn trả số tiền 200 triệu đồng mà E đã trả thay
cho C, chứ không cần phải đợi đến khi E trả đủ số tiền 300 triệu đồng cho D.

6


Tuy nhiên bên bảo lãnh đang là bên có nghĩa vụ, cịn bên nhận bảo lãnh là
bên có quyền. Theo Khoản 2 Điều 339 thì bên bảo lãnh khơng phải thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh trong trường hợp bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được
bảo lãnh. Nghĩa vụ của 2 bên chủ thể này có thể bù trừ cho nhau khi thỏa mãn điều
kiện: cả 2 nghĩa vụ cùng đến hạn; đối tượng của 2 nghĩa vụ cùng loại; nghĩa vụ
khơng có tranh chấp; nghĩa vụ không thuộc trường hợp không được bù trừ.
7.Trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh.

Điều 342 BLDS đã có quy định cụ thể hơn, nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của
bên nhận bảo lãnh khi bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ bảo lãnh, thông qua việc trao cho họ quyền được yêu cầu bên bảo lãnh
thanh toán giá trị nghĩa vụ và buộc bên bảo lãnh phải bồi thường thiệt hại (nếu có) do
hành vi vi phạm nghĩa vụ đó gây ra. Thiệt hại có thể là thiệt hại thực tế do hành vi vi
phạm nghĩa vụ đó gây ra, hoặc có thể là khoản lợi mà bên nhận bảo lãnh đáng lẽ sẽ
được hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm đó.
Quy định về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh cho thấy bên bảo lãnh phải
chịu trách nhiệm khi vi phạm nghĩa vụ theo nguyên tắc chung của trách nhiệm dân
sự. Việc không thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh có thể làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại. Chẳng hạn A vay B 1 tỷ đồng trong thời hạn 12 tháng, với lãi
xuất 1% /tháng. D đứng ra bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ trả tiền của A. Hết 12 tháng, A
không trả được 1 tỷ đồng cho B. Trong trường hợp này thì D có nghĩa vụ phải trả nợ
thay A. Nếu D không thực hiện, hoặc thực hiện khơng đúng, thì B có quyền yêu cầu
D phải thanh toán số tiền gốc cộng lãi và phải bồi thường thiệt hại (nếu có).
8. Xử lí tài sản của bên bảo lãnh.
BLDS năm 2015 khơng có 1 quy định cụ thể về vấn đề xử lí tài sản khi bên bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trước bên
nhận bảo lãnh.
Tuy nhiên căn cứ theo khoản 1 Điều 299 Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định
các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm
mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Đồng
thời,tại Điều 47 Nghị định 163/2006/NĐ-CP có quy định về vấn đề xử lí tài sản của
bên bảo lãnh. Theo đó, trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc cầm cố, thế
7


chấp tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì tài sản cầm cố, thế chấp
được xử lí theo quy định tại Chương IV Nghị định này. Trường hợp các bên không
thỏa thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản để bảm đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

thì bên bảo lãnh phải giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên nhận bảo lãnh xử lý
theo yêu cầu của bên đó, trừ khi có thỏa thuận khác. Nếu tại thời điểm xử lý tài sản
của bên bảo lãnh, mà bên bảo lãnh khơng có tài sản để xử lý hoặc khoản tiền thu
được từ việc xử lý tài sản khơng đủ thanh tốn nghĩa vụ được bảo lãnh thì trong
phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh , bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh
phải giao tài sản có được sau thời điểm xử lý cho mình để tiếp tục xử lý.
9. Miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định BLDS 2015.
So với BLDS 2005, tại Khoản 1 Điều 341 BLDS 2015 đã có 1 quy định mới
đó là trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác, nếu bên nhận
bảo lãnh đã miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh
cũng khơng cịn phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh nữa.( vấn đề miễn
chỉ đặt ra khi nghĩa vụ của bên được bảo lãnh chưa được thực hiện đối với bên nhận
bảo lãnh). Bởi khi người nhận bảo lãnh quyết định miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho
bên bảo lãnh tức là họ khơng cịn cần đến sự thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh
cũng như người được bảo lãnh.Với quy định mới này, có thể thấy rằng, nhà làm luật
đã hướng đến việc coi nghĩa vụ của bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là một. Từ đó,
nếu bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh, thì cũng có
nghĩa họ miễn ln nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
Chẳng hạn A vay B 2 tỷ, C bảo lãnh toàn bộ khoản vay của A. Nếu hết thời hạn
vay, mà A khơng có khả năng trả nợ, thì C phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ đó. Tuy
nhiên, nếu B miễn việc thực hiện nghĩa vụ đó cho C, thì đồng thời A cũng khơng phải
thực hiện nghĩa vụ trả nợ này nữa.
Đồng thời theo quy định tại Khoản 2 Điều này thì : “trong trường hợp chỉ một
trong số nhiều người cùng bảo lãnh liên đới được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ
bảo lãnh của mình thì những người khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của
họ”.Vì nghiã vụ của những người bảo lãnh liên đới không phân chia theo phần độc
lập, cho nên nguời bảo lãnh còn lại phải thực hiện nghĩa vụ liên đới với toàn bộ nghĩa

8



vụ. Sau khi thực hiện xong thì có quyền u cầu người bảo lãnh khác phải hoàn trả
theo phần của họ, phần cịn lại thì u cầu người được bảo lãnh hồn trả.
Đây có thể coi là quy định khác của BLDS về miễn thực hiện nghĩa vụ liên
đới. Nếu đối chiếu với quy định về nghĩa vụ liên đới tại khoản 4 Điều 288 Bộ luật
này thì khi nhiều người có nghĩa vụ liên đới mà 1 người được miễn thực hiện nghĩa
vụ thì những người có nghĩa vụ liên đới còn laị phải thực hiện nghĩa vụ liên đới đối
với phần của họ chưa được miễn.
Ngoài ra bên bảo lãnh cũng sẽ được miễn nghĩa vụ nếu một trong số những người
nhận bảo lãnh liên đới miễn cho họ khơng phải thực hiện phần nghĩa vụ đối với
mình. Tuy nhiên bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với
những người nhận bảo lãnh liên đới còn lại.( Khoản 3 Điều 341)
10. Các trường hợp chấm dứt bảo lãnh.
Theo quy định tại Điều 343 BLDS thì biện pháp bảo lãnh có thể chấm dứt khi
nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt. Bởi các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự là nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền, và nó mang tính
dự phịng cho việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, đồng thời nó cũng ngăn ngừa và
khắc phục hậu quả xấu do sự vi phạm nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ gây ra. Việc
nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh chấm dứt thì việc bảo lãnh cũng chấm dứt vì
thời hạn tồn tại bảo lãnh là thời hạn tồn tại nghĩa vụ được bảo lãnh.
Việc bảo lãnh cũng có thể được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo
đam khác. Nếu bảo lãnh chấm dứt khi các bên có thỏa thuận hủy bỏ thì lúc này quan
hệ nghĩa vụ giữa bên có nghãi vụ và bbên có quyền trở thành quan hệ nghĩa vụ khơng
có biện pháp bảo đảm. Cịn trong trường hợp chấm dứt việc bảo lãnh do các bên thỏa
thuận thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác thì quan hệ nghiã vụ giữa các bên sẽ là
quan hệ nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm ( nhưng đây sẽ là 1 biện pháp bảo đảm
khác).
Ngoài ra theo Khoản 4 Điều thì nếu bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh thì việc bảo lãnh cũng sẽ chấm dứt.
III. Một số kiến nghị.


9


Thứ nhất, tiếp tục quy định về các vấn đề liên quan đến bên bảo lãnh, ví dụ
như: Quy định về việc bên bảo lãnh phải viết rõ giá trị tiền cam kết bảo lãnh bằng số
và bằng chữ; quy định về việc bên nhận bảo lãnh có nghĩa vụ phải thông tin đối với
bên bảo lãnh về giá trị của nghĩa vụ bảo lãnh, khả năng tài chính của bên được bảo
lãnh.
Thứ hai, quy định cụ thể trường hợp bên nhận bảo lãnh phải yêu cầu bên được
bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình trước. Nếu bên được bảo lãnh
khơng có tài sản thì bên nhận bảo lãnh mới có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Điều này là cần thiết nhằm phòng ngừa khả năng bên bảo
lãnh chối bỏ trách nhiệm của mình, vì thực tế cho thấy có nhiều trường hợp bên bảo
lãnh xác định mình là người có nghĩa vụ thứ hai và chỉ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
khi người có nghĩa vụ chính (bên được bảo lãnh) khơng có khả năng thực hiện.
Thứ ba, quy định việc bên bảo lãnh có quyền viện dẫn tất cả những vi phạm về
hình thức và nội dung mà bên được bảo lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện
nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, vì đây là một yếu tố mấu chốt, thể hiện tính phụ
thuộc của biện pháp bảo lãnh đối với nghĩa vụ được bảo lãnh.
Thứ tư, quy định về điều kiện đối với bên bảo lãnh, vì khả năng bên bảo lãnh
thực hiện đầy đủ, đúng cam kết bảo lãnh là vấn đề đặc biệt quan trọng khi áp dụng
biện pháp bảo lãnh. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà pháp luật một số nước quy
định khả năng thanh toán nợ là một trong các điều kiện bắt buộc của bên bảo lãnh.
Thứ năm, quy định cụ thể, rõ ràng về phạm vi trách nhiệm và cách thức xử lý
trách nhiệm về tài sản đối với các bên trong trường hợp bảo lãnh (khoản 1 Điều 336
BLDS năm 2015) và trường hợp có thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài
sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (khoản 3 Điều 336 BLDS năm 2015)
KẾT LUẬN
Từ sự phân tích ở trên cho thấy, pháp luật đã có nhưng quy định rất cụ thể về

biện pháp bảo lãnh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Thông qua các quy định
này, các bên khi tiến hành giao dịch sẽ có cơ sở, căn cứ để thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình sao cho phù hợp. Đồng thời đảm bảo hiệu quả tối đa khi áp dụng
biện pháp bảo lãnh.
10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ luật Dân sự năm 2015.
2.Giao trinh Luật Dân sự-Trường Đại học Luật Hà Nội.
3. Bình luận khoa hoạc Bộ luật Dân sự - Nhà xuất bảnTư pháp.
4. Bình luận khoa hoc những điểm mới của Bộ luật Dân sự - Nhà xuất bản Hồng
Đức.
5.Bộ Tư pháp

- />
doi.aspx?ItemID=2038
6. />7.Luật Tiến Đạt -

11



×