Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh việ bàn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.54 KB, 104 trang )

1

LỜI CẢM ƠN
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại
học Trường Đại học Vinh, Phòng Sau đại học Trường Đại học Sài Gòn, các giảng
viên, các nhà khoa học đã tận tình giảng dạy, trang bị kiến thức, xây dựng cơ sở
khoa học nền móng cho Tơi trong việc nghiên cứu đề tài này.
Đặc biệt, Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến TS. Đinh Trung Thành,
người đã cung cấp tài liệu và trực tiếp hướng dẫn Tôi trong suốt thời gian nghiên
cứu và hồn thành luận văn này.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phố, các
đồng chí lãnh đạo phịng và các đồng chí, đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi,
giúp Tôi trong việc cung cấp thông tin và tư vấn khoa học trong q trình nghiên
cứu để Tơi có cơ sở khoa học đề ra các giải pháp và hồn thành luận văn.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, song khả năng của tác giả còn hạn chế nên
luận văn khơng tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của quý thầy cơ giáo và đồng nghiệp để luận văn hồn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
Nghệ An, ngày 20 tháng 6 năm 2016
Tác giả luận văn

NGUYỄN DUY HIỂU


2

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG ...................................................................................................... 9
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM
Y TẾ HỌC SINH, SINH VIÊN .......................................................................... 9


1.1. Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên ............................................................... 9
1.2. Những nội dung cơ bản của thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế học sinh,
sinh viên ........................................................................................................... 23
1.3 Sự cần thiết khách quan của thực hiện hiện chính sách Bảo hiểm y tế học
sinh, sinh viên .................................................................................................. 31
Kết luận chương 1 ........................................................................................... 37
Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ
HỌC SINH, SINH VIÊN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ....................... 38
2.1. Khái quát về Bảo hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh ........................... 38
2.2 Tình hình thực hiện Chính sách Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên ở thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua ............................................................. 44
2.3. Đánh giá việc thực hiện Chính sách Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên ở
thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................... 65
Kết luận chương 2 .......................................................................................... 74
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI HỌC
SINH, SINH VIÊN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........ 76
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế học
sinh, sinh viên .................................................................................................. 76
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHYT đối với
HSSV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay ........... 79
Kết luận chương 3 ........................................................................................... 91
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................... 92
Kết luận .............................................................................................................. 92
Kiến nghị ............................................................................................................ 92
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 94


3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH : Bảo hiểm xã hội
BHYT: Bảo hiểm y tế
BHTM: Bảo hiểm thương mại
CSSK BĐ: Chăm sóc sức khỏe ban đầu
GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo
HSSV: Học sinh, sinh viên
KCB : Khám chữa bệnh
TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh
UBND: Ủy ban nhân dân
YTTH: Y tế trường học
DVYT: Dịch vụ y tế


4

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Số lượng HSSV tham gia BHYT tại cơ quan BHXH TP. Hồ Chí

57

Minh 2011-2015
Bảng 2.2 Tình hình quỹ CSSKBĐ trên địa bàn thành phố 2011-2015

62

Bảng 2.3 Số lượt KCB nội trú và ngoại trú của HSSV TPHCM 2011-2015

68


Bảng 2.4 Chi phí KCB BHYT HSSV và chi CSSK ban đầu 2011-2015

69


1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ra đời từ cuối thế kỷ XIX, Bảo hiểm y tế (BHYT) là một trong những biện
pháp hiệu quả nhất nhằm giúp đỡ mọi người khi gặp rủi ro về sức khoẻ để trang
trải phần nào chi phí khám chữa bệnh giúp ổn định đời sống góp phần bảo đảm
an tồn xã hội.
Ngày nay, BHYT có ý nghĩa quan trọng hơn khi chi phí y tế và nhu cầu
khám chữa bệnh ngày càng tăng. khơng ai có thể phủ nhận những thành tựu của
ngành y học mở ra cho con người những hy vọng mới , nhiều bệnh hiểm nghèo
đã tìm được thuốc phòng và chữa bệnh. Nhiều trang thiết bị y tế hiện đại, cơng
trình nghiên cứu về các loại thuốc đặc trị được đưa vào để chuẩn đoán và điều
trị. Tuy nhiên khơng phải ai cũng có thể tiếp cận với những thành tựu đó đặc
biệt là những người nghèo. Đại đa số người dân bình thường khơng có đủ khả
năng tài chính để khám chữa bệnh, cịn những người khá giả hơn cũng có thể
gặp “ bẫy ” đói nghèo bất cứ khi nào.
BHYT là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong hệ
thống an sinh xã hội, khơng vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực
hiện. BHYT học sinh, sinh viên (HSSV) là sự kết hợp tồn diện các u cầu của
cơng tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho học sinh, sinh viên, từ chăm lo sức khỏe
ban đầu tại trường học, tới khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế. Thông qua việc
tham gia BHYT, học sinh, sinh viên được giáo dục nhân cách và lối sống nhân
ái, chia sẻ khó khăn, đồng cảm với người khơng may gặp rủi ro.
Quốc hội đã thông qua Luật số 46/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật BHYT và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày
15/11/2014 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật BHYT. Theo
quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT có hiệu lực từ
ngày 1/1/2015, BHYT là hình thức bảo hiểm bắt buộc đối với toàn dân, bao gồm
học sinh, sinh viên.


2

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngành Giáo dục đã và đang
tích cực triển khai thực hiện công tác BHYT học sinh, sinh viên. Theo thống kê
của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, đến nay có khoảng 85% học sinh, sinh viên
tham gia BHYT. Trong đó, có khoảng 94% học sinh tham gia và tỷ lệ tham gia
của sinh viên là 76%. Tỷ lệ học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế chưa cao
do một số nguyên nhân, chủ yếu như một số cơ sở giáo dục chưa thực sự quan
tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác bảo hiểm y tế, chủ yếu chỉ các sinh viên
năm thứ nhất tham gia bảo hiểm y tế. (Công văn số 4296/BGDĐT – CTHSSV ngày
24/ 8/2015 về tăng cường triển khai thực hiện bảo hiểm y tế cho HSSV)
Những năm qua, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, được sự quan tâm
chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự hỗ trợ của Sở - ngành, Mặt trận
tổ quốc và các đoàn thể, Bảo hiểm xã hội thành phố, Sở Giáo dục và Đào tạo
cùng các Trường Tiểu học,Trung học, Phổ thông trung học, Đại học, Cao đẳng,
Trung cấp chuyên nghiệp, Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề đã phối hợp triển
khai thực hiện và đã đạt được những kết quả quan trong trong thực hiện chính
sách Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên.
Tuy nhiên việc thực hiện chính sách BHYT HSSV trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh hiện vẫn tồn tại nhiều hạn chế: trên địa bàn thành phố vẫn còn 13,96%
HSSV chưa tham gia BHYT (Tỷ lệ HS, SV các Trường thuộc quản lý của Bộ GD &
ĐT là 2,15%, của Sở GD & ĐT là 1,61%, của Phòng GD & ĐT là 9,33% và Trường
do các Bộ, ngành quản lý là 0,87%); nhiều trường số HSSV tham gia BHYT đạt tỷ

lệ thấp, tập trung ở khối Trường Trung cấp, Cao đẳng, Đại học ngồi cơng lập...
Ngun nhân của tình hình trên là do thiếu sự phối hợp chỉ đạo, triển khai thực
hiện giữa các cấp, các ngành đối với cơng tác BHYT HSSV; việc tun truyền
chính sách, pháp luật BHYT hiệu quả chưa cao; Ban Giám hiệu một số trường
chưa thực sự quan tâm đến công tác BHYT HSSV; nhiều giáo viên chưa tích
cực gải thích, thuyết phục, vận động phụ huynh và HSSV tham gia.(Công văn số


3

5060/UBND – VX ngày 27/8/2015 về triển khai thực hiện công tác thu BHYT HSSV
năm học 2015 – 2016 của Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh)
Để việc triển khai BHYT học sinh, sinh viên theo quy định của Luật BHYT
ngày càng tốt hơn, góp phần đảm bảo thực hiện mục tiêu của Nghị quyết số 21NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
BHXH, BHYT giai đoạn 2012 – 2020 và Quyết định số 538/QĐ-TTg ngày
29/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến
tới BHYT tồn dân giai đoạn 2012- 2015 và 2020, việc nghiên cứu việc thực
hiện chính sách Bảo hiểm y tế HSSV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh –
trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học của cả nước - nhằm làm rõ những
mặt hạn chế, chỉ ra nguyên nhân, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
việc thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế HSSV có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
cấp bách. Đây cũng chính là lý do tác giả lựa chọn vấn đề: “Nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ khoa học chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước đã từng bước cụ thể hố chính
sách an sinh xã hội, xác định nhiều chủ trương, chính sách cụ thể nhằm thúc
đẩy, tạo bước chuyển biến căn bản trong việc thực hiện. Tuy nhiên trong q
trình đó đã làm nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc. Trong những năm qua, vấn đề
này đã được Đảng, Nhà nước ban hành các văn bản hướng dẫn tổ chức thực

hiện, một số nhà khoa học, cũng như nhiều nhà lãnh đạo thực tiễn quan tâm
nghiên cứu. Đã có một số cơng trình tiêu biểu ở nước ta bàn về vấn đề này:
Nhóm các văn bản pháp quy:
- Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), NQ 21NQ/TW tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai
đoạn 2012 – 2020;


4

- Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Bảo
hiểm y tế, Hà Nội;
- Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật số
46/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT;
- Thủ tướng Chính phủ (2014), Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày
15/11/2014 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật BHYT
- Thủ tướng Chính phủ (2015), Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 02/4/2015 về
tăng cường thực hiện chính sách BHXH và BHYT;
- Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 1584/QĐ-TTg ngày
14/9/2015 về việc giao chỉ tiêu thực hiện BHYT giai đoạn 2015-2020;
- Bộ GD & ĐT (2015), công văn số 4296/BGDĐT – CTHSSV ngày 24 tháng 8
năm 2015 về tăng cường triển khai thực hiện bảo hiểm y tế cho HSSV;
- Bộ GD & ĐT (2015), công văn số 4660/BGDĐT-CTHSSV ngày 10 tháng 9
năm 2015 về thực hiện bảo hiểm y tế cho học sinh sinh viên.
- Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2015), công văn 5060/UBND – VX
ngày 27/8/2015 về triển khai thực hiện công tác thu BHYT HSSV năm học 2015 –
2016.
Những văn bản trên là cơ sở pháp lý cho việc triển khai chính sách BHYT,
góp phần tích cực tạo nguồn tài chính cho việc bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khoẻ nhân dân cả nước nói chung, HSSV nói riêng.
Nhóm các cơng trình nghiên cứu:

- Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (2013), Báo cáo đánh giá 3 năm
thực hiện Luật BHYT và đề xuất sửa đổi bổ sung một số điều Luật BHYT. Những
mục tiêu của nghiên cứu đánh giá này là phân tích, đánh giá kết quả thực hiện
chính sách BHYT, những khó khăn, vướng mắc trong q trình thực hiện chính
sách BHYT; phân tích khả năng đáp ứng của chính sách BHYT đối với định
hướng phát triển một nền y tế công bằng, hiệu quả và phát triển; phân tích, dự


5

báo khả năng phát triển BHYT ở các khía cạnh kinh tế, xã hội và luật pháp;
khuyến nghị một số nội dung cần nêu rõ trong dự thảo Luật BHYT.
- Đặng Thị Lệ Xuân (2011), Xã hội hóa y tế ở Việt Nam: Lý luận - thực
tiễn và giải pháp”, luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Luận án
chỉ ra rằng thị trường dịch vụ chăm sóc sức khỏe Việt Nam hiện nay khơng thỏa
mãn những tiêu chí của thị trường cạnh tranh hồn hảo. Xuất phát từ đặc thù sức
khỏe, dịch vụ chăm sóc sức khỏe và dựa trên phân tích các thất bại của thị
trường y tế, luận án xây dựng hệ thống 17 nguyên tắc mà cơ chế y tế cần đảm
bảo để đạt mục tiêu chăm sóc sức khỏe cơng bằng và hiệu quả. Hệ thống các
nguyên tắc này được luận án sử dụng để phân tích, đánh giá bốn phương thức xã
hội hóa y tế cơ bản hiện nay. Về khía cạnh lý thuyết, luận án chỉ ra rằng khơng
có một phương thức xã hội hóa y tế nào có thể thỏa mãn đồng thời cả 17 ngun
tắc đó tức khơng thể có một phương thức xã hội hóa y tế nào thực sự hồn hảo.
- Trương Bảo Thanh (2014), Chính sách cạnh tranh trong cung ứng dịch
vụ y tế ở Việt Nam, ĐHQG Hà Nội. Luận án đã xây dựng khung lý thuyết về
chính sách cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y tế; dựa trên khung lý thuyết này
sẽ phân tích đánh giá thực trạng chính sách cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y
tế ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất hệ thống các quan điểm và các giải pháp
hồn thiện chính sách cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y tế ở Việt Nam.
- Nguyễn Thị Tứ (2007), Phát triển và hoàn thiện hệ thống bảo hiểm y tế

tại Việt Nam, Luận văn khạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh. Luận văn khẳng định: Bảo hiểm y tế (BHYT) là một chính sách xã
hội do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của cộng đồng,
chia sẻ nguy cơ bệnh tật và giảm bớt gánh nặng tài chính của mỗi người khi ốm
đau, bệnh tật, tạo nguồn tài chính hỗ trợ cho hoạt động y tế, thực hiện công bằng
và nhân đạo trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Phát triển và
hoàn thiện hệ thống bảo hiểm y tế tại Việt Nam với bản chất nhân đạo của
BHYT là sự khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành


6

tích cực của Chính phủ, sự vào cuộc của tồn xã hội để thực hiện thắng lợi mục
tiêu thực hiện BHYT toàn dân.
- Chu Thị Kim Loan - Nguyễn Hồng Ban (2013), “Thực trạng tham gia
Bảo hiểm y tế tự nguyện ở thành phố Hà Tĩnh”, Tạp chí Khoa học và Phát triển,
tập 11, số 1: 115 -124. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu thực trạng tham gia bảo
hiểm y tế (BHYT) tự nguyện của người dân trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh, từ
đó đề xuất một số giải pháp thúc đẩy sự tham gia của họ. Nghiên cứu tiến hành
điều tra thành phố Hà Tĩnh. Kết quả điều tra cho thấy: Số lượng người tham gia
BHYT tự nguyện có xu hướng tăng lên nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ khiêm tốn
trong tổng số người tham giabảo hiểm y tế; Tỷ lệ người dân sử dụng thẻ BHYT
tự nguyện khi khám chữa bệnh là khá cao; Người dân vẫn gặp những phiền hà
khi KCB bằng thẻ BHYT tự nguyện, đặc biệt là hiện tượng phải chờ đợi lâu,
nhân viên y tế chưa nhiệt tình. Kết hợp với ý kiến của người được phỏng vấn,
nghiên cứu đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy người dân tham gia BHYT tự
nguyện tại thành phố Hà Tĩnh.
Mặc dù có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả, đề cập về
vấn đề BHYT và BHYT HS, SV dưới nhiều góc độ khác nhau, đồng thời chỉ ra
những thách thức, khó khăn, những vấn đề nảy sinh trong q trình thực hiện

chính sách BHYT và nêu ra những giải pháp, những kiến nghị nhằm giải quyết
những vấn đề trên. Tuy vậy, các cơng trình trên mới chỉ đề cập đến những vấn
đề kinh tế - xã hội trên phạm vi rộng cả nước hoặc vùng. Cho đến nay, chưa có
một cơng trình nào nghiên cứu một cách cụ thể nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh, đặc biệt là các vấn đề nảy sinh khi thực hiện chính sách ở thành phố Hồ
Chí Minh dưới góc độ Chính sách cơng và khoa học chính trị. Vì vậy, việc
nghiên cứu vấn đề này là nhiệm vụ cần thiết. Đề tài khơng trùng lắp với các
cơng trình đã được cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ


7

3.1. Mục đích: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải
pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHYT HSSV trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về BHYT và thực hiện chính sách BHYT
HSSV.
- Khảo sát, phân tích tình hình thực hiện chính sách BHYT HSSV trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHYT
HSSV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Chính sách BHYT HSSV và việc thực hiện chính
sách BHYT HSSV.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn khảo sát quá trình thực hiện chính sách
BHYT HSSV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam trong các văn
kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương các khóa; các văn
bản pháp quy của Nhà nước, các Bộ, ngành về tổ chức thực thi chính sách cơng
nói chung, tổ chức thực hiện chính sách BHYT HSSV nói riêng. Ngồi ra, luận
văn có kế thừa và sử dụng có chọn lọc và số liệu thống kê của một số cơng trình
có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử trong quá trình nghiên cứu, đồng thời luận văn còn sử


8

dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích và tổng hợp; thống kê và
so sánh; hệ thống hóa, khái quát hóa; điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về BHYT và thực hiện BHYT HSSV
- Góp phần làm rõ những vấn đề nảy sinh trong q trình thực hiện chính
sách BHYT HSSV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Góp phần đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách BHYT HSSV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là luận cứ giúp các cấp lãnh đạo
thành phố, cơ quan Bảo hiểm xã hội. các TrườngTiểu học, Trung học,
PTTH ĐH, CĐ, THCN tham khảo và vận dụng trong việc nghiên cứu và
xây dựng những giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHYT
HSSV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; là tài liệu cho những ai quan tâm
tới vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn được
kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.


9

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO HIỂM Y TẾ HỌC SINH, SINH VIÊN
1.1. Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên
1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm y tế
BHYT xã hội là chương trình BHYT do nhà nước tổ chức thực hiện, trong
đó mức phí bảo hiểm thường được tính theo tỷ lệ thu nhập của người lao động,
trong khi quyền lợi KCB được hưởng khơng theo mức đóng góp mà theo nhu
cầu KCB. Quỹ BHYT xã hội được hình thành từ nguồn đóng góp của người lao
động, chủ sử dụng lao động và Chính phủ. Chương trình BHYT xã hội được
thực hiện bắt buộc theo luật định, nên còn gọi là BHYT bắt buộc. Nguồn tài
chính từ quỹ BHYT xã hội được coi là nguồn tài chính cơng, có vai trị đặc biệt
quan trọng để bảo đảm cơng bằng trong đóng góp tài chính y tế thông qua cơ
chế chia sẻ rủi ro. Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT,
BHYT là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với các đối tượng theo
quy định của Luật BHYT để chăm sóc sức khỏe, khơng vì mục đích lợi nhuận
do Nhà nước tổ chức thực hiện [40]. Khái niệm BHYT ở đây được hiểu là
BHYT xã hội. BHYT tồn dân là chương trình BHYT xã hội bao phủ được tồn
bộ dân số. Trong một số trường hợp, có thể cơng bố đạt được mục tiêu bao phủ
tồn dân khi tỷ lệ bao phủ dưới 100%, nhưng với điều kiện những người chưa có
BHYT phải được bảo vệ trước rủi ro bệnh tật bằng những cơ chế tài chính y tế
an toàn khác. BHYT thương mại, BHYT tư nhân là hoạt động kinh doanh
BHYT vì lợi nhuận; mức phí BHYT được xác định theo xác suất rủi ro mắc

bệnh của người hoặc nhóm người tham gia BHYT. Khác với BHYT xã hội,
quyền lợi của người tham gia BHYT thương mại tùy thuộc vào mức phí BHYT
đã đóng. Nhà nước thường khơng tổ chức kinh doanh loại hình BHYT thương


10

mại mà để cho tư nhân kinh doanh, nên còn gọi là BHYT tư nhân. BHYT
thương mại là hình thức BHYT tự nguyện, nên ở một số nước, BHYT thương
mại còn được gọi là BHYT tự nguyện.
Ở Việt Nam, BHYT tự nguyện là chương trình BHYT được thực hiện đến
khi Luật BHYT có hiệu lực năm 2009, phi lợi nhuận với phí bảo hiểm đồng mức
cho từng nhóm đối tượng ở từng khu vực, do BHXH Việt Nam thực hiện.
Chương trình BHYT này thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện và hoàn toàn khác
với khái niệm BHYT tự nguyện - thương mại ở nước ngồi. Hiện nay, BHYT tự
nguyện chính là BHYT thương mại và được thực hiện theo Luật Kinh doanh bảo
hiểm.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của Bảo hiểm y tế xã hội
Việc chi trả cho DVYT nói chung có thể chia làm hai loại: Chi trả trước và
chi trả trực tiếp từ tiền túi khi sử dụng DVYT. Trong đó, hình thức chi trả trước
có thể thực hiện qua việc đóng thuế hoặc đóng phí tham gia BHYT xã hội. Ngân
sách nhà nước thu từ thuế hoặc nguồn thu BHYT xã hội sẽ được dùng để chi trả
cho các DVYT cung cấp cho người tham gia đóng góp khi có nhu cầu sử dụng.
Theo phương thức này, nguồn lực và rủi ro của các thành viên tham gia được
gom lại, do đó giảm rủi ro và tăng sự bảo vệ về tài chính đối với mỗi cá nhân
trước nguy cơ tổn thất tài chính do ốm đau, bệnh tật. Nguyên tắc của phương
thức tài chính này là đóng góp theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu. WHO
đã tỏ rõ quan điểm ủng hộ các hệ thống tài chính y tế dựa trên cơ chế chi trả
trước, coi đây là lựa chọn hàng đầu nhằm thực hiện mục tiêu CSSK toàn dân. Hệ
thống y tế dựa trên thuế hoặc BHYT xã hội giúp giảm thiểu việc chi trả trực tiếp

của hộ gia đình khi phải sử dụng DVYT, bảo vệ người dân trước rủi ro rơi vào
bẫy đói nghèo do phải chi trả quá lớn khi đau ốm, đồng thời loại bỏ rào cản về
tài chính giúp tăng khả năng tiếp cận sử dụng DVYT khi cần cho người dân.
Một số chuyên gia cho rằng so với phương thức huy động nguồn tài chính từ
thuế, BHYT xã hội minh bạch, rõ ràng hơn khi người tham gia biết rõ mình


11

đang góp tiền cho CSSK cũng như gói quyền lợi mình được hưởng. Ngồi ra,
thơng qua BHYT xã hội, gánh nặng chi phí y tế khơng chỉ tập trung vào nhà
nước mà chia sẻ cho các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Đây chính là lý do
khiến lãnh đạo chính phủ các nước ngày nay ngày càng quan tâm hơn đến việc
phát triển hệ thống BHYT xã hội. Khoảng một phần hai các nước công nghiệp
đã chọn BHYT xã hội làm phương thức cung cấp tài chính y tế. Mặc dù vậy, vẫn
có nhiều ý kiến cho rằng BHYT xã hội hay tài chính dựa vào thuế đều có hạn
chế nhất định, do đó nên theo hướng kết hợp cả hai phương thức tài chính này
nhằm đạt CSSK toàn dân. Tuy nhiên, thực tế tại các nước đang phát triển cho
thấy việc thiết lập một hệ thống y tế dựa trên thuế không hề đơn giản do tỷ lệ
người lao động khu vực phi chính thức (khơng có lương) khá cao, tính tuân thủ
đối với quy định nộp thuế hạn chế trong khi năng lực của hệ thống quản lý và
thu thuế còn yếu. Mặt khác, BHYT xã hội là phương thức trong đó áp dụng chế
độ BHYT bắt buộc đối với mọi người dân, thông thường trước tiên là trong khu
vực lao động chính thức hưởng lương. Như vậy, việc mở rộng BHYT xã hội ra
khu vực lao động phi chính thức là một vấn đề bức thiết để thực hiện BHYT
tồn dân nhưng cũng đầy khó khăn, thách thức khi một tỷ lệ lớn người lao động
thuộc khu vực phi chính thức tại các nước có thu nhập thấp và trung bình. Trong
bối cảnh đó, một lựa chọn khác được đưa ra là BHYT cộng đồng, tức là hình
thức BHYT tự nguyện tổ chức tại cộng đồng dân cư.
1.1.3. Những nguyên tắc cơ bản của Bảo hiểm y tế xã hội

Cũng như các loại hình bảo hiểm khác, BHYT xã hội cũng phải tuân thủ
nguyên lý số đơng hay ngun tắc về tính cộng đồng trong tổ chức thực hiện
nhằm chia sẻ rủi ro khi không may bị ốm đau, bệnh tật. Ngoài ra, BHYT xã hội
còn được thực hiện theo những nguyên tắc cơ bản sau nhằm bảo đảm sự công
bằng và hiệu quả, giúp phân biệt BHYT xã hội với các loại hình BHYT kinh
doanh (hay BHYT thương mại).
Nguyên tắc về tính phi lợi nhuận


12

BHYT xã hội được tổ chức thực hiện khơng vì mục tiêu lợi nhuận là một
trong những nguyên tắc cơ bản để phân biệt với các loại hình BHYT thương mại
khác. Theo đó, mọi nguồn thu của quỹ BHYT xã hội, kể cả số tiền lãi thu được
từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ (nếu có) cũng được dùng để chi trả chi phí
KCB cho cộng đồng tham gia BHYT.
Đảm bảo sự hỗ trợ chéo giữa những nhóm người tham gia Bảo hiểm y tế
- Nhóm người khỏe, có nguy cơ bệnh tật thấp hỗ trợ nhóm người yếu, có
nguy cơ mắc bệnh cao.
- Nhóm có thu nhập cao hỗ trợ nhóm người có thu nhập thấp và nhóm
người còn đang ở độ tuổi lao động hỗ trợ cho nhóm người chưa hoặc khơng cịn
ở độ tuổi lao động, v.v…
Đóng góp theo thu nhập, sử dụng dịch vụ y tế theo nhu cầu
Theo đó, mức đóng BHYT xã hội của mỗi cá nhân được xác định theo tỷ lệ
phần trăm của tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương
cơ sở của khu vực hành chính theo quy định của Chính phủ. Mức hưởng BHYT
xã hội theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi của người
tham gia BHYT xã hội.
Chi trả trước
Theo đó, người tham gia BHYT xã hội có trách nhiệm đóng góp trước vào

quỹ BHYT khi chưa ốm đau để được hưởng quyền lợi khi bị đau ốm.
1.1.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả chính sách Bảo hiểm y tế
BHYT là một phương thức tài chính y tế, vì vậy BHYT vẫn có ba chức
năng cơ bản của tài chính y tế, đó là: Huy động nguồn thu, quản lý quỹ chia sẻ
rủi ro và chi trả DVYT. Việc đánh giá mỗi chức năng được dựa trên các chỉ số
cụ thể.
1.1.4.1. Huy động nguồn thu
Mức độ tham gia:


13

Là tỷ lệ người dân tham gia BHYT trên tổng số đối tượng đích. Đối với
BHYT tự nguyện, một vấn đề thường gặp phải là lựa chọn bất lợi hay lựa chọn
ngược xảy ra khi toàn người ốm tham gia BHYT. Điều này sẽ đẩy chi phí KCB
BHYT và mức phí tham gia BHYT tăng cao dẫn đến sự đổ vỡ của BHYT. Do
đó, tỷ lệ tham gia cao là một yếu tố quyết định tính bền vững của BHYT.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia BHYT bao gồm:
- Khả năng chi trả mức phí đóng góp của người dân: Đây được xem là yếu
tố quyết định sự tham gia BHYT. Đối với cùng một mức đóng góp nhưng khả
năng tham gia của các hộ nghèo sẽ hạn chế hơn nhiều so với hộ khá giả.
- Đơn vị tham gia BHYT: Có thể là hộ gia đình, làng hay hợp tác xã. Việc
lựa chọn đơn vị tham gia BHYT là một biện pháp hạn chế tình trạng lựa chọn
ngược. Có thể áp dụng việc đăng ký tham gia BHYT theo hộ gia đình hoặc thậm
chí quy định một tỷ lệ tối thiểu các hộ gia đình trong một đơn vị hành chính
tham gia BHYT.
- Khoảng cách từ hộ gia đình đến cơ sở y tế gần nhất cung cấp DVYT cũng
là một yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia BHYT.
- Thời gian thu phí BHYT phù hợp: Các nghiên cứu của WHO cho thấy đối
với các quỹ BHYT tại khu vực thành thị, thời điểm thu phí phù hợp là hàng

tháng hoặc hàng quý vì như vậy phù hợp với thời điểm trả lương, trong khi đối
với các quỹ BHYT tại vùng nơng thơn, việc thu phí theo năm tỏ ra phù hợp hơn
[60]. Tuy nhiên, nhiều quỹ BHYT áp dụng thời gian thu phí linh hoạt, hàng
tháng, hàng quý hoặc nửa năm.
- Chất lượng DVYT: Là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định
tham gia BHYT của các thành viên. Chất lượng DVYT được nhìn nhận theo các
khía cạnh bao gồm: Hồi phục nhanh, nhân viên y tế (NVYT) bảo đảm chất
lượng, thuốc tốt và thái độ tiếp đón niềm nở.
- Sự tin tưởng vào cách thức quản lý quỹ. Tỷ lệ mức đóng góp so với chi
phí DVYT: Trong hoạt động BHYT, việc thu đủ nguồn quỹ để chi trả cho chi


14

phí DVYT là yếu tố quan trọng khơng kém gì so với mức độ tham gia. Mức
đóng góp càng cao càng bảo đảm người tham gia tránh được các chi phí DVYT
từ tiền túi của mình. Khi mức đóng góp thấp so với chi phí DVYT, người tham
gia BHYT sẽ phải chi trả tiền túi khi đi KCB cho các khoản khấu trừ
(deductives), cùng chi trả (copayment) và các khoản chi phí ngồi phạm vi thanh
tốn của BHYT [60]. Tuy nhiên, ngồi hộ gia đình, nhà nước và các nguồn viện
trợ cũng có thể tham gia đóng góp quỹ BHYT.
1.1.4.2. Mức độ góp quỹ, chia sẻ rủi ro (pooling)
Đây là một tiêu chí quan trọng bởi nó cho phép nguồn tài chính được chia
sẻ giữa người khỏe và người ốm, điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bảo vệ hộ
gia đình trước các chi phí y tế thảm họa (catastrophic expenditures). Mặc dù ý
nghĩa và vai trò của việc gom quỹ chia sẻ rủi ro là rõ ràng như vậy nhưng trên
thực tế khơng phải lúc nào tiêu chí này cũng được bảo đảm thực hiện. Trên thực
tế, trong một quốc gia, một vùng hoặc một huyện có thể tồn tại nhiều quỹ BHYT
khác nhau cho các đối tượng khác nhau, có mức đóng góp và quyền lợi được
hưởng điều chỉnh theo nguy cơ đau ốm. Việc gom quỹ chia sẻ rủi ro không nhất

thiết bắt buộc phải thực hiện duy nhất một quỹ BHYT. Mặc dù có nhiều quỹ
BHYT nhưng nếu có cơ chế kết nối các quỹ này với nhau thì nguyên tắc chia sẻ
rủi ro vẫn có thể được bảo đảm. Việc thành lập một quỹ cân đối chính là một cơ
chế như vậy. Quỹ này được đóng góp từ các quỹ có kết dư và được chuyển đến
cho các quỹ bị bội chi. Một cơ chế khác có thể áp dụng là các quỹ tham gia bảo
hiểm đối với các chi phí y tế thảm họa đối với một tổ chức tái bảo hiểm. Việc
xác định phạm vi của quỹ BHYT cũng là một cách để thực hiện chia sẻ rủi ro, ví
dụ thiết lập quỹ BHYT trong phạm vi một huyện thay vì một làng sẽ tạo ra một
quỹ lớn hơn để chia sẻ rủi ro.
1.1.4.3. Chi trả dịch vụ y tế một cách chiến lược, bài bản từ việc lựa chọn
dịch vụ tốt nhất, lựa chọn đơn vị cung ứng dịch vụ tốt nhất đến sử dụng phương
thức thanh toán tốt nhất.


15

Việc thực hiện chi trả dịch vụ y tế một cách chiến lược, bài bản là cách bảo
đảm tiếp cận dịch vụ y tế phù hợp và có tính chi phí hiệu quả cao. Phương thức
thanh tốn phù hợp là yếu tố then chốt trong chi trả dịch vụ y tế. Có các phương
thức thanh tốn khác nhau bao gồm: Theo mục lục ngân sách, theo dịch vụ, theo
định suất, theo ngày điều trị, theo tổng ngân sách, theo nhóm chẩn đốn... Bên
cạnh đó, việc phân tuyến cung ứng dịch vụ y tế cũng là một yếu tố quan trọng
trong xem xét chi trả dịch vụ y tế. Để khống chế tình trạng lựa chọn ngược, một
số quỹ BHYT áp dụng quy định người tham gia BHYT phải chờ một thời gian
nhất định kể từ khi tham gia BHYT mới được hưởng quyền lợi từ BHYT khi sử
dụng một số dịch vụ nhất định. Trước đây, khi nói về một hệ thống BHYT, ta
thường hay quan tâm đến độ bao phủ mà ít đề cập đến chiều sâu của độ bao phủ,
tức là mức độ bảo vệ về tài chính trước các nguy cơ chi phí lớn do CSSK của
chương trình BHYT. Tuy nhiên, gần đây vấn đề này ngày càng được quan tâm
hơn. Theo WHO, có ba vấn đề cần quan tâm đối với một hệ thống tài chính y tế

nhằm mục tiêu CSSK tồn dân, đó là:
- Tỷ lệ người dân được bao phủ (chiều rộng bao phủ);
- Phạm vi và chất lượng dịch vụ được cung cấp (chiều sâu của độ bao phủ);
- Tỷ lệ chi phí y tế được chi trả (chiều cao của độ bao phủ).
Khi thiết kế một chương trình tài chính cho CSSK toàn dân, ngoài các
chiến lược để mở rộng độ bao phủ đến các nhóm dân cư, việc xây dựng gói
quyền lợi đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Khơng một quốc gia nào đủ nguồn
lực tài chính chi trả cho tất cả DVYT. Tuy nhiên, có một số vấn đề thường gặp
phải khi xây dựng gói quyền lợi. Thứ nhất đó là khó khăn khi phải lựa chọn để
đưa vào gói dịch vụ giữa các dịch vụ chi phí - hiệu quả, ít tốn kém và các dịch
vụ ít chi phí - hiệu quả hơn nhưng là gánh nặng chi phí lớn cho những người có
nhu cầu sử dụng dịch vụ này đứng trước nguy cơ rơi vào chi phí y tế thảm hoạ,
dịch vụ chạy thận nhân tạo là một ví dụ. Một giải pháp cho vấn đề này là sự trợ
giúp của mạng an sinh xã hội đối với các hộ gia đình khi phải sử dụng các


16

DVYT chi phí lớn. Thứ hai, việc bảo đảm người cung ứng dịch vụ tuân thủ theo
nội dung gói quyền lợi không phải là dễ dàng. Người cung ứng dịch vụ luôn
muốn đáp ứng tốt nhất yêu cầu KCB của người bệnh trong điều kiện trình độ
chun mơn, cơ sở vật chất kỹ thuật cho phép. Một vấn đề khác của gói quyền
lợi đó là khơng đáp ứng nhu cầu của một số nhóm dân cư có khả năng tiếp cận
các dịch vụ đắt tiền, chất lượng cao hơn. Thực tế này có thể diễn ra theo hai
hướng, hoặc tồn tại các chế độ quyền lợi khác nhau theo các chương trình
BHYT khác nhau cho các nhóm đối tượng nhất định hoặc những người có điều
kiện kinh tế sẽ mua thêm các dịch vụ ngồi gói quyền lợi.
1.1.5 Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên
Sức khỏe là vốn liếng quý giá nhất của con người, là tài sản vô hình nhưng
có sức mạnh hữu hình, trong đời sống xã hội, sức khỏe ln giữ vai trị quan

trọng. Nó là cơ sở khơng thể thiếu để góp phần tạo nên nền tảng hạnh phúc cho
con người, sự phát triển của mỗi người, mỗi gia đình và tồn xã hội. Chính vì
vậy, Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định: sức khỏe là tài sản quý giá của mỗi
người và của xã hội. Mặt khác, sức khỏe chính là nền tảng quan trọng để tạo nên
sự phát triển của xã hội. Khi có sức khỏe, con người có thể thực hiện những hoạt
động cá nhân và hoạt động xã hội có hiệu quả. Đó chính là cơ sở hàng đầu giúp
cho sự mỗi người tự khẳng định mình trong xã hội. Vì vậy, họ có thể đóng góp
sức lực, trí tuệ của mình cho sự phát triển của đất nước. Hơn nữa, có sức khỏe
tốt là cơ sở để nâng cao chất lượng dân số. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu để
phát triển con người Việt Nam cả về thể chất, trí tuệ và sự hịa hợp xã hội - cơ sở
tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của cá nhân và xã hội.
Nghị quyết số 46-NQ/TW của Bộ Chính trị về Cơng tác bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới khẳng đinh: “Bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng
đồng, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các
đồn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng


17

cốt về chun mơn và kỹ thuật. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát
triển các dịch vụ chăm sóc và nâng cao sức khỏe.” Các chính sách của Nhà nước
cũng hướng tới hiện thực hóa quan điểm: Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khoẻ nhân dân là hoạt động nhân đạo, trực tiếp bảo đảm nguồn nhân lực cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những chính sách ưu tiên hàng
đầu của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho lĩnh vực này là đầu tư phát triển, thể
hiện bản chất tốt đẹp của chế độ.
Ngày 15/4/1992, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
được Quốc hội khóa VIII thông qua và đây là lần đầu tiên khái niệm BHYT
được đề cập tới tại Điểu 39, Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ “… thực hiện BHYT,

tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe.” và đến Hiến Pháp
2013 vẫn khẳng định tại Điều 38 “Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện
các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh” [38] Đây là cơ sở quan
trọng nhất cho việc hình thành hệ thống pháp luật BHYT ở nước ta.
Thực hiện chủ trương đó, ngày 15/8/1992, Hội đồng bộ trưởng đã ra Nghị
định 299-HĐBT ban hành Điều lệ BHYT, tạo hành lang pháp lý cho việc thực
hiện chính sách BHYT ở Việt Nam và từ năm 1994, sau khi chính sách BHYT
ra đời hai năm, BHYT HSSV đã được triển khai theo Thông tư 14/1994/TTLTBGDĐT-BYT ngày 19/09/1994 và được sửa đổi bổ sung bằng Thông tư
40/1998/TTLT-BGDĐT-BYT ngày 18/07/1998 trên phạm vi cả nước theo
hướng dẫn của Liên bộ Giáo dục, Đào tạo và Y tế, theo đó thì HSSV là đối
tượng tham gia BHYT tự nguyện. BHYT HSSV là sự kết hợp toàn diện các u
cầu của cơng tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho HSSV, từ việc chăm lo sức
khỏe ban đầu tại y tế học đường, đến khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế khi rủi
ro, ốm đau phải nằm viện. Do mục đích ưu việt, thiết thực, giàu tính nhân văn,
BHYT HSSV đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của tồn xã hội, vượt qua mọi
khó khăn, trở ngại và ngày càng phát triển mạnh mẽ.


18

Để thực hiện cơng bằng trong chăm sóc sức khỏe, tiến tới BHYT toàn dân,
tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII ngày 14 tháng 11 năm 2008 đã thơng qua
Luật BHYT số 25/2008/QH12 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2009 với một bước
phát triển đặc biệt về quy định BHYT tồn dân là quyền và nghĩa vụ cơng dân
với hình thức tham gia bắt buộc và đưa ra lộ trình thực hiện BHYT tồn dân cho
từng nhóm đối tượng được quy định trong Luật BHYT. Trong đó Điều 12 Luật
BHYT số 25/2008/QH12 quy định nhóm đối tượng HSSV trước đây tham gia
BHYT theo hình thức tự nguyện sẽ chuyển sang hình thức bắt buộc phải tham
gia BHYT kể từ ngày 01/01/2010.

Theo quy định của Luật BHYT, HSSV là những đối tượng đang theo học
thường xuyên tại các trường từ tiểu học đến đại học thuộc các loại hình công
lập, bán công, dân lập, HSSV tham gia BHYT bắt buộc theo lộ trình đã đề ra.
Khi tham gia BHYT, học sinh, sinh viên được hưởng những quyền lợi Luật
BHYT quy định, như khám, chữa bệnh ở các cơ sở y tế, đặc biệt học sinh, sinh
viên được chăm sóc sức khoẻ ban đầu ngay tại y tế trường học và được khám
thăm dò một số bệnh mà Bộ Y tế quy định. Khi không may bị tai nạn và bệnh
tật phải sử dụng điều trị kỹ thuật cao, sẽ được quỹ BHYT chi trả, đảm bảo phần
lớn 80% các chi phí dịch vụ khám và điều trị bệnh.
1.1.6 Chính sách xã hội và chính sách Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên
1.1.6.1 Bản chất của chính sách xã hội và chính sách Bảo hiểm y tế học
sinh, sinh viên
Chính sách xã hội là một hệ thống những quan điểm, chủ trương, phương
hướng, biện pháp của nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác được thể
chế hoá để giải quyết những vấn đề xã hội mà trước hết là những vấn đề xã hội
gay cấn nhằm bảo đảm sự an toàn và phát triển xã hội.
Chính sách xã hội là chính sách đối với con người, tìm cách tác động vào
các hệ thống quan hệ xã hội (quan hệ các giai cấp, các tầng lớp xã hội, quan hệ
các nhóm xã hội khác nhau) tác động vào hoàn cảnh sống của con người và của


19

các nhóm xã hội, (bao gồm điều kiện lao động và điều kiện sinh hoạt) nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo đảm và thiết lập được công bằng xã hội trong
điều kiện xã hội nhất định.
Chính sách BHYT học sinh, sinh viên là một trong những nội dung của
chính sách BHYT xã hội, là những nguyên tắc và biện pháp của nhà nước về
vấn đề BHYT cho đối tượng học sinh, sinh viên nhằm đảm bảo thực hiện quyền
tham gia và hưởng thụ BHXH cho mọi học sinh, sinh viên; góp phần ổn định,

cơng bằng và phát triển xã hội.
Chính sách BHYT xã hội nói chung và chính sách BHYT học sinh, sinh
viên nói riêng là một chính sách xã hội nên vừa mang bản chất xã hội, vừa mang
bản chất kinh tế.
Bản chất xã hội của chính sách BHYT học sinh, sinh viên được thể hiện
trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất là sự bảo trợ của Nhà nước về chăm sóc y tế dành cho đối tượng
HSSV tham gia BHYT, thể hiện BHYT HSSV là một bộ phận quan trọng trong
chính sách xã hội của mỗi quốc gia nhằm đảm bảo một trong những quyền cơ
bảncủa con người, đó là quyền được chăm sóc y tế. Bảo vệ và chăm sóc sức
khỏe khơng phải thuần túy chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân riêng lẻ, mà là
trách nhiệm chung của cả cộng đồng. Bởi lẽ, nguy cơ về bệnh tật có thể đến với
bất kể ai, không phân biệt quốc gia, dân tộc và hơn nữa khơng ai có thể một
mình đơn phương chống lại bệnh tật. Lẽ đương nhiên việc bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe trước tiên thuộc về mỗi cá nhân, nhưng vẫn cần sự trợ giúp mang tính Nhà
nước. Ở đó Nhà nước giữ vai trò quan trọng, là người tổ chức, quản lý và bảo
trợ.
Thứ hai là sự liên kết, chia sẻ rủi ro mang tính cộng đồng giữa các thành
viên trong xã hội. Bên cạnh sự trợ giúp mang tính Nhà nước, tính chất xã hội
của BHYT HSSV cịn thể hiện ở sự chia sẻ, liên kết của chính các thành viên
trong xã hội thơng qua đóng góp dựa trên thu nhập. Các thành viên trong xã hội


20

tham gia đóng góp một phần thu nhập vào một quỹ chung để chăm sóc y tế cho
chính mình và cho các thành viên khác. Bệnh tật và những rủi ro về sức khỏe
không phải khi nào cũng xuất hiện cùng một lúc với tất cả mọi người, chúng
cũng không xuất hiện giống nhau ở mỗi người. Thực tế cho thấy có người ốm
đau lúc này, người ốm đau lúc khác, có người bệnh nặng, có người bệnh nhẹ, có

người hay ốm, người ít ốm và bệnh tật thường đến bất ngờ khơng báo trước.Nếu
cứ để ai có bệnh người đó tự chống đỡ sẽ gây khó khăn cho chính họ vì khơng
đủ tiền trang trải. Thực tế này địi hỏi cần một sự liên kết mang tính cộng đồng
rộng rãi để chia sẻ rủi ro bệnh tật. Một quỹ chung cho chăm sóc sức khỏe sẽ điều
tiết để nhiều người chưa hoặc không ốm đau cho người ốm, người ốm nhẹ giúp
người ốm nặng. Tính xã hội tương trợ cộng đồng nhân văn của BHYT khơng
phân biệt mức đóng nhiều hay đóng ít khơng phân biệt thành phần xã hội, tôn
giáo, giai cấp mà phụ thuộc vào mức độ rủi ro về bệnh tật. Thực tế cho thấy
những người nghèo, người có thu nhập thấp thường là người hay ốm đau và cần
nhiều kinh phí chữa bệnh. Hơn nữa khi ốm đau lại làm giảm hoặc mất thu nhập
nên càng làm cho họ khó khăn hơn về tài chính để tiếp cận các dịch vụ y tế.
BHYT mang tính xã hội là một giải pháp thực tế đưa họ tiếp cận dịch vụ chăm
sóc sức khỏe. BHYT HSSV là chăm lo cho thế hệ trẻ một cách toàn diện, khơng
những chăm lo về mặt sức khoẻ mà cịn giáo dục nhân cách và lối sống nhân ái.
Tham gia BHYT các em sẽ thấy được tác dụng của BHYT đối với mọi người
xung quanh, với bạn bè mình và chính bản thân mình. Thơng qua BHYT các em
sẽ học được cách chia sẻ khó khăn, đồng cảm với người khơng may gặp rủi ro.
Nhân cách sống tốt đẹp ấy sẽ hình thành trong các em, theo các em đi hết cuộc
đời và truyền từ đời này sang đời khác.
Như vậy bản chất xã hội của BHYT HSSV thể hiện ở sự trợ giúp mang tính
Nhà nước và sự tương hỗ mang tính cộng đồng. BHYT nói chung và BHYT
HSSV nói riêng thể hiện bản chất nhân đạo và trình độ văn minh của xã hội phát


21

triển với mục đích đảm bảo khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cho đa số dân chúng,
thực hiện cơng bằng trong chăm sóc sức khỏe.
Bản chất kinh tế của chính sách BHYT HSSV là một chính sách xã hội,
hoạt động vì mục tiêu trợ giúp xã hội, khơng vì lợi nhuận nhưng nó lại mang yếu

tố kinh tế, thuộc phạm trù kinh tế - y tế. Thực hiện BHYT HSSV có hiệu quả là
giải một bài tốn về kinh tế y tế. BHYT có chức năng làm nhiệm vụ phân phối
lại thu nhập. Có thể thấy được điều này ngay chính trong bản chất xã hội ở sự
tương trợ mang tính cộng đồng của BHYT. Có hai góc độ thể hiện chính đó là
sự phân phối trực tiếp và sự phân phối gián tiếp. Phân phối trực tiếp thể hiện ở
sự chuyển phần thu nhập của người tạm thời khỏe mạnh sang người đang ốm,
của người bệnh nhẹ sang người bệnh nặng, của người trẻ khỏe sang người già
yếu, thơng qua sự điều hành ln chuyển của chính phần thu nhập đóng trực tiếp
cho quỹ BHYT. Phân phối gián tiếp thể hiện ở sự hỗ trợ giữa người giàu và
người nghèo, người thu nhập cao và người có thu nhập thấp.
Tóm lại, bản chất của chính sách BHYT học sinh, sinh viên là một trong
những chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, mang tính cộng đồng chia sẻ
sâu sắc được áp dụng trong lĩnh vực khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho
đối tượng học sinh, sinh viên, khơng vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ
chức thực hiện và đối tượng học sinh, sinh viên có trách nhiệm tham gia theo
quy định của Luật Bảo hiểm y tế được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông
qua ngày 14 tháng 11 năm 2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07
năm 2009. Đây là một đạo luật quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình tiến tới bảo
hiểm y tế tồn dân, đồng thời tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác bảo
hiểm y tế trong giai đoạn tới, góp phần tích cực vào việc thực hiện thành công
sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ tồn dân.
1.1.6.2 Chức năng của Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên


×