Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Nâng cao trình độ lí luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ XN HƯƠNG

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH
LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Long An, 2016


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ XN HƯƠNG

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH
LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
CHUYÊN NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số; 60.31.02.01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN LƯƠNG BẰNG

Long An, 2016




3

LỜI CẢM ƠN
Để đạt được kết quả như ngày hôm nay, em xin chân thành cảm ơn quý thầy,
cô Trường Đại học Vinh đã tận tình giảng dạy giúp em vững vàng về chuyên môn
và trưởng thành hơn trong cuộc sống. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Phó
Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Lương Bằng – người đã tận tâm, nhiệt tình hướng dẫn,
giúp đỡ em hồn thành luận văn tốt nghiệp này.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã cổ vũ, động viên tơi trong q trình học tập.
HỌC VIÊN

Trần Thị Xuân Hương


4

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1: NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ LÀ MỘT TẤT YẾU KHÁCH QUAN
1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài…………………….trang 12
1.2. Vai trị của lý luận chính trị đối với hoạt động của đội ngũ cán bộ cấp cơ
sở………………………………………………………………………….trang 22
Kết luận chương 1...........................................................................trang 40
Chương 2: THỰC TRẠNG NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH LONG AN
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến cơng tác nâng cao trình độ lý luận chính trị

cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Long An...........................................trang 42
2.2 Mặt tích cực và hạn chế của việc nâng cao trình độ lý luận chính trị của
đội ngũ cán bộ cấp đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Long An…………trang 74
Kết luận chương 2.........................................................................trang 81
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH LONG AN
HIỆN NAY
3.1. Nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp về vị trí, tầm quan trọng của
việc nâng cao trình độ lý luận chính trị đối với cán bộ cơ sở ở tỉnh Long An hiện
nay. ………………………………………………………………………..trang 83
3.2. Đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, tạo bước chuyển biến tích cực về
đời sống vật chất, đời sống văn hóa, trình độ dân trí cho cán bộ và nhân dân. Trang
87
3.3. Đổi mới công tác giáo dục đào tạo, phát huy ý chí tự học tự rèn nâng
cao trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở………….trang 89
3.4. Đổi mới và hoàn thiện chính sách khuyến khích cán bộ cấp cơ sở tự rèn
luyện để nâng cao trình độ lý luận chính trị……………………………trang 94
3.5. Rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở
tỉnh Long An……………………………………………………………..trang 97
C. KẾT LUẬN……………………………………………………….trang 100
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao
chất lượng của đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở nhằm xây dựng
nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện

đại là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, cấp cơ sở có vị trí hết sức quan trọng, Nghị quyết Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5, khóa IX nêu rõ: “Một trong những nguồn
gốc thắng lợi của công cuộc đổi mới là sức mạnh dấy lên từ cơ sở. Chăm lo xây
dựng cơ sở là bảo đảm thắng lợi vững chắc”. Cán bộ cơ sở là cầu nối giữa Đảng
với nhân dân, là nhân tố quyết định để đưa các Nghị quyết của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Vì
vậy, đội ngũ cán bộ này phải là những người thật sự tiêu biểu, có lập trường giai
cấp và bản lĩnh chính trị kiên định; có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ học vấn,
năng lực cơng tác đáp ứng u cầu nhiệm vụ chính trị được giao. Trình độ lý luận
chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở là một trong những tiêu chuẩn cơ
bản, có quan hệ mật thiết đến sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh chính trị và trật
tự an tồn xã hội ở địa phương, thúc đẩy sự phát triển chung cho cả tỉnh, vùng và
cả nước. Điều đó địi hỏi ở người cán bộ cấp cơ sở phải có một trình độ lý luận
chính trị nhất định. Cán bộ cấp cơ sở có nắm vững, hiểu biết lý luận chính trị thì
mới nắm chắc các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, từ đó mà vận dụng một cách sáng tạo vào tình cụ thể ở địa phương. Trình độ
lý luận chính trị cịn giúp cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có cơ sở tổng kết một cách
có hiệu quả tình hình thực tiễn ở địa phương, qua đó rút ra những bài học kinh
nghiệm, những kết luận, góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung và phát triển lý luận,
đường lối, chính sách... của Đảng và nhà nước. Do đó cán bộ nói chung và cán bộ


6

cấp cơ sở nói riêng để hồn thành tốt nhiệm vụ của mình thì cần phải có trình độ,
trong đó có trình độ lý luận chính trị. u cầu nhiệm vụ chính trị đặt ra cho đội
ngũ cán bộ cơ sở ngày càng nặng nề, trong khi đội ngũ này bên cạnh những ưu
điểm cịn có nhiều bất cập, yếu kém, chưa ngang tầm nhiệm vụ. Đứng trước yêu
cầu và nhiệm vụ mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đội ngũ

cán bộ cấp cơ sở ở nước ta nói chung và ở tỉnh Long An nói riêng cịn yếu và hạn
chế nhiều mặt như: Bản lĩnh chính trị, trình độ nhận thức chính trị, năng lực tổ
chức quản lý, năng lực chỉ đạo hoạt động thực tiễn, phẩm chất đạo đức cách
mạng… Nhiều cán bộ được đề bạt, bổ sung vào những cương vị chủ chốt, nhưng
chưa qua đào tạo cơ bản về chuyên môn cũng như lý luận chính trị. Do đó, khi xử
lý cơng việc cịn tuỳ tiện, kinh nghiệm, giáo điều, chưa vận dụng đúng với đường
lối, chủ trương, quan điểm của Đảng vào thực tiễn của địa phương, cơ sở. Một
trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
chưa được đào tạo, bồi dưỡng đầy đủ những kiến thức và kỹ năng cần thiết. Đặc
biệt, trình độ lý luận chính trị, việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ
cơ sở chưa được quan tâm đúng mức. Để khắc phục tình trạng trên cần phải giải
quyết nhiều vấn đề liên quan đến cán bộ cấp cơ sở, trong đó vấn đề có ý nghĩ cấp
bách là phải nâng cao trình độ lý luận chính trị nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức cách mạng…cho họ trong quá trình chỉ đạo hoạt động thực tiễn
ở địa phương.
Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn đã xác định: “xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị
trấn là một trong ba vấn đề cơ bản và bức xúc cần tập trung giải quyết, trong đó
yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức vận động nhân dân
thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận


7

tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, khơng ức hiếp dân, trẻ hóa
đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính
sách đối với cán bộ cơ sở”. Long An là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm của phía Nam, tiếp giáp với thành phố Hồ Chí Minh và là cửa ngõ của các
tỉnh miền Tây Nam bộ. Từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành

Trung ương Đảng khóa IX (tháng 03/2002) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn và thực hiện Đề án cơng tác cán bộ của
tỉnh thì trình độ chun mơn, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ của tỉnh
nói chung và cán bộ cấp cơ sở nói riêng ở tỉnh Long An ngày càng phát triển. Tuy
nhiên, đa số đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Long An trưởng thành từ thực tế, thiếu
vốn kiến thức chuyên môn, kiến thức lý luận chính trị nên trong nhận thức và chỉ
đạo cịn nặng về kinh nghiệm, ảnh hưởng khơng nhỏ đến hoạt động của địa
phương. Vì vậy, để xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn đang đặt ra cấp bách nhất là phải
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ này. Với ý nghĩa đó, chúng tơi chọn
vấn đề “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh
Long An trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị.
Trong những năm gần đây, vấn đề nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở được xác định là vấn đề trọng tâm trong công tác tư tưởng
của Đảng và là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Có thể chia thành ba
nhóm vấn đề sau:
Nhóm vấn đề về lý luận chung, bao gồm các bài viết trên các tạp chí lý luận,
chẳng hạn "Quan hệ giữa lý luận và chính trị" của Nguyễn Thế Phấn, Tạp chí
Cộng sản, số 8/1992; "Mấy vấn đề trong công tác lý luận" của Đỗ Nguyên Phương,
Tạp chí Tư tưởng văn hố, số 7/1992; Hồ Bá Thâm “Phát triển năng lực tư duy


8

của người lãnh đạo quản lý hiện nay”, Tạp chí Cộng sản số 23/ 2002; Nguyễn
Thái Sơn “Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt” Nhà
xuất bản Lý luận chính trị, 2001; Trần Thành “Tư duy lý luận đối với người cán bộ
lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn”, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2001; Ngô Ngọc
Thắng “Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong

thời kỳ đổi mới”, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2004; Vũ Vọng “Chú trọng xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở”, tạp chí xây dựng Đảng ngày 12/11/2015.
Nhóm các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, bao gồm: Luận văn thạc sĩ triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1995, "Nâng cao trình độ tư
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở miền núi hiện nay" của Đỗ Cao
Quang; Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm
1998; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
huyện ở nước ta hiện nay" của Vũ Đình Chuyên; Luận văn thạc sỹ triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2001, “Nâng cao trình độ lý luận chính
trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng trong giai
đoạn hiện nay” của Nông Văn Tiềm; Luận văn thạc sỹ triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006, “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở miền Tây Nam Bộ hiện nay” của
Tơ Hồng Hiệp. PGS, TS. Nguyễn Phú Trọng và PGS, TS. Trần Xuân Sầm: “Luận
cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
Viện Khoa học tổ chức Nhà nước Ban Tổ chức Cán bộ Chính quyền (nay là Bộ
Nội vụ) “Chính quyền cấp cơ sở và quản lý nhà nước ở cấp cơ sở, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000. Nguyễn Đức Mạnh: Vị trí, vai trị của cán bộ, cơng chức
nhà nước trong sự nghiệp đổi mới. Tạp chí cộng sản, số 29/10-2002, tr26-31. GS,
TS. Lê Hữu Nghĩa: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của


9

chính quyền ở cơ sở. Tạp chí Cộng sản, số 19/10 - 2001, tr18-22. TS. Lê Chi Mai:
“Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở - vấn đề và giải pháp. Tạp chí Cộng
sản, số 20/2002. Tạp chí Cộng sản (số 11/1999); Ngô Kim Ngân, “Xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ sở trong thời kỳ mới”, Tạp chí Giáo dục lý
luận, (số 7/2001), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; PGS. TS Nguyễn

Lương Bằng, Hồ Thị Hồng Cúc: “Triết lý giáo dục Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập quốc tế”, Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn Nghệ An, (2011).
Nhóm các cơng trình nghiên cứu khoa học, Đề án xoay quanh vấn đề này
như: Đề án Công tác cán bộ tỉnh Long An giai đoạn 2011 đến 2020 và những năm
tiếp theo; Đề án quy hoạch, đào tạo cán bộ nguồn của tỉnh Long An giai đoạn 2014
– 2020. Đây là nguồn tư liệu quý báu giúp tác giả tham khảo, kế thừa trong q
trình nghiên cứu, hồn thiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, đặt ra những vấn đề rất cơ bản cả
về lý luận lẫn thực tiễn, đề ra những phương hướng và giải pháp để nâng cao trình
độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở cấp này, cấp khác. Tuy nhiên, do giới hạn
về mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, nên cho tới nay chưa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ, có hệ thống và chuyên sâu về
thực trạng cũng như nêu ra những giải pháp để nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Long An. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần
tích cực vào việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở
Long An hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ vai trị của lý luận chính trị và thực trạng trình độ lý luận
chính trị đối với hoạt động của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở Long An; trên cơ sở đó
đề xuất một số giải pháp hồn chỉnh, góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở Long An hiện nay.


10

3 .Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận chính trị, trình độ lý luận chính trị và vai trị
của nó đối với hoạt động ở cấp cơ sở.
- Đánh giá thực trạng của việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Long An hiện nay, nêu ra được những mặt tích cực, hạn

chế và nguyên nhân của nó.
- Đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tương và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: đề tài chủ yếu đi sâu nghiên cứu việc nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở ở tỉnh Long An những năm qua.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu về việc nâng cao trình lý luận chính trị
đối với cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Long An trong bối cảnh hiện nay.
+ Về thời gian: Luận văn khảo sát, đánh giá thực trạng việc nâng cao trình độ
lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở ở Long An từ năm 2005 đến nay. Những
nhóm giải pháp áp dụng từ nay cho đến năm 2020.s
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước
nâng cao trình độ lý luận chính trị và vai trị của trình độ lý luận chính trị đối với
hoạt động của cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Long An hiện nay.
Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp các phương pháp: phương


11

pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, phương pháp khảo sát thực tế, so sánh, phương
pháp lịch sử và lô gíc.
6. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể tham khảo vận dụng trong việc nghiên
cứu để xây dựng tiêu chuẩn, kế hoạch, xác định mục tiêu, phương pháp nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở.
7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 3 chương, 9 tiết.


12

B. NỘI DUNG
Chương 1
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CẤP CƠ SỞ LÀ MỘT TẤT YẾU KHÁCH QUAN
1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm lý luận chính trị và trình độ lý luận chính trị
Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của thực tiễn cải tạo tự nhiên và
xã hội. Thực tiễn đã chứng minh rằng: khi xã hội phân chia thành giai cấp thì bất
kỳ một giai cấp, một chính đảng nào muốn giữ được địa vị thống trị xã hội thì
trước hết phải nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận cho giai cấp mình.
V.I.Lênin đã chỉ rõ: khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào cách
mạng, chỉ có chính đảng nào có được lý luận tiên phong dẫn đường thì đảng đó
mới hồn thành vai trị cách mạng tiền phong. Do đó, khi nói đến Đảng chính trị là
đồng thời nói đến hệ thống lý luận - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng ấy.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái quát
từ, những kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là những
kiến thức được khái quát và hệ thống hố trong một lĩnh vực nào đó” [53, tr.544545].
Từ điển Triết học đã định nghĩa: “Lý luận là hệ thống những tri thức đã được
khái quát, tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và mối liên hệ cơ bản
của hiện thực” [55, tr.341].
Đọc diễn văn khai mạc tại lớp học lý luận khoá I Trường Nguyễn ái Quốc,
ngày 7/9/1957, khi nói về lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lý luận



13

là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự
nhiên và xã hội tích trữ lại trong q trình lịch sử” [40, tr.497].
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau về lý luận nhưng tất cả các định
nghĩa trên đều có điểm thống nhất ở chỗ: lý luận là sự khái quát những kinh
nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội được tích luỹ
trong quá trình hoạt động lịch sử của con người; phản ánh mối liên hệ bản chất,
mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong một lĩnh vực nào đó của hiện thực
khách quan và có vai trị hướng dẫn hoạt động thực tiễn. Trong mối quan hệ giữa
lý luận và thực tiễn thì thực tiễn chính là yếu tố cơ sở, nền tảng, quyết định sự hình
thành lý luận. Mỗi bước phát triển của hoạt động thực tiễn lại làm nảy sinh yêu cầu
mới đòi hỏi phải được nghiên cứu, khái quát và do đó được bổ sung vào lý luận
những nhận thức mới. Nhờ đó mà lý luận hoàn thiện và phát triển hơn. Ngược lại,
trong mỗi hoạt động thực tiễn, lý luận hướng dẫn, mở đường cho thực tiễn phát
triển bằng những tổng thể tri thức nhất định. Khơng có hoạt động thực tiễn nào đơn
thuần là kinh nghiệm cụ thể, cũng như khơng có hệ thống tri thức lý luận nào
không xuất phát từ sự tổng kết thực tiễn.
Quá trình nhận thức của con người có thể khái quát lại dưới hai cấp độ: tri
thức kinh nghiệm và tri thức lý luận. Tri thức kinh nghiệm là những tri thức do con
người tiếp nhận trực tiếp từ việc quan sát sự vật, hiện tượng cụ thể, khách quan;
những tri thức này cịn mang tính rời rạc, bề ngồi, riêng lẻ, ngẫu nhiên chưa mang
tính chặt chẽ, sâu sắc, chưa đi sâu vào bản chất của sự vật hiện tượng. Do đó, phạm
vi áp dụng cũng như tính hướng dẫn, chỉ đạo của tri thức kinh nghiệm thường bị
hạn chế trong phạm vi hẹp. Khẳng định điều đó, Ph.Ăng ghen viết “Sự quan sát
dựa vào kinh nghiệm tự nó khơng bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất
yếu” [30, tr.718]; cho nên, biện chứng của quá trình nhận thức tất yếu vươn tới một
tri thức sâu sắc hơn, bản chất hơn, đó là tri thức lý luận.



14

Tri thức lý luận ở trình độ cao hơn so với tri thức kinh nghiệm. Bởi vì, tri thức
lý luận có được là dựa trên cơ sở khái quát từ những tri thức kinh nghiệm và được
nâng nên ở trình độ cao hơn, sâu sắc hơn về bản chất và quy luật của sự vật. Chính
vì vậy, phạm vi áp dụng cũng như tính hướng dẫn, cải tạo của tri thức lý luận rộng
hơn so với tri thức kinh nghiệm. Tri thức lý luận làm cho hoạt động của con người
trở lên chủ động, tự giác hơn, tránh được tình trạng mị mẫm, tự phát trong q
trình nhận thức, cũng như cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Mặc dù tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận có khác nhau về trình độ
nhưng giữa chúng lại có điểm chung là đều phản ánh hiện thực khách quan và có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Kinh nghiệm thực tiễn có vai trị quan trọng đối với lý
luận, là cơ sở để tổng kết khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm còn là căn cứ để
con người xem xét, bổ sung, sửa đổi và không ngừng phát triển lý luận; lý luận
càng chính xác, khoa học hơn nếu được xây dựng trên nhiều kinh nghiệm thực tiễn.
Tri thức lý luận được hình thành từ sự tổng kết, khái quát kinh nghiệm nhưng
lại phải thơng qua sự trừu tượng hố, khái qt hố của tư duy; cho nên bản thân
nó chứa đựng khả năng thiếu chính xác hoặc xa rời thực tế. Để tri thức ấy trở thành
khoa học thì nó luôn luôn phải được kiểm nghiệm qua thực tiễn nhằm bổ sung và
hoàn thiện phù hợp với thực tiễn. Mặc dù lý luận có nguồn gốc từ thực tiễn, nhưng
sau khi ra đời nó có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại thực tiễn; chỉ
đạo, dự báo tương lai phát triển của sự vật, định hướng hoạt động thực tiễn của con
người để đạt hiệu quả cao nhất.
Như vậy, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai cấp độ khác nhau
trong quá trình nhận thức của con người, trong đó tri thức kinh nghiệm là căn cứ,
là cơ sở để hình thành và phát triển của tri thức lý luận. Do đó, nếu tri thức kinh
nghiệm càng được tích luỹ nhiều thì càng có cơ sở vững chắc, độ tin cậy càng cao



15

cho sự khái quát về lý luận và lý luận chỉ thực sự là lý luận khoa học khi nó được
khái quát từ những kinh nghiệm của thực tiễn.
Vì vậy, lý luận được hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống những tri thức
được khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản
chất, tất nhiên, tính quy luật của sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực.
Trên thực tế, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực khoa học cụ thể, khác nhau đều có lý
luận riêng và mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể muốn phát triển được đều
phải bắt đầu bằng việc phát triển lý luận. Trong quá trình nghiên cứu của đề tài, tác
giả luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận chính trị. Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin: chính trị là một hiện tượng lịch sử xuất hiện và tồn tại khi xã
hội phân chia giai cấp và hình thành nhà nước.
Chính trị giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Chính trị là
lĩnh vực hoạt động phức tạp, ln thu hút các nhà tư tưởng đi vào sâu nghiên cứu,
khám phá, cố gắng làm sáng tỏ bản chất đầy bí ẩn của chính trị.
Chính trị, theo tiếng Hylạp là “politics” có nghĩa là những cơng việc liên quan
đến thành bang, những cơng việc quốc gia. Trong đó việc cốt lõi nhất, quan trọng
nhất, thực chất nhất là tổ chức ra cơ quan cai trị (chính phủ) và sau này, từ thế kỷ
XVI trở đi gọi là nhà nước [6, tr.7]. Trong sự phát triển của lịch sử xã hội loài
người từ thời kỳ cổ đại, trung đại và cận đại các nhà tư tưởng phương Tây cũng
như phương Đông đã cố gắng đi tìm một hình thức nhà nước phù hợp để cai trị đất
nước có hiệu quả nhất, hợp lý nhất. Do đó, “chính trị theo ngun nghĩa của nó là
những cơng việc của nhà nước là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai
cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ
và sử dụng quyền lực nhà nước” [1,tr.507]. Hơn nữa, chính trị là mối quan hệ giữa
các giai cấp là đấu tranh giai cấp trong giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước và
suy cho cùng là vấn đề lợi ích kinh tế. V.I.Lênin nêu ra một số nguyên tắc cơ bản



16

trong chính trị mà người cộng sản phải quán triệt, và đó cũng là bản chất của chính
trị: “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế” có nghĩa là: các tổ chức chính trị,
các hình thức nhà nước thay đổi và phát triển dựa trên cơ sở kinh tế của xã hội.
Nhưng điều đó khơng có nghĩa chính trị là biểu hiện thụ động của kinh tế. Những
quan hệ chính trị, những vấn đề chính trị có ảnh hưởng trở lại mạnh mẽ đối với
kinh tế hoặc là thúc đẩy hoặc là cản trở sự phát triển kinh tế. Chính trị biểu hiện
bởi các tri thức được tích luỹ trong quá trình lịch sử và những quan hệ kinh tế gắn
với con người, với giai cấp, với dân tộc và với thời đại.
Chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng, nó ln tồn tại và gắn liền với điều kiện
lịch sử cụ thể, khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của một cá nhân hay giai cấp,
chính đảng nào. Và với tư cách là một thiết chế xã hội, chính trị ln ln tìm cách
dẫn dắt xã hội theo tư tưởng của giai cấp nắm quyền thống trị xã hội.
Như vậy, tuỳ theo cách tiếp cận mà có những quan niệm khác nhau về chính
trị, song theo nghĩa chung nhất: Chính trị là những vấn đề về điều hành bộ máy nhà
nước hoặc những hoạt động của giai cấp, chính đảng nhằm duy trì quyền điều hành
nhà nước Chính trị thuộc kiến trức thượng tầng, nó ln tồn tại và gắn liền với điều
kiện lịch sử cụ thể, khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của một cá nhân hay giai
cấp, chính đảng nào. Và với tư cách là một thiết chế xã hội, chính trị ln ln tìm
cách dẫn dắt xã hội theo tư tưởng của giai cấp nắm quyền thống trị xã hội.
Từ góc độ tiếp cận khái niệm lý luận, khái niệm chính trị như đã trình bày ở
trên, có thể đưa ra một quan niệm về lý luận chính trị như sau: Lý luận chính trị là
hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của một chính đảng,
một giai cấp nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Như vậy lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận chính trị của giai cấp vơ sản, là hệ tư tưởng chân
chính nhất chắc chắn nhất, khoa học nhất của giai cấp vơ sản và chính đảng của nó
- Đảng cộng sản.



17

Đối với Đảng ta, lý luận chính trị đó là lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về sở hữu các
thành phần kinh tế, về đấu tranh giai cấp, về xây dựng Đảng và xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân…
Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Điều đó đã được
Đảng ta khẳng định rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được thơng qua tại Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ VII,
năm 1981: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [20 ,tr.21].
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết về những quy luật chung nhất của sự
phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người, là lý luận cách mạng của
quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình ra khỏi ách áp bức
bóc lột, là khoa học về xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của
nhân loại, là tiêu biểu của sự kết hợp giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp, giải phóng con người, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…
Thực tiễn gần 30 năm đổi mới, Đảng ta ln ln kiên trì lấy chủ nghĩa Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành
động của mình, đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đang đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại


18


hoá đất nước; kinh tế tăng trưởng khá nhanh, bước đầu xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể;
khối đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng lãnh đạo được củng cố và tăng cường; sức
mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên nhiều; vị thế của nước ta trên trường
quốc tế không ngừng được nâng cao… Những thành tựu to lớn đó chứng tỏ đường
lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, là sáng tạo, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Hiện nay, trong và ngoài nước đã
và đang xuất hiện tư tưởng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, tư tưởng dao động, hồi nghi, địi xem xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta gây ra sự lo lắng, xáo trộn về mặt tư tưởng
trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; Thấm nhuần sâu sắc bản chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình đổi mới, Đảng
kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
làm cơ sở lý luận và phương pháp luận trong quá trình phân tích tình hình, nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, lấy đó làm cơ sở xuất phát để hoạch định và hồn thiện đường lối đổi mới.
Đảng ln khẳng định vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong tồn bộ sự nghiệp của cách mạng Việt Nam đó là ở những bước ngoặt
của cách mạng, trước những diễn biến phức tạp của tình hình, Đảng ta kịp thời có
định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn nhận thức lệch lạc, chống những
luận điều thù địch, tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng và trong
nhân dân.
Đây cũng là những định hướng chính trị quan trọng đảm bảo cho sự ổn định
và phát triển đất nước, là điều kiện tiên quyết để chúng ta giành được những thắng
lợi to lớn trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới và cũng là tiền đề quan
trọng để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.


19


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh [12,tr.83]. Đại hội
đại biểu tồn quốc lần thứ X một lần nữa tiếp tục khẳng định: Trước những khó
khăn, thử thách lớn ở trong nước, những biến động bất lợi trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, trước sự chống phá của các thế lực thù địch. Đảng ta giữ
vững bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối
đổi mới; tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng [13,
tr.260].
Xuất phát từ những quan điểm đó, Đảng ta luôn nhấn mạnh việc học tập,
nghiên cứu, rèn luyện và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm giải quyết những vấn
đề bức xúc do thực tiễn đất nước và thời đại đặt ra. Tại Đại hội IX, Đảng đã quy
định: “Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh” [12,tr.139]. Đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định việc học tập, nắm
vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh : “Đảng
phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng
Hồ Chí Minh” [13, tr.282].
Như vậy, do việc nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, cho nên từ tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng ta
nghiên cứu, khảo nghiệm và xây dựng nên bước đầu đã hình thành được trên
những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam làm cơ sở khoa học cho đường lối của
Đảng, góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư


20


tưởng Hồ Chí Minh. Do vậy, Đảng ta ln đưa ra những quan điểm, chủ trương,
đường lối phát triển đất nước một cách đúng đắn, những chính sách hợp lịng dân,
đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế - xã hội và đang từng
bước đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
1.1.2. Khái niệm đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
Theo định nghĩa của cuốn Đại từ điển tiếng Việt thì: "Cán bộ: Người làm việc
trong cơ quan nhà nước- cán bộ nhà nước; người giữ chức vụ, phân biệt với người
bình thường, khơng giữ chức vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước", Theo Luật
Cán bộ, công chức được Quốc hội thơng qua năm 2008 thì: "Cán bộ, cơng chức là
công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách". Có nhiều quan
niệm về cán bộ, nhưng cơ bản có hai cách hiểu như sau:
Thứ nhất là, cán bộ bao gồm những người trong biên chế nhà nước, làm
việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đồn thể chính trị, xã hội, các doanh
nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang từ Trung ương đến địa phương và cơ
sở.
Thứ hai là, cán bộ là những người được bầu cử và giữ chức vụ trong một
cơ quan hay tổ chức chính trị- xã hội để phân biệt với những chun viên cơng
chức, người khơng có chức vụ.
Theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là những người thốt ly, làm
việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đồn thể và lực lượng vũ trang. Có rất nhiều
cách định nghĩa khác nhau về cán bộ nhưng về cơ bản, cán bộ là khái niệm dùng để
chỉ những người có chức vụ, vai trị cương vị trong một tổ chức, có tác động ảnh
hưởng đến hoạt động của tổ chức và quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều
hành góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của chính phủ giải thích


21


cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [43, tr.269].
Ở nước ta hiện nay cán bộ của hệ thống chính trị được phân thành bốn cấp:
cán bộ trung ương; cán bộ tỉnh, thành phố; cán bộ quận, huyện và cán bộ cấp cơ sở.
Cán bộ cấp cơ sở là cán bộ có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện các đường
lối, chính sách, phương hướng, kế hoạch của Trung ương và cấp quản lý trực tiếp
cho phù hợp với tình hình cụ thể ở địa phương.
Cấp cơ sở Theo quy định tại Điều 118, Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm
2001 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, bao gồm:
xã, phường, thị trấn gọi chung là cấp cơ sở. Đây là nơi nhân dân cư trú, sinh sống
gắn bó chặt chẽ với các quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội, huyết thống, phong tục,
tập quán, nghành nghề và những sinh hoạt chung khác. Nó có vị trí rất quan trọng,
là nơi trực tiếp giải quyết các mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân; là nơi cụ
thể hóa các Nghị quyết, Nghị định, hướng dẫn của cấp tỉnh và cấp huyện, đi sâu, đi
sát với địa phương; lãnh đạo, quản lý địa phương về mọi mặt. Hiện nay trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội thì đây là nơi có tiềm năng lớn về kinh tế, sản xuất
ra nhiều lương thực, thực phẩm cho xã hội góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất
nước.
Theo Khoản 3, Điều 4 Luật Cán bộ Công chức năm 2008, cán bộ cấp cơ sở
(còn được gọi là cấp cơ sở) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo
nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí
thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội cấp cơ sở trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Cán bộ cấp cơ sở bao gồm các chức vụ: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch,
Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam; Bí thư Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội


22


Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam; Chủ tịch Hội Cựu
chiến binh Việt Nam. Trong khuôn khổ luận văn này tác giả chỉ đề cập đến đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở như: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân.
Với những chức danh như vậy thì đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có những vai trị
rất quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong tổ chức thuộc hệ thống chính trị cấp cơ
sở. Đồng thời họ là những người giữ cương vị chính phụ trách trong một tổ chức,
một tập thể, quyết định đến việc thực hiện các nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội ở địa phương và họ cũng chính là những người “đứng mũi chịu sào”,
chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân.
1.2. Vai trị của lý luận chính trị đối với hoạt động của đội ngũ cán bộ cấp cơ
sở
1.2.1. Đặc trưng của lý luận chính trị
Với quan niệm như trên, lý luận chính trị có những đặc trưng chủ yếu sau:
Một là, tính trừu tượng hố và tính khái qt hoá cao
Đây là đặc trưng cơ bản của lý luận nói chung và lý luận chính trị nói riêng.
Khi đề cập đến lý luận là chúng ta liên tưởng ngay đến tính trừu tượng và tình khái
qt của nó. Tư duy là vấn đề cốt lõi của lý luận nhận thức, nếu như khơng có q
trình tư duy thì nhận thức của con người sẽ mãi mãi chỉ dừng lại ở nhận thức cảm
tính, mặt bề ngồi của đối tượng, khơng thể hiểu được bản chất, tính quy luật của
sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng nói chung. Trong q trình nhận
thức, tư duy của con người ln diễn ra q trình trừu tượng hố, khái quát hoá
những tri thức thu được về thế giới, những quy luật vận động và phát triển của các
lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội.


23

Trừu tượng hố, khái qt hố là hai q trình có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau khơng thể tách rời, chúng xâm nhập lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Nhờ đó mà

con người có được những tri thức về các mối liên hệ bản chất, tính quy luật trong
sự vận động, phát triển sự vật.
Các hình thức thể hiện lý luận nói chung, lý luận chính trị nói riêng như khái
niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật… đều là kết quả của q trình trừu tượng hố,
khái qt hố cao của tư duy con người trong quá trình nhận thức thế giới và chúng
được biểu đạt bằng những khía cạnh, những yếu tố khác nhau nhưng chúng lại có
quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung, hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nhờ đặc
trưng của trừu tượng hố, khái qt hố cho nên lý luận nói chung và lý luận chính
trị nói riêng đã đem lại cho con người sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính quy
luật, các mối liên hệ… trong sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng, nó
giúp con người khơng ngừng tìm tịi, khám phá, sáng tạo ra những cái mới đáp ứng
nhu cầu thực tiễn đặt ra.
Hai là, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận khoa học nói chung và
của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
lý luận thuộc về lĩnh vực hoạt động tinh thần, còn thực tiễn thuộc về hoạt động vật
chất. Trong quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất quyết định ý thức, hoạt
động vật chất quyết định đối với hoạt động tinh thần. V.I.Lênin khẳng định: “Thực
tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) vì nó có ưu điểm khơng những của tính phổ biến
mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [14,tr.230].
Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động và phát triển
buộc lý luận phản ánh đời sống thực tiễn cũng phải không ngừng được bổ sung,
phát triển, đồng thời phải thường xuyên tổng kết thực tiễn nhằm làm cho tri thức lý
luận ngày càng phản ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn, phong phú hơn đời sống thực


24

tiễn. Tuy nhiên, lý luận cũng đóng vai trị tác động trở lại tích cực đối với thực
tiễn; đặc biệt là lý luận cách mạng trong cách mạng chủ nghĩa xã hội: “Khơng có lý

luận cách mạng thì khơng thể có phong trào cách mạng” [24,tr.30]. Lý luận chính
là kết quả nhận thức của con người, nó có vai trị chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn. Do
đó nếu khơng có nhận thức đúng thì cũng khơng thể có hành động đúng. Nhờ có lý
luận, hoạt động của con người trở nên tự giác, tích cực, chủ động và tránh được
tình trạng mò mẫm, tự phát.
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung cho
nhau, là điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nhau; diễn văn khai mạc
lớp học lý luận khoá I, Trường Nguyễn Ấi Quốc ngày 7/9/1957, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành
thực tiễn mù quáng; lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận sng”
[2,tr.496]. Như vậy, lý luận cách mạng có vai trị to lớn trong việc nâng cao trình
độ tư tưởng, lý luận cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân, thúc đẩy cách
mạng tiến lên. Người cũng thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên không ngừng
học tập lý luận cách mạng và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh, nhờ nắm vững những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam, nên Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi khó khăn thử thách,
giành được nhiều thắng lợi. Vì thế, Đảng và Bác Hồ ln coi trọng việc bồi dưỡng,
giáo dục lý luận chính trị, coi đó là u cầu cơ bản, khơng thể thiếu trong công tác
xây dựng Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, việc thường xuyên tổng kết thực tiễn
luôn là một đòi hỏi tất yếu đồng thời là yêu cầu quan trọng để tiếp tục nâng cao
trình độ tư duy lý luận của của Đảng: Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển


25

sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng,
thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn

những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Tổng kết thực tiễn sau gần 30 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn
Đảng trong việc kiên định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và vận dụng một cách
sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
về kinh tế xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng
cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện.
Ba là, sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học.
Nói tới tính đảng là nói tới tính giai cấp, cịn tính khoa học là sự phản ánh
đúng thực tế khách quan, tôn trọng hiện thực, khách quan. Lý luận nói chung và lý
luận Mác - Lênin nói riêng là nhằm bảo vệ lợi ích của một giai cấp trong một chế
độ xã hội nhất định. Do đó, lý luận chính trị của giai cấp cách mạng, giai cấp tiên
tiến, giai cấp đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử ln có khả năng đảm bảo sự
thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống tư tưởng của giai cấp vô sản, giai cấp đại
biểu cho sự tiến bộ của thời đại, giai cấp mà lợi ích của nó phù hợp với lợi ích của
quần chúng nhân dân lao động, nó phản ánh khách quan nhu cầu và lợi ích của giai
cấp cơng nhân và nhân dân lao động, cho nên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
đảm bảo sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học.
Trong lý luận chính trị, tính đảng và tính khoa học có mối quan hệ biện chứng
với nhau, vì thế tính đảng càng cao thì tính khoa học càng thêm sâu sắc, tính đảng
và tính khoa học là điều kiện, tiền đề tồn tại, phụ thuộc lẫn nhau, không thể xem
nhẹ, hoặc loại bỏ cái nào được. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Khoa học càng được


×