Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Thực tiễn việc tổ chức thi hành án dân sự trên địa bàn huyện đak glei, tỉnh kon tum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 60 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

Y TÂM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

THỰC TIỄN VIỆC TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐĂK GLEI, TỈNH
KON TUM

Kon Tum, tháng 08 năm 2019


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

THỰC TIỄN VIỆC TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐĂK GLEI, TỈNH
KON TUM
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : LÊ ĐÌNH QUANG PHÚC
SINH VIÊN THỰC HIỆN
: Y TÂM
LỚP
: K915 LHV- KT

Kon Tum, tháng 8 năm 2019



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được đề tài này, cùng với sự nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu của bản
thân tác giả là sự giúp đỡ nhiệt tình, sự hướng dẫn chỉ đạo sát sao của Ban Chủ nhiệm
khoa Luật Trường Đại học Phân hiệu Đà Nẵng tại Kon Tum cùng các thầy cô giáo trong
khoa, đặc biệt là thầy giáo PGS.TS Đặng Văn Mỹ, người trực tiếp hướng dẫn tôi thực
hiện khóa luật tốt nghiệp này. Trong suất cả quá trình thực hiện đề tài, tôi nhận được sự
quan tâm, chỉ bảo, hướng dẫn và đóng góp ý kiến một cách sát sao, nhiệt tình, tỉ mỉ và có
hiệu quả của thầy. Một lần nữa, qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban Chủ
nhiệm khoa Luật, đến cô giáo TS Đinh Thị Thanh cùng tất cả các thầy cô giáo trong khoa
và các bạn đọc đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi có thể hoàn thành khóa luật tốt
nghiệp một cách tốt nhất.
Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của mình cũng như những hạn chế nhất định
về kiến thức chuyên môn, về kinh nghiệm thực tiễn và các kỹ năng, phương pháp nghiên
cứu khoa hoc, nên mặc dầu đã rất nỗ lực những thiếu sót, hạn chế trong quá trình nghiên
cứu và thực hiện đề tài này, vì vậy rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và
các bạn để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc sức khỏe tới quý thầy cô và các bạn !


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................3
2.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn .......................................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................................6
5. Cơ cấu đề tài ...................................................................................................................6
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG .....................................................................................7
1.1.Tổng quan về công tác Thi hành án dân sự ...............................................................7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án dân sự ...........................................7

1.1.2. Cơ sở lý luận về công tác Thi hành án dân sự .....................................................14
1.2. Một số nét khái quát về thi hành án dân sự ở việt nam ........................................17
1.2.1.Thời kỳ từ cách mạng tháng Tám 1945 đến 1993 ................................................20
1.2.2. Thời kỳ 1993-2004 và hiện nay...........................................................................20
1.3. Pháp lệnh về thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới ...........................29
1.3.1.Tổ chức bộ máy và quy chế chấp hành viên thi hành án ......................................29
1.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án....................................................30
1.3.3. Quyền tự định đoạn của đương sự trong quá trình thi hành án ...........................30
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN ĐĂK GLEI .................32
2.1. Đặc điểm tình hình hoạt động tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk Glei,
tỉnh Kon Tum ...................................................................................................................32
2.2. Những yếu tố, đặc điểm tác động tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk
Glei, tỉnh Kon Tum ..........................................................................................................35
2.3. Thực trạng công tác tổ chức Thi hành án dân sự ..................................................37
CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHẤP .................................43
3.1. Quan điểm của Đảng, nhà nước về công tác thi hành án dân sự tại địa phương
............................................................................................................................................43
3.2. Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp hoàn chỉnh trong công tác thi hành án dân
sự tại địa phương..............................................................................................................46
3.3. Kiến nghị ....................................................................................................................50
3.3.1. Kiến nghị với chi cục thi hành án dân sự huyện Đăk Glei về công tác thi hành án
dân sự .................................................................................................................................50
3.3.2. Kiến nghị với nhà trường ....................................................................................52
KẾT LUẬN .......................................................................................................................53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

i



MỞ ĐẦU
Thi hành án dân sự có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động Tư pháp nói chung
và trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự nói riêng. Bản án, quyết định của Tòa án
thật sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Phiên tòa kết thúc một vụ án,quyết định
được ban hành chưa thể xem kết thúc một vụ án; không thể kết thúc một vụ án đã được
giải quyết hoàn chỉnh khi bên có nghĩa vụ chưa thực hiện nghĩa vụ của mình và bên có
quyền chưa được hưởng những quyền và lợi ích mà có thể được hưởng theo án, quyết
định mà Tòa án đã tuyên. Nói cách khác, khi bản án, quyết định của Tòa án vẫn chưa
được thực hành trên thực tế thì bản án, quyết định đó cũng chỉ là tờ giấy trắng mà thôi và
vụ án ấy vẫn chưa thể coi là đã giải quyết xong.
Thi hành án dân sự là giai đoạn tiếp nối cuối cùng của quá trình tố tụng, nếu những
phán quyết của tòa án không được đưa ra thi hành thì các giai đoạn trước đó của quá trình
tố tụng không có ý nghĩa trên thực tế.
Trong những năm qua, mặc dù chúng ta đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết
quả nhất định, nhưng hiệu quả công tác thi hành án vẫn là vấn đề bàn luận nhiều. Trong
thi hành án dân sự, số án tồn động vẫn còn , theo thống kê, năm 2016 trong số 121 việc
còn phải thi hành thì có hơn 10 chưa có điều kiện, với tổng số tiền phải thi hành là 865
triệu 713.350 đồng
Riêng đối với huyện Đăk Glei, công tác thi hành án dân sự cũng đạt được những kết
quả đáng khích lệ. Năm 2017 (tính từ ngày 01/10/2016 đến ngày 30/10/2017) số việc có
điều kiện thi hành, đã thi hành xong 219 việc, đạt 87%, đã kiểm sát được 121 việc quyết
định về Thi hành án dân sự. Đã giải quyết 103 việc đạt tỉ lệ 85%. Tiến hành kiểm sát
trực tiếp toàn diện tại cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự đã ban hành kết luận và được
chấp nhận. Tham gia Hội đồng tiêu huỷ vật chứng 06 lượt trị giá 10.500.000 đồng, việc
tiêu huỷ đảm bảo đúng pháp luật. Tổng số tiền và giá trị hiện vật đã thu được 2
tỷ159.205.850 đồng, các kết quả thi hành án cả về việc và tiền đều đạt và vượt so với chỉ
tiêu do Bộ Tư pháp đặt ra. Bên cạnh nhũng thành tựu đã đạt được, có thể nói vị trí, vai trò
của công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng ở Việt Nam vẫn chưa
thực sự được quan tâm đầy đủ, dẫn đến hiệu quả hoạt động của các Cơ quan thi hành án

dân sự chưa cao, án dân sự còn tồn động nhiều, án xếp vào diện không có điều kiện thi
hành chiếm tỉ lệ lớn (ở Đăk Glei chiếm 5%), nhiều vụ việc kéo dài đến nay vẫn chưa
được giải quyết dứt điểm đòi hỏi phải có giải pháp tháo gỡ những ách tắc trong hoạt
động thi hành án dân sự.
Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình
tự, thủ tục khởi kiện để Tịa án giải qút các vụ án dân sự và trình tự, thủ tục yêu cầu để
Tòa án giải quyết các việc việc dân sự; trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa
án; thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá
nhân, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tở chức chính trị, tở
chức chính trị - xã hợi, tở chức chính trị xã hợi - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã

1


hợi - nghề nghiệp có liên quan nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự
được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật. Bộ ḷt tớ tụng dân sự góp
phần bảo vệ chế đợ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tở chức; giáo dục mọi
người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Ngày 29/03/2011 quốc hội đã ban hành luật sửa đổi bổ sung một số điều của
BLTTDS.
Bản thân là một sinh viên được thực tập tại một TAND cấp huyện, trong thời gian
thực tập, em đã được tiếp xúc với những vụ, việc dân sự thực tế, với những trình tự thủ
tục quan trọng của tớ tụng vì vậy em hiểu thêm tầm quan trọng của luật này.
Mặc dù khó có thể nói được giai đoạn nào trong các giai đoạn của tố tụng là quan
trọng nhất; vụ, việc nào là vụ, việc khó, phức tạp nhất, nhưng trong thời gian ngắn ngủi
làm việc trực tiếp tại tòa vừa qua, em thật sự quan tâm đến giai đoạn khởi kiện. Bởi, hầu
như những cơng dân, những con người đến tịa tại nơi em làm việc, dường như không
biết thế nào là “khởi kiện”, tức là: khi khởi kiện cần những loại đơn từ nào? trình tự vụ

việc diễn ra làm sao? Tịa án nào có thẩm quyền xét xử vụ việc của mình? v.v… Hơn
nữa, với những quan sát được trong thời gian này, em quan tâm nhất là những vấn đề ly
hơn, tranh chấp dân sự. Vì vậy, em chọn đề tài “Thực tiễn việc tổ chức thi hành án dân
sự tại VKSND hụn Đăk Glei” mà nợi dung chính phần lớn xoay quanh các vấn đề thi
hành án dân sự.
Thi hành án là hoạt động làm cho các Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Toà án thực hiện được trong thực tế.
Thi hành án dân sự là một bộ phận của Thi hành án, đó là hoạt động của cơ quan
Thi hành án tiến hành theo trình tự, thủ tục nhất định nhằm đưa những Bản án, Qút
định có hiêu lực của Tố án ra thi hành.
Cơng tác thi hành án nói chung và cơng tác Thi hành án dân sự (THADS) nói riêng
đều có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mọi phương diện của đời sớng. Nó làm cho các
bản án, qút định của Tố án trở thành hiện thực. Thơng qua hoạt đợng thi hành án
qùn và lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và của công dân
được bảo vệ; pháp chế được tăng cường, tạo được niềm tin vững chắc trong quần chúng
nhân dân, đảm bảo trật tự xã hội.
Cũng như các cơ quan Công An, Viện Kiểm Sát, Toà án, cơ quan THADS giữ vị trí
đặc biệt quan trọng, là mợt khâu khơng thể thiếu trong q trình tớ tụng. Mọi phán quyết
của Toà án chỉ là những quyết định trên giấy tờ và không thể phát huy trên thực tế nếu
không được thi hành đầy đủ và hiệu quả nhất là trong lĩnh vực thi hành án.
Trải qua một chặng đường dài hình thành và phát triển, THADS nước ta đã có nhiều
chuyển biến to lớn nhất là sau khi Pháp lệnh Thi hành án 1993 được ban hành. Đó là mốc
thời gian quan trọng khi cơ quan THADS được Quốc Hợi chủn giao từ Toà án sang cơ
quan tḥc Chính Phủ; đã đưa công tác thi hành án (THA) bước vào một giai đoạn phát
triển mới. Cho đến khi Pháp lệnh Thi hành án 2004 ban hành, tiếp đến là Luật THADS

2


năm 2008 thì tổ chức cơ quan THADS ngày càng được hồn thiện hơn. Hoạt đợng THA

được củng cớ về mọi mặt, đạt được những thành quả nhất định, hoàn thành tương đối tốt
nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó.
Trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay, vô số các quan hệ giao dịch được
phát sinh, dẫn đến tranh chấp cũng nhiều hơn, lượng công việc mà các cơ quan Tư pháp
phải giải quyết ngày càng nhiều. Một vấn đề đặt ra cho cơ quan Tư pháp nói chung và cơ
quan THADS nói riêng là phải tổ chức hoạt động sao cho đạt hiệu quả cao.
Trong những năm gần đây, THADS cả nước nói chung và THADS trên địa bàn
Huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum nói riêng đang đứng trước một một số vấn đề như: trong
q trình THA cịn gặp phải nhiều khó khăn vướng mắc; tình trạng án tờn đọng cịn
nhiều. Việc quan trọng nhất đới với các cơ quan THADS là phải tìm ra một giải pháp
đồng bộ và cụ thể nhằm giải quyết những khó khăn trên. Để làm được điều này chúng ta
hãy đi tìm hiểu rõ về việc tổ chức THADS trên thực tế. Trong khoảng thời gian là 18
ngày thực tập tại Chi cục THADS Huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum, có cơ hội được hiểu
sâu về công tác thi hành án em đã chọn đề tài “Thực tiễn việc tổ chức thi hành án tại
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk Glei” để nghiên cứu.
Do lần đầu tiếp xúc với đề tài kết hợp cả tính lý luận và thực tiễn cao, cùng với
phạm vi nghiên cứu khá rợng trong khi đó thời gian có hạn, nhiều nội dung chưa được
đầu tư thỏa đáng, do đó chất lượng chun đề cịn nhiều hạn chế và khơng tránh khỏi
những sai sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự quan tâm chỉ bảo của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo và toàn thể cán bộ, công chức tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum cùng Giáo viên hướng dẫn đã tạo điều
kiện, giúp đỡ em hoàn thành bài báo cáo này!
1. Lý do chọn đề tài
Từ những lý do nêu trên, em đã chọn đề tài “Thực tiễn việc tổ chức thi hành án dân
sự trên địa bàn huyện Đăk Glei” làm luận văn tốt nghiệp, góp phần đánh giá được thực
trạng và tìm ra nguyên nhân dẫn đến án tồn động để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện nay.
Có thể nói việc thực thi pháp luật, thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực trong thực tế là vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 của nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định “Các bản, quyết định của Tòa án

nhân dân có hiệu lực, pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng; đơn vị hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành.
Thực hiện quy định của Hiến pháp 1992, công tác Thi hành án dân sự ở nước ta nói
chung cho đến nay đã thu được nhiều kết quả quan trọng như về mặt thể chế, tổ chức bộ
máy, về công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kiến pháp luật mới cho Thủ trưởng các cơ
quan Thi hành án dân sự, chấp hành viên và các công chức trong cơ quan thi hành án.
Nhờ sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Cục Thi hành án, các cơ quan, ban hành ở
Trung ương cùng với các cấp, chính quyền địa phương đã giúp đỡ cơ quan Thi hành án

3


trên phạm vi cả nước hằng năm thi hành được hàng nghìn vụ án với tỷ lệ năm sau cao
hơn năm trước, thu về cho Nhà nước hàng nghìn tỷ đồng, trong đó có nhiều vụ án phức
tạp kéo dài trong nhiều năm cũng đã được giải quyết. Từ đó, cũng có thêm niềm tin cho
nhân dân vào tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật cũng như sự lãnh đạo của Đảng
và sự quản lý của nhà nước.
Tuy nhiên, thực tiễn Thi hành án dân sự vẫn còn diễn ra nhiều bất cập, làm giảm
hiệu lưc, hiệu quả quản lý của Nhà nước, gây nhiều bức xúc cho dư luận xã hội.Đặc biệt
là ở những địa phương thuộc vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số
như huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà các quan hệ
ngày càng mở rộng và phức tạp, các tranh chấp dân sự ngày càng đa dạng, các vụ án dân
sự ngày càng phức tạp hơn, lượng án tồn động thêm chồng chất trong thực tế, thì việc tìm
hiểu thực trạng, nguyên nhân của những vấn đề nêu trên, từ đó tìm ra các giải pháp khắc
phục những khó khăn, bất cập đó làm cho công tác Thi hành án dân sự ngày càng có hiệu
quả, nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật là cực kỳ quan trọng và cần thiết.
Hơn nữa, đối với những sinh viên luật, nhất là những sinh viên có xu hướng lựa
chọn theo con dường hoạt động Tư pháp và với mong muốn được cống hiến cho quê
hương sau này, thì việc tìm hiểu nghiên cứu thực trạng công tác Thi hành án dân sự ở địa

phương mình càng rất cần thiết. Bởi điều đó không chỉ giúp cho chúng ta có thể nhìn
khách quan, trung thực về thực tiễn công tác thi hành án dân sự của địa phương nói riêng
và tình hình thực thi pháp luật nói chung, mà từ đó có thể đưa ra các giải pháp, kiến nghị
nhằm giúp cho công tác Thi hành án dân sự của địa phương ngày càng có hiệu quả thiết
thực trong cuộc sống; mạng lại niềm tin cho bà con nhân dân – những người đang rất cần
có những hiểu biết về pháp luật, rất cần sự bảo vệ của công lý, từ đó cùng góp phần xây
dựng quên hương mình ngày một giàu đẹp hơn. Đồng thời, góp phần nâng cao hiệu quả
và hoàn thiện về công tác Thi hành án dân sự trên cả nước, làm cho xã hội ngày càng
công bằng, bình đẳng, cuộc sống ngày càng thêm ấm no, hạnh phúc, góp phần cùng đưa
Việt Nam phát triển, hòa nhập vào thế giới trong bối cảnh hòa nhập kinh tế như hiện nay.
Bên cạnh đó cũng sẽ đem lại cho mình những hiểu biết, những cơ sở thực tiễn và những
bài học kinh nghiệm quý báu từ thực tế, tạo nền tãng sau này cho những nhà làm luật
trong tương lai. Với những mong muốn đó, tôi chọn đề tài “Thực tiễn việc tổ chức Thi
hành án dân sự trên địa bàn huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum” làm khóa luật tốt nghiệp.
2.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Vấn đề tồn động hiện nay đang được Đảng, Nhà nước và nhiều nhà khoa học quan
tâm, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài báo viết về công tác thi hành án dân sự
với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành
án ở Việt Nam.
Để góp phần nhỏ bé nghiên cứu, đề xuât tìm ra giải pháp giảm thiểu án tồn động
hiện nay đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu thực tiễn thi hành án dân sự ở một địa phương cụ
thể để tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra được một số giải pháp nhằm hạn chế tồn động.

4


Sau gần 3 tháng thực tập tại Tòa án, qua những lần được nghiên cứu, xem xét
những tài liệu hỗ trợ cho đề tài. Em thấy đây là một đề tài có ý nghĩa rất lớn. nó giúp em
hiểu rõ hơn về vai trò của tòa án nhân dân ở cấp huyện. Và đặc biệt là qua nghiên cứu đề
tài em đã có thêm kiến thức về thực tiễn khởi kiện vụ án, giúp em nếu gặp những trường

hợp như thế này sẽ khơng cịn bỡ ngỡ, và hiểu rõ hơn về thực tiển giải quyết các vụ việc
dân sự tại tòa án cấp huyện.
Do lần đầu tiên tiếp xúc với đề tài kết hợp cả tính lý luận và thực tiễn cao, cùng với
phạm vi nghiên cứu khá rộng trong khi đó thời gian có hạn, nhiều nợi dung chưa được
đầu tư thỏa đáng, do đó chuyên đề không tránh khỏi những sai sót.
Em xin chân thành cảm ơn Cơ Thanh đã tận tình hướng dẫn em hồn thành tốt đề
tài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung làm rõ thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở huyện Đăk Glei,
trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ tình trạng án tồn đọng, đảm bảo mọi
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án phải được đưa ra thi hành.
Trong đề tài, em muốn phân tích, đánh giá những vấn đề xoay quanh giai đoạn khởi
kiện tại TAND cấp huyện khi áp dụng BLTTDS 2005 và những điều khoản đã được sửa
đổi, bổ sung và có hiệu lực vào ngày 1/1/2012, cũng như những vấn đề trong giai đoạn
ban đầu của một vụ án dân sự nhằm chỉ rõ những vấn đề cịn tờn đọng trong quan hệ hình
thức giữa những người tham gia và TAND huyện Kon plông nơi em thực tập. Từ đó đưa
ra những phương hướng, kiến nghị để hoàn thiện và có cơ chế áp dụng hợp lý hơn trong
những vấn đề liên quan.
- Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề chủ yếu
sau:
+ Nghiên cứu một cách có hệ thống một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự.
+ Phân tích những vụ việc điển hình và những vướng mắc đặt ra khi thực hiện quá
trình thi hành án .
+ Đề xuất giải pháp nhằm tháo gỡ tình trạng án tồn đọng hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu các quy định về thi hành án dân sự trong pháp luật hiện
hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở huyện Đăk Glei hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về thi
hành án và thực tiễn thi hành án dân sự ở huyện Đăk Glei, trên cơ sở đó kiến nghị một số
giải pháp nhằm giảm lượng án tồn động hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi chỉ thực hiện việc khảo sát, phân tích về thực

trạng Thi hành án dân sự ở một địa phương nhỏ là huyện Đắk Glei, tỉnh Kon Tum, từ đó
đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác Thi hành án dân sự trên địa bàn
huyện.
Theo đó đề tài chỉ tập trung chủ yếu vào việc tìm hiểu, phân tích, thực trạng,
nguyên nhân của công tác Thi hành án dân sự huyện Đăk Glei trong thời dan qua và đưa
ra những kiến nghị để nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới

5


4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp và khỏa sát
thực tế là chủ yếu. Ngoài ra còn có sự kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau
như phương pháp so sánh, lấy ý kiến cùng các thao tác tư duy logic, lịch sử, thống kê xã
hội học...
Luận văn được nghiện cứu trên cơ sở phương pháp luật truyền thống của Chủ nghĩa
Mác-Lê nin đó là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp luật duy vật lịch sử.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, suy đoán. Các
phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là phương pháp nghiên cứu lịch sử,
phương pháp phân tích ,phương pháp so sách, phương pháp tởng hợp.
Với thời gian nghiên cứu có hạn, để những thông tin đưa ra được đầy đủ, khách
quan, bao quát được tồn bợ vấn đề cần tìm hiểu, em đã sử dụng một số phương pháp
như :
Phương pháp điều tra: Với chuyên đề này em đã sử dụng phương pháp điều tra đã
giúp em tiếp cận vấn đề dựa trên cơ sở thu thập thông tin phục vụ cho việc hồn thành tớt
đề tài đã lựa chọn. như vấn đề kinh tế xã hợi, an ninh chính trị, trình độ dân trí vv…
Phương pháp hỏi trực tiếp: để một vụ án dân sự được thụ lý không phải chỉ đơn
giản là làm đơn khởi kiện, mà còn có các giấy tờ, tài liệu liên quan nợp cho tòa án để
được xem xét có đủ điều kiện thụ lý hay không. Những vấn đề này đối với người dân là
rất mơ hờ, nên trong q trình thực tập, qua những buổi được cùng với thẩm phán tiếp

dân, em đã hỏi trực tiếp thẩm phán, và được hướng dẫn rất tận tình.
5. Cơ cấu đề tài
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luật văn gồm 3 chương.
Chương I: Lý luận chung
Chương II: Thực trạng việc tổ chức hoạt động Thi hành án dân sự tại Chi cục thi
hành án dân sự huyện Đăk Glei
Chương III: Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp

6


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG
1.1.Tổng quan về công tác Thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án dân sự
a . Khái niệm chung về thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan Thi hành án tiến hành nhằm tổ chức
thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (quy định tại Điều 375
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Điều 2 luật Thi hành án dân sự 2008) buộc người thi
hành án thực hiện những trách nhiệm, nghĩa vụ đối với người thi hành án đã được quy
định trong bản án, quyết định đó. Thi hành án dân sự là việc thực hiện các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án do cơ quan Thi hành án tiến hành với sự tham
gia của người phải thi hành án, người được thi hành án và các chủ thể có liên quan khác.
Nói cách khác, THADS là quá trình đưa những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án thực hiện tên thực tế, nhằm đảm bảo về quyền và lợi ích chính
đáng của đương sự, đảm bảo nguyên tắc pháp chế Xã hôi Chủ nghĩa, đảm bảo sự tuân thủ
pháp luật, đồng thời đảm bảo nguyên tắc quyết định của Tòa án có hiệu lực phải được thi
hành.
Thi hành án dân sự bao gồm nhiều hoạt động từ việc nhận chuyển giao bản án,

quyết định dân sự hiệu lực của Tòa án, ra quyết định thi hành án, tiến hành xác minh điều
kiện thi hành án, áp dụng cưỡng chế thi hành án, yêu cầu Tòa án giải thích bản án, quyết
định dân sự đã tuyên đến việc thanh toán tiền thi hành án, kết thúc hồ sơ thi hành án.
Trình tự, thủ tục Thi hành án dân sự được quy định tại phần thứ bảy, chương XXXI Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2004 và tại chương III Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các
văn bản hướng dẫn thi hành.
Thi hành án là một nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động của nhà nước, có những
đặc trưng riêng.
Thứ nhất : Thi hành án là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử.
Thứ hai: thi hành án là hoạt động có tính chất chấp hành nhưng là chấp hành phán
quyết của cơ quan xét xử.
Thứ Ba: Hoạt động thi hành án bên cạnh việc sử dụng phương pháp giáo dục, thuyết
phục còn sử dụng các phương pháp điều chỉnh của hoạt động hành chính như phương
pháp mệnh lệnh, bắt buộc thi hành.
Từ những phân tích trên có thể thi hành án là hoạt động hành chính, tư pháp mang
tính quyền lực nhà nước, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo một
trình tự, thủ tục do pháp luận quy định nhằm thực hiện trên thực tế phán quyết của tòa án
theo bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật.
Xuất phát từ bản chất của các quan hệ dân sự trong đời sớng xã hợi và q trình Tồ
án giải quyết các tranh chấp dân sự phát sinh thì bản án, quyết định dân sự - kết quả giải
quyết của Toà án nhân danh Nhà nước - là sự xác nhận quyền và nghĩa vụ dân sự của các
đương sự có liên quan. Vì vậy, theo quy định của Điều 136 Hiến pháp năm 1992 (Các

7


bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân
tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành), thì bản án,
qút định dân sự có hiệu lực của Toà án phải được đảm bảo thi hành theo những trình

tự, thủ tục thi hành án dân sự.
Theo nguyên tắc hiến định nêu trên và yêu cầu khách quan trong hoạt động của Nhà
nước, hoạt động thi hành án dân sự nhằm đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các bản án,
quyết định dân sự. Tuy nhiên, việc xác định bản chất của thi hành án dân sự vẫn là vấn đề
còn nhiều tranh luận cả từ góc độ lý luận và thực tiễn. Dựa trên những luận cứ khác nhau,
có quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp; hoạt động hành chính
hay hoạt đợng mang tính chất hành chính – tư pháp. Xuất phát từ các quy định pháp luật
hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở nước ta, nhiều ý kiến đờng tình với
quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất của hoạt
đợng hành chính, vừa có tính chất của hoạt đợng tư pháp. Điều này thể hiện ở một số
điểm sau đây:
+ Cơ sở của hoạt động thi hành án là các bản án, quyết định dân sự của Toà án; các
cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án chủ yếu là cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng);
+ Thi hành án dân sự là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mới quan hệ mật
thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó (ví dụ: việc thi hành các quyết định khẩn
cấp tạm thời của Toà án; trong q trình thi hành án, Chánh án Tồ án, Viện trưởng Viện
kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu cơ quan thi hành án hoãn việc thi hành án, quyết định
tạm đình chỉ thi hành án để xem xét lại bản án theo trình tự giám đớc thẩm hoặc tái
thẩm...). Tuy nhiên, thi hành án lại có tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động
này được bắt đầu bằng quyết định của Thủ trưởng cơ quan thi hành dân sự đối với thi
hành án dân sự. Những qút định này mang tính bắt ḅc chấp hành đới với tất cả các
chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án. Các cơ quan, tổ chức,
công dân, trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực
hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Tính chấp hành trong thi hành án phản ánh một đặc
trưng chứng tỏ nó không đơn thuần là hoạt động tố tụng thuần tuý. Bên cạnh các chủ thể
là Tòa án, Viện kiểm sát, chúng ta có thể thấy các chủ thể tham gia vào giai đoạn thi hành
án đông đảo và đa dạng hơn so với các giai đoạn tố tụng trước đó, ví dụ UBND địa
phương nơi người phải thi hành án cư trú; cơ quan, tổ chức nơi người phải thi hành án
làm việc...
+ Thi hành án và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân quả với nhau.

Trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nếu ở giai đoạn điều tra, các cơ quan tiến hành tố
tụng không kiên quyết áp dụng đầy đủ, kịp thời các biện pháp ngăn chặn như thu giữ, kê
biên, phong tỏa tài sản... thì đến giai đoạn thi hành án, cơ quan thi hành án sẽ gặp rất
nhiều khó khăn do đương sự cất giấu, tẩu tán tài sản dẫn đến tình trạng án tờn đọng
khơng thể thi hành được. Hoặc nếu một bản án, quyết định được Tịa án tun mợt cách
cơng bằng, thấu tình, đạt lý, rõ ràng, cụ thể, được dư luận ủng hộ, đồng tình thì việc thi

8


hành án sẽ dễ dàng, nhanh chóng hơn nhiều. Ngược lại, nếu bản án, quyết định của Tòa
án được tuyên khơng khách quan, tồn diện và cơng bằng, thiếu tính khả thi sẽ gây cản
trở cho việc thi hành án, lànhanh chóng, kịp thời sẽ có tác đợng tích cực trở lại đối với
hoạt động xét xử, củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan xét xử.
+ Q trình thi hành án dân sự nhằm khơi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể, do đó, các trình tự, thủ tục thi hành án cũng được quy định chặt
chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng trước đó vì đều liên quan đến quyền
con người, quyền công dân. Hơn nữa, yêu cầu đặt ra đối với những người tiến hành các
trình tự, thủ tục thi hành án, kể cả Chấp hành viên trong thi hành án dân sự cũng không
thấp hơn những người tiến hành tố tụng trước đó là phải độc lập và tuân theo pháp luật để
bảo đảm duy trì sự thật trong bản án, quyết định của Tòa án và tiến tới đạt được sự thật
trên thực tế; nếu không độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì giá trị sự thật mà bản án,
quyết định của Tòa án đã xác định sẽ không còn nguyên nghĩa của nó, trừ trường hợp các
đương sự có sự thỏa thuận tự nguyện khác trong quá trình thi hành án.
+ Bản chất của thi hành án là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành phán
quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau nhằm ḅc người có
nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án phải thực hiện đúng các
nghĩa vụ của mình. Mục đích ći cùng của thi hành án là bảo đảm cho các quyết định
của Tòa án được ghi trong bản án, quyết định được thực thi trên thực tế chứ không phải là
ra văn bản áp dụng pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành - nét đặc trưng của hoạt

động hành chính. Mặt khác, tính chất chấp hành khơng chỉ là u cầu trong hoạt đợng thi
hành án mà cịn là yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng trước đó với ý nghĩa cao
nhất là chấp hành các quy định của pháp luật, bản thân pháp luật được Nhà nước ban
hành có tính bắt ḅc chung mà mọi người phải tôn trọng thực hiện.
Hàng năm, Chi cục THADS Huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum phải giải quyết một
lượng án không lớn. Tính như năm 2016 vừa qua, Chi cục THADS huyện Đăk Glei thụ
lý và đưa ra thi hành 120 việc. Đó là một khối lượng công việc lớn đối với một cơ quan
tương đối hạn hẹp về nhân lực. Toàn cơ quan có 06 cán bợ trong biên chế, trong đó chỉ có
02 chấp hành viên, tất cả đều đã tốt nghiệp cử nhân Luật và được đào tạo về nghiệp vụ thi
hành án. Các chấp hành viên nhìn chung có t̉i đời chưa nhiều từ 32 t̉i đến 45 t̉i
nên kinh nghiệm thực tế cịn ít. Để giải qút mợt lượng án lớn mà tính phức tạp lại cao
như vậy cũng là một trong những khó khăn của các chấp hành viên. Buộc họ phải thường
xuyên trau dời kinh nghiệm thực tế giúp ích cho cơng việc của mình.
Là mợt hụn trẻ đang trên đà phát triển, Huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum thu hút
nhiều nhà đầu tư, thu hút nhiều nhân công lao động. Điều này dẫn đến nhiều tranh chấp
xảy ra hơn, tình trạng tội phạm cũng ra tăng. Trong 03 năm trở lại đây, trung bình mỗi
năm Chi cục THADS Huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum cũng phải thi hành lượng án gần
100 việc mỗi năm. Không những gia tăng về số lượng án mà tính chất phức tạp của các
vụ án cũng ngày càng rõ nét. Có nhiều trường hợp không thể giải quyết được vì người
phải thi hành không có đủ điều kiện để thi hành án.

9


Tính đến năm 2016 vừa qua, Chi cục THADS Huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum phải
thi hành vụ trong đó: Việc thi hành án dân sự trong các bản án hình sự chiếm nhiều nhất
là 219 vụ, tiếp theo là thi hành án trong tranh chấp dân sự là 200 vụ, Hôn nhân – Gia đình
chiếm 8vụ, cuối cùng là thi hành án về lao động và kinh tế chỉ có 11 vụ.
Nhiệm vụ của Toà án là đưa ra những Bản án, Qút định trên giấy tờ, nhưng ḿn
nó thực hiện được phải thông qua công tác thi hành án. Không phải lúc nào cơ quan thi

hành án cũng giải quyết được các vụ việc một cách dễ dàng. Trong hoàn cảnh hiện nay,
mặt nhận thức trong quần chúng nhân dân còn chưa cao, họ chưa có ý thức tự giác thi
hành án, trong khi đó cơ quan THADS không giống như các cơ quan Công An, Viện
kiểm sát hay Toà, bị hạn chế về việc sử dụng các biện pháp cưỡng chế. Và ngay trong
quá trình cưỡng chế cũng gặp phải khơng ít những khó khăn: khơng có lực lượng riêng,
nên khi huy động mất nhiều thời gian; nhiều khi cịn bị dân tập trung chớng đới, bị cản
trở công tác thi hành án.
Việc thi hành án cũng bị trì trệ vì người phải thi hành án thường xun lẩn tránh. Có
khi các cán bợ thi hành án phát giấy báo nhiều lần mà đương sự không lên gặp. Xuống
tận nhà đương sự để đôn đốc thi hành án thì họ trớn, nhiều đương sự thường xun thay
đởi nơi cư trú, hoặc khơng có tài sản cớ định.
Bên cạnh những vụ việc mà cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án
theo Bản án, Quyết định có hiệu lực của Toà án thì cũng có một số trường hợp cơ quan
THA chỉ ra quyết định THA khi có đơn yêu cầu. Do quá trình tác nghiệp thi hành án
chưa thực sự có hiệu quả, rất nhiều người dân không hiểu được quyền và lợi ích của họ
trong giai đoạn thi hành án. Những người được thi hành án thì cứ nghĩ sau khi Toà án
Tuyên họ chỉ việc đến cơ quan THA nhận lại phần tiền, tài sản mình được nhận. Họ
không được hướng dẫn cẩn thận về thủ tục. Trong những trường hợp này, họ phải làm
đơn gửi kèm cùng bản sao bản án cho THADS thì Chi cục trưởng Chi cục THADS mới
ra quyết định thi hành án theo đơn đối với phần tài sản của họ; điều này cũng ít nhiều ảnh
hưởng đến tiến trình thi hành án.
Như vậy, nhìn mợt cách khái quát, công tác thi hành án tương đối phức tạp và khó
khăn. Để có thể đưa Bản án, Qút định của Tồ án vào thực tế mợt cách có hiệu quả đòi
hỏi phải có mợt q trình tở chức thi hành án hợp lí, khoa học.
b. Khái niệm, đặc điểm của thi hành án dân sự
Luật thi hành án dân sự Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ giữa các cơ quan thi hành án dân sự, đương sự, cơ quan, tở chức và cá nhân
có liên quan đến việc thi hành án dân sự, phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự có
hiệu quả, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Hiện nay trong các văn bản pháp lý về thi hành án vẫn chưa có điều luật nào khái

niệm cụ thể về thi hành án dân sự. Chính vì vậy cũng phát sinh những ý kiến khác nhau
về tính chất đặc trưng của thi hành án dân sự.

10


Có ý kiến cho rằng “Thi hành án dân sự là tổng hợp các hành vi tố tụng thực hiện
bản án, quyết định dân sự của Tòa án theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”. Theo
ý kiến này thì có thể coi là một giai đoạn kết thúc quá trình tố tụng dân sự.
Có ý kiến lại cho rằng :Thi hành án là tố tụng hành chính vì các cơ quan thực hiện
việc thi hành án thì hành án thuộc Chính phủ không phải thuộc tòa án,việc giải quyết
khiếu nại, kháng nghị trong thi hành án đã khác hẳn về hình thức, thủ tục so với việc giải
quyết kháng cáo, kháng nghị trong tố tụng dân sự.
Nhưng trên cơ sở bản chất của hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động mang tính
chất tư pháp đặt dưới sự chỉ đạo, tổ chức và quản lý của hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước cho thấy.
Thứ nhất, cơ sở của hoạt động thi hành án là các bản án, quyết ddinhjdaan sự của
tòa án;các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án chủ yếu là cơ quan tư pháp (theo
nghĩa rộng).
Thứ hai, thi hành án và giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ với nhau. Nếu
một bản án, quyết định được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, thì việc
thi hành án sẽ dễ dàng, nhanh chóng và ngược lại.
Xuất phát từ sự phân tích trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành và thực
tiễn công tác thi hành án dân sự có thể khái niệm mang tính bao quát: Thi hành án dân sự
là hoạt động hành chính- tư pháp là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng do các cơ
quan thuộc hệ thống hành pháp quản lý và thực hiện nhằm thi hành trên thực tế của bản
án, quyết định về dân sự của Tòa án thực tế có hiệu lực pháp luật.
Từ khái niệm trên có thể thấy thi hành án dân sự có những đặc điểm sau:
-Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính tài sản. Bản chất của các quan hệ dân sự
là quan hệ mang tính tài sản chính vì thế mà quá trình thi hành án dân sự cũng mang tính

tài sản.
-Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính định đoạt. Xuất phát từ quyền tự định
đoạt của các chủ thể trong luật dân sự. Chủ thể có quyền được yêu cầu chủ thể khác thực
hiện những hành vi nhất định hoặc không thực hiện những hành vi nhất định để đáp ứng
lợi ích.
-Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính thỏa thuận:Pháp luật công nhận sự thỏa
thuận tự nguyện của người thi hành án và người phải thi hành án về việc chấp hành quyết
định của Tòa án, nếu sự thỏa thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
-Thi hành án dân sự là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo hiệu
lực thực tế của các bản án, quyết định của Tòa án, được sử dụng các biện pháp cưỡng chế
theo quy định của pháp luật.
-Hoạt động thi hành án dân sự phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp
luật quy định.
-Trong quá trình thi hành án dân sự chấp hành viên, cán bộ thi hành án độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật.
c.Ý nghĩa

11


Khi bàn về vai trò, ý nghĩa của hoạt động thi hành án dân sự (THADS), nguyên Thủ
tướng Chính phủ Phan Văn Khải cho rằng: “Thi hành án dân sự là cơng việc có nhiều
khó khăn, phức tạp nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế, bảo vệ
qùn và lợi ích hợp pháp của cơng dân, duy trì kỷ cương phép nước. Việc thi hành án
tác đợng trực tiếp đến các lợi ích vật chất và tinh thần của người phải thi hành án và
người được thi hành án, đến danh dự, uy tín của người này và gia đình họ”[1].
Có thể khái quát ý nghĩa của hoạt động THADS qua mấy điểm sau:
Một là, đảm bảo hiệu lực thi hành của bản án, quyết định về mặt thực tế
Để đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho các đương sự cũng như đảm bảo hiệu lực thi
hành của bản án, quyết định, cơ quan thi hành án phải áp dụng các biện pháp thi hành án

để tổ chức thi hành các phán quyết này. Việc áp dụng các biện pháp THADS của cơ quan
thi hành án là để đảm bảo: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành” theo đúng quy định tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013.
Với tính chất đặc thù của THADS là hoạt động liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân
khác nhau trong xã hội và thường liên quan đến quyền sở hữu tài sản của công dân, vì
vậy, THADS dễ dẫn đến xâm phạm quyền con người, quyền công dân, do đó cần phải có
cơ chế giám sát, kiểm tra đối với hoạt động THADS. Theo quy định của pháp luật Việt
Nam, hiện nay có rất nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện việc kiểm tra, giám sát,
như: Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, Ban chỉ đạo thi hành án..., bên
cạnh đó là quyền kiểm sát của Viện kiểm sát, điều này đảm bảo cho hoạt động thi hành
án được thực hiện có hiệu quả, đúng pháp luật, song cần có quy định phù hợp hơn, hạn
chế sự can thiệp không có căn cứ pháp luật vào hoạt động thi hành án của chấp hành
viên.
Hai là, thi hành án dân sự là công cụ quan trọng để bảo vệ quyền lợi của người
được thi hành án được xác định trong bản án, quyết định
Pháp luật THADS quy định và bảo vệ quyền được tự nguyện, quyền được thỏa
thuận trong thi hành án cho các đương sự, bởi thực chất của việc THADS là việc tổ chức
và thực thi các phán quyết có nguồn gốc về pháp luật nội dung là luật tư[3]. Trong mọi
giai đoạn của quá trình thi hành án, đương sự đều có quyền thỏa thuận, định đoạt các vấn
đề liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong bản án, quyết định. Đây là một
quyền quan trọng của đương sự trong THADS. “Vấn đề dân sự, thương sự cốt ở hai bên,
đó là nguyên tắc xuyên suốt, chỉ yêu cầu Nhà nước can thiệp khi họ không thể tự giải
quyết. Việc tự giải quyết không chỉ làm giảm gánh nặng của cơ quan thi hành án, mà còn
làm tăng tình đoàn kết giữa hai bên. Nhất là truyền thống của Việt Nam khuyến khích
hòa giải ở bất kỳ giai đoạn nào. Do đó, theo chúng tôi nghĩ cần giữ nguyên tắc để các bên
thi hành án tự nguyện thi hành, khi bên phải thi hành cố tình không thực hiện, bên được
thi hành án có yêu cầu thì cơ quan thi hành án mới vào cuộc”[4].
Không giống như nhiều nước trên thế giới quy định Tòa án là cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định thi hành án, ở Việt Nam, thẩm quyền này được giao cho cơ quan


12


THADS. Mặc dù thẩm quyền ra quyết định và tổ chức thi hành án khác nhau, tuy nhiên,
điểm chung trong pháp luật các nước, đó là đảm bảo kiểm soát việc sử dụng biện pháp
chế tài trong THADS - chỉ Nhà nước mới có quyền thực hiện cưỡng chế thi hành án. Nhà
nước giao cho cơ quan THADS, chấp hành viên thực hiện. Mọi cá nhân, tổ chức khác
không được phép sử dụng quyền lực để buộc người khác thực hiện nghĩa vụ của họ nếu
pháp luật không cho phép.
Khi bàn về cưỡng chế thi hành án, Giáo sư Claude Brenner, trường Đại học
Panthéon - Assas cho rằng: “Trong một nhà nước pháp quyền, cơ quan quyền lực nhà
nước là cơ quan duy nhất có thẩm quyền thực hiện cưỡng chế thi hành án. Do đó, cưỡng
chế thi hành án chỉ liên quan đến các cơ quan quyền lực nhà nước. Khi tiến hành cưỡng
chế thi hành, cơ quan quyền lực nhà nước cần có sự hỗ trợ của quyền lực công. Các cá
nhân không thể thao túng hoạt động này, cũng như không thể làm sai lệch việc tổ chức
thực hiện cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật. Bởi đây là hoạt động dựa trên
cơ sở quyền lực”[5].
Ba là, góp phần nâng cao chất lượng của bản án, quyết định
Thông qua kết quả thi hành án, công tác xét xử được củng cố, bản án, quyết định
được đảm bảo thi hành trong thực tế, đồng thời thông qua việc áp dụng các biện pháp thi
hành án, nếu có sai sót trong bản án, quyết định được thi hành, cơ quan thi hành án sẽ có
những kiến nghị thích hợp, giúp cho cơ quan ra bản án, quyết định có thể rút ra được
những bài học kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng của
bản án, quyết định.
Bốn là, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân
Việc tự nguyện thi hành án, đặc biệt là những trường hợp đương sự thỏa thuận được
với nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định, sẽ tác động tích cực đến
quyền lợi của các bên đương sự: Bên được thi hành án sớm khôi phục lại quyền lợi của
mình; bên phải thi hành án có thể giảm được một phần nghĩa vụ theo bản án, quyết định,

giảm được các thiệt hại so với trường hợp cơ quan thi hành án tổ chức thi hành, như giảm
các chi phí cưỡng chế thi hành án, lãi suất chậm thi hành án. Với những ý nghĩa như vậy,
sẽ thúc đẩy các đương sự ý thức tự nguyện trong việc thi hành án, cũng như thái độ, ý
thức khi thỏa thuận với nhau trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong bản án, quyết
định, đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân.
Ngoài ra, Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên
thực tế nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân và nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị-xã hội, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.Thông qua thi hành án, các tổ chức, cá
nhân có hành vi vi phạm pháp luật phải chấm dứt các hành vi đó.
Thi hành án còn có ý nghĩa giúp cho việc phát hiện những khiếm khuyết của các
quy định của pháp luật trên cơ sở đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp
luật. Qua thi hành án dân sự có thể kiểm tra lại quá trình xét xử trước đó để rút kinh
nghiệm, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử.

13


Thi hành án có tác dụng quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho người dân, nâng cao vai trò, trách nhiệm của
các cơ quan, tổ chức, tạo niềm tin của nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật và
sức mạnh của nhà nước ngày càng được củng cố vững chắc.
Ngoài ra, Luật này còn quy định thi hành án một số trường hợp cụ thể như: thi hành
án tịch thu sung công quỹ Nhà nước; tiêu hủy tài sản; hoàn trả tiền, tài sản kê biên, tạm
giữ trong bản án, quyết định hình sự, hay áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; thi hành
giám định thẩm, tái thẩm; quyết định về phá sản…
Vấn đề THADS còn được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành và các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác như các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ,
các quyết định củ Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc tăng cường và nâng cao hiệu quả công
tác THADS: Nghị định của Chính phủ về Cơ quan quản lý Thi hành án dân sự, Cơ quan

Thi hành án dân sự và cán bộ, trình công chức làm công tác Thi hành án dân sự, các Nghị
định quy định về trình tự, thủ tục về phí, chi phí, về thống kê báo cáo công tác Thi hành
án dân sự…..
Như vậy thi hành án dân sự là vấn đề được quy định trong rất nhiều các văn bản quy
phạm pháp luật ở nước ta. Điều đó một lần nữa chứng tỏ rằng hoạt động THADS có ý
nghĩa quan trọng không chỉ đảm bảo cho pháp luật được thực hiện đúng trên thực tế, mà
thông qua đó còn có tác dụng giáo duc, phòng ngừa, răn đe những việc làm vi phạm pháp
luật, đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Bộ
máy Nhà nước ta, bảo đảm pháp chế Xã hội Chủ nghĩa.
1.1.2. Cơ sở lý luận về công tác Thi hành án dân sự
a. Tổ chức của bộ máy cơ quan thi hành án
Vấn đề tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự hiện nay được quy định một
cách đầy đủ, toàn diện và cụ thể trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao đó là Luật thi
hành án dân sự (điều 13). Ngoài ra còn quy định chi tiết trong một số các văn bản khác
như nghị định, thông tư, quyết định.
Tầm quan trọng của công tác Thi hành án dân sự: Cơng tác thi hành án nói chung và
công tác Thi hành án dân sự (THADS) nói riêng đều có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với mọi phương diện của đời sớng. Nó làm cho các bản án, quyết định của Tòa án trở
thành hiện thực. Thông qua hoạt động thi hành án quyền và lợi ích của Nhà nước, của
các tổ chức kinh tế, tổ chức XH và của công dân được bảo vệ; pháp chế được tăng cường,
tạo được niềm tin vững chắc trong quần chúng nhân dân, đảm bảo trật tự xã hội. Tuy
nhiên, nhìn mợt cách khái quát, cơng tác thi hành án tương đới phức tạp và khó khăn. Để
có thể đưa Bản án, Quyết định của Toà án vào thực tế mợt cách có hiệu quả đòi hỏi phải
có mợt q trình tở chức thi hành án hợp lí, khoa học. Vì vậy việc nghiên cứu về vấn đề
“Thực tiễn việc tổ chức thi hành án dân sự tại địa phương” là cần thiết vì qua việc
nghiên cứu sẽ đưa ra được những đánh giá, nhận xét và kiến nghị góp phần nâng cao chất
lượng cơng tác thi hành án dân sự và phát huy vai trị của nó.

14



Phương pháp thu thập thơng tin: Trong q trình nghiên cứu chuyên đề Em đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích , tởng hợp, lơgic pháp lí và lịch sử, so sánh
luật…. nhằm làm rõ những nhận định được đưa ra trong chuyên đề.
Nguồn tư liệu thu thập: Để có được những thông tin phục vụ cho mục đích nghiên
cứu của chuyên đề Em đã tiến hành thu thập từ nhiều nguồn thông tinh khác nhau:
- Trước hết, là việc nghiên cứu tài liệu thi hành án của cơ quan, nghiên cứu các văn
bản khác có liên quan đến hoạt động thi hành án, nghiên cứu hồ sơ thi hành án trong
những năm gần đây;
- Tham khảo ý kiến của các Chấp hành viên, Cán bộ làm công tác thi hành án trong
và ngoài cơ quan;
- Tham gia vào các buổi đi làm việc tại cơ sở nhằm đôn đốc giáo dục các đương sự
tự nguyện thi hành án, tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của đương sự để đưa ra
hướng giải quyết cho công tác thi hành án;
- Thu thập thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng như Đài phát thanh,
truyền hình, sách báo pháp luật, các chuyên đề về thi hành án dân sự…
b. Những vấn đề cơ bản về thủ tục thi hành án
Được quy định khá đầy đủ, chặt chẽ từ Điều 26 đến Điều 65 Luật thi hành án dân sự
năm 2008, Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục hành chính dân sự và một số
văn bản khác như : Hướng dẫn quyền yêu cầu thi hành án dân sự thời hiệu yêu cầu thi
hành án; thủ tục gửi và nhận đơn yêu cầu thi hành án dân sự ,ra quyết định, thu hồi, bổ
sung, hủy quyết định về thi hành án, gửi quyết định và thông báo về thi hành án; hoãn thi
hành án và xác nhận kết quả thi hành án; ủy thác thi hành án, miễn giảm nghĩa vụ thi
hành án và đảm bảo tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án…
c. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
Thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định về dân sự của
Tòa án đã có hiệu pháp luật hoặc chưa có hiệu pháp luật nhưng được thi hành ngay trên
thực tế. Để giải quyết việc thi hành án thì Chấp hành viên có thể lựa chọn một hoặc nhiều
biện pháp cưỡng chế để thi hành. Tại Điều 71 Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định

về biện pháp cưỡng chế để thi hành án thì theo Luật thi hành án dân sự năm 2008.
Các biện pháp thi hành án bao gồm 6 loại sau:Khấu trừ tiền trong tài khoản ; thu
hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người thi hành án, kể cả tài sản do người thứ ba giữ .
Khai thác tài sản của người thi hành án, buộc chuyển giao vật , chuyển giao quyền tài
sản, giấy tờ. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc
nhất định.
Để giải quyết một việc thi hành án nhất định, Chấp hành viên có thể áp dụng một
hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế cùng một lúc trong số các biện pháp cưỡng chế đã được
quy định ở trên. Đối với từng loại nghĩa vụ và từng đối tượng cưỡng chế khác nhau.
Việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế nào hoặc những biện pháp cưỡng chế nào trong số
các biện pháp đã kể trên để thực hiện cần tuân thủ theo nguyên tắc tương ứng đã được

15


quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định số 58/2009/NĐ – CP quy định:“Việc áp dụng biện
pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi
hành án và các chi phí cần thiết …“.
Có thể hiểu nguyên tắc này là Chấp hành viên cần lựa chọn áp dụng biện pháp
cưỡng chế đới với tài sản nào có giá trị ước tính tương xứng với nghĩa vụ thi hành án của
người phải thi hành án và các chi phí phát sinh tạm tính liên quan đến việc cưỡng chế.
Ngoài ra còn có Trình tự, thủ tục thi hành án dân sự như sau:
Các bước thực hiện quá trình thi hành án dân sự được quy định tại Chương III Luật
Thi hành án dân sự 2008.
Bước 1: Hướng dẫn quyền yêu cầu thi hành án dân sự
Khi ra bản án, quyết định, Toà án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài
thương mại phải giải thích cho đương sự, đồng thời ghi rõ trong bản án, quyết định về
quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Bước 2: Cấp bản án, quyết định cho đương sự
Toà án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại đã ra bản án, quyết

định được quy định tại Điều 2 của Luật này phải cấp cho đương sự bản án, quyết định có
ghi “Để thi hành".
Bước 3: Chuyển giao bản án, quyết định
Tùy từng loại bản án, quyết định mà Toà án đã ra bản án, quyết định phải chuyển
giao cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi ra quyết định hoặc trong
thời hạn 15 - 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Bước 4: Yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án
Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người
được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Các nội dung chính trong đơn yêu cầu thi hành án
được quy định tại Điều 31 Luật Thi hành án dân sự 2008.
Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì
thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn. Đối với bản án, quyết định thi hành
theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến
hạn.
Bước 5: Ra quyết định thi hành án
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định, Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời do Toà án chuyển giao hoặc do đương sự giao trực tiếp, Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi
hành.
d. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án
Luật thi hành án dân sự quy định cụ thể về khiếu nại , tố cáo và giải quyết khiếu nại,
tố cáo về thi hành án dân sự từ điều 140 đến điều 159, đặc biệt là vấn đề thời hiệu, thời

16


hạn, thẩm quyền giải quyết, quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo, người bị khiếu

nại, tố cáo của cơ quan có thẩm quyền …
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật; xử lý nghiêm minh
người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo
đảm cho quyết định giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về quyết định của mình.
Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo kết luận về nội dung tố cáo, xác định trách
nhiệm của người có hành vi vi phạm, áp dụng biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý đối với người vi phạm.
Cách thức thực hiện: trực tiếp gửi đơn, tố cáo với với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền hoặc qua hệ thống bưu chính.
Thành phần hồ sơ:
- Đơn tố cáo hoặc bản ghi lời tố cáo;
- Các tài liệu, chứng cứ liên quan (nếu có).
Số lượng hồ sơ: 01 bộ
Thời hạn giải quyết: Không quá 90 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết.
Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Cá nhân
Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính: Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền
Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Kết luận về việc giải qút đơn tớ cáo
Lệ phí (nếu có): Khơng
u cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có):
- Người tớ cáo phải gửi đơn đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Trong
đơn tố cáo phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo; nội dung tố cáo. Trong trường hợp
người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người có trách nhiệm tiếp nhận phải ghi lại nội dung
tố cáo, họ, tên, địa chỉ của người tố cáo, có chữ ký của người tố cáo.
- Không xem xét, giải quyết những tố cáo giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ,
không có chữ ký trực tiếp mà sao chụp chữ ký hoặc những tố cáo đã được cấp có thẩm
quyền giải quyết nay tố cáo lại nhưng không có bằng chứng mới.
1.2. Một số nét khái quát về thi hành án dân sự ở việt nam

Trước cách mạng tháng 8/1945 hoạt động thi hành án hình thành cùng với hoạt
động xét xử. Dưới chế độ phong kiến hoạt động thi hành án dân sự chủ yếu do tổ chức
thừa phát lại thực hiện. Giai đoạn 1945 đến 1949: Trước cách mạng tháng Tám, ở nước
ta đã tồn tại chế định Thừa phát lại. Căn cứ Luật tố tụng dân sự ban hành theo Nghị định
ngày 16/3/1910 của Tồn qùn Đơng Dương. Thừa phát lại là công lại do Bộ trưởng Bộ
Tư pháp bổ nhiệm và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của pháp luật, được hưởng
thù lao của khách hàng theo biểu giá quy định và khơng có qùn từ chối thi hành nhiệm
vụ khi được yêu cầu. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, Thừa phát lại chịu sự chỉ đạo
trực tiếp của những cơng chức có trách nhiệm của Tòa án như: Chưởng lý, biện lý, thẩm

17


phán, lục sự... Tổ chức Thừa phát lại chủ yếu tờn tại, hoạt đợng ở các thành phớ lớn, cịn
ở các vùng nơng thơn việc thi hành án do chính quyền cơ sở đảm nhiệm.
Thừa phát lại có các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, tại phiên toà: Thừa phát lại có nhiệm vụ thơng báo Tồ khai mạc và bế
mạc, gọi các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự phiên toà;
Thứ hai, ngoài Toà án: Thừa phát lại tớng đạt giấy tờ theo u cầu của Tịa án, thi
hành án văn có hiệu lực pháp luật, triệu tập đương sự, lập các vi bằng theo quy định của
pháp luật. Điều này cho thấy, một trong những nhiệm vụ chính của Thừa phát lại là thi
hành án dân sự. Chế định thừa phát lại đã hình thành, tờn tại ở Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945 cho đến năm 1950 và sau đó còn tiếp tục tờn tại dưới chế đợ
nguỵ qùn Sài gịn cho đến ngày miền Nam hồn tồn giải phóng (1975).
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cợng hịa ra đời,
hệ thớng cơ quan Tư pháp mới được thiết lập trong cả nước. Trên cơ sở Sắc lệnh ngày
10/10/1945 của Chủ tịch Hờ Chí Minh về việc cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở
Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những Bộ ḷt chung thớng nhất cho tồn
q́c, nếu những đạo ḷt ấy “không trái với các nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt
Nam và chính thể dân chủ cợng hoà”. Chế định thừa phát lại tiếp tục được duy trì. Tại

Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp, phịng giám đớc Hợ vụ được
thành lập, trong đó có Ban cơng lại thực hiện nhiệm vụ quản lý tổ chức Thừa phát lại.
Cũng theo tinh thần Sắc lệnh ngày 10/10/1945, những quy định về thủ tục thi hành án
dân sự tiếp tục được áp dụng, đáp ứng yêu cầu của hoạt động tư pháp trong những năm
đầu của chính qùn cách mạng. Tuy nhiên, tở chức Thừa phát lại - hình thức tở chức và
hoạt đợng thi hành án dân sự đầu tiên của chế độ mới, khơng cịn mang ý nghĩa là cơng
cụ của chính qùn thực dân phong kiến như trước đây, mà trở thành công cụ đắc
lực trong việc thi hành các bản án, qút định có hiệu lực của Tịa án nhân dân.
Sắc lệnh sớ 13, ngày 20/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân
chủ cợng hịa về tở chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán đã đặt cơ sở pháp lý đầu
tiên cho tổ chức thi hành án dân sự Việt Nam. Sắc lệnh quy định Ban Tư pháp xã có
quyền “thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên” bao gồm các bản án, quyết
định của Tịa án. Tại điều 3 của Sắc lệnh sớ 130 ngày 19/7/1946 của Chủ tịch Chính phủ
Việt Nam dân chủ cợng hịa đã quy định: “Trong các xã, thị xã hoặc khu phớ, Chủ tịch,
Phó Chủ tịch và thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của
các Tòa án. Bản án ấy sẽ tuỳ từng việc, chỉ định một nhân viên để giao cho việc thi hành
lệnh, mệnh lệnh hoặc án”ở những nơi nào đã có Thừa phát lại riêng, thì đương sự có
quyền nhờ thừa phát lại riêng thi hành mệnh lệnh”.
Như vậy, tổ chức thi hành án dân sự đã được hình thành ngay trong những năm đầu
sau cách mạng tháng Tám thành cơng và tờn tại dưới hai hình thức là: Thừa phát lại và
Ban Tư pháp xã.
Tuy tồn tại hai lực lượng thi hành án, nhưng việc thi hành án dù do Thừa phát lại
hay Ban Tư pháp xã tiến hành đều thể hiện quyền lực Nhà nước và được bảo đảm bằng

18


sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Tại Điều thứ nhất của Sắc lệnh 130 quy định: “Các
bản toàn sao hoặc trích sao bản án hoặc mệnh lệnh do các phòng lục sự phát cho các
người đương sự để thi hành các án, hoặc mệnh lệnh của các Tòa án hợ đều phải có thể

thức thi hành, ấn định như sau: “Vậy, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cợng hịa
trùn cho các thừa phát lại theo u cầu của đương sự thi hành bản án này, các ông
chưởng lý và biện lý kiểm sát việc thi hành án, cai thị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi
đương sự chiếu luật yêu cầu”...
Về trình tự thi hành án, Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp về việc thi hành án Hình và Hợ đã quy định cụ thể những nguyên tắc chấp hành, thể
thức chấp hành, cách thức thi hành các bản án và quyết định của Tòa án. Cụ thể là:
Về nguyên tắc chấp hành: theo dân sự, thương sự tố tụng, người đương sự được
kiện, ḿn chấp hành bản án của mình phải xin ở phịng lục sự mợt bản trích lục hoặc
toàn sao bản án ấy. Nhưng việc chấp hành vẫn chịu quyền giám thị của chưởng lý và biện
lý. Bản thân lục sự của Tịa án phải tự đợng gửi bản sao bản án cho người đương sự biết
và thi hành.
Về thể thức thi hành: trong các bản trích lục hoặc bản sao được phòng lục sự cấp
cho đương sự, bên dưới phải được lục sự ký: "thừa lệnh Tòa án". Bên chữ ký của lục sự
phải có chữ ký của thẩm phán công tố viên "duyệt". Đó là những bản sao có thể thức
chấp hành. Bản sao này chỉ được cấp có mợt lần. Nhưng trong trường hợp đặc biệt, ví dụ:
đánh mất bản sao có thể thức chấp hành, ơng Chánh án có thể ra mệnh lệnh cho phép
phịng lục sự cấp mợt bản tồn sao khác có thể thức chấp hành. Vị chưởng lý và biện lý
có nhiệm vụ kiểm soát những thể thức chấp hành này.
Về cách thức thi hành: pháp luật đặt ra những công lại riêng để thi hành các án hộ
và thương mại, được gọi là các thừa phát lại. Tuy nhiên, thừa phát lại trước năm 1945 là
lý trưởng, thì nay trong tổ chức tư pháp mới là tư pháp xã. Chức năng này của ban tư
pháp xã đã được quy định chính thức trong Sắc lệnh sớ 13, ngày 24/01/1946 về tở chức
Tịa án và các ngạch Thẩm phán. Khi cần thiết, các vị chỉ huy binh lực sẽ can thiệp vào
việc thi hành án.
Tuy nhiên, việc dân sự khơng có một cách thức thi hành duy nhất. Tuỳ theo bản
chất, mỡi loại án hợ có mợt cách thức thi hành riêng. Các thẩm phán phải thấu triệt những
thủ tục chấp hành và phải theo dõi cơng việc xem có đạt được kết quả không. Nếu cần,
thẩm phán nên thân hành đến chứng kiến việc làm của các cơ quan thừa hành. Mỡi khi có
trở lực trong việc chấp hành, ơng biện lý có bởn phận can thiệp để tỏ rõ nhiệm vụ làm

cho pháp luật được tôn trọng.
Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 đã xác định trách nhiệm thi hành án của Thừa
phát lại, Ban Tư pháp xã và nhấn mạnh vai trò của Uỷ ban xã, thị xã, khu phớ và các cơ
quan có liên quan trong việc hỡ trợ thi hành án. Rõ ràng Nhà nước không chỉ tôn trọng
quyền tự định đoạt của các đương sự trong giao lưu dân sự, thương sự và tố tụng mà còn
đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình
bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.

19


Có thể nói rằng, ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng, dù phải
đương đầu với biết bao khó khăn trong cơng c̣c xây dựng và bảo vệ chính qùn non
trẻ trước sự tấn cơng của thù trong, giặc ngồi, Nhà nước ta vẫn khơng ngừng quan tâm
xây dựng, kiện tồn tở chức thi hành án dân sự. Bên cạnh đó đã từng bước hình thành
pháp luật thi hành án dân sự, xác định cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự nhằm thể hiện bản chất của nền Tư pháp nhân dân, cơng cụ bảo vệ qùn và lợi
ích hợp pháp của nhân dân. Tuy còn ở những bước đi ban đầu nhưng tổ chức, hoạt động
thi hành án dân sự đã có những đóng góp quan trọng vào việc hình thành và phát triển
của nền Tư pháp mới thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước dân chủ nhân dân. Tuy
vậy, ở giai đoạn này, tổ chức và hoạt đợng thi hành án dân sự vẫn cịn rất sơ khai, pháp
luật thi hành án dân sự chưa đầy đủ và còn nhiều hạn chế, cần phải được tiếp tục củng cớ,
hồn thiện trong giai đoạn tiếp theo.
1.2.1.Thời kỳ từ cách mạng tháng Tám 1945 đến 1993
Giai đoạn 1945-1950 Chế định thừa phát lại được duy trì, Ban công lại thực hiện
nhiệm vụ quản lý tổ chức Thừa phát lại. Sắc lệnh số 13 ngày 20/11/1946 của Chủ tịch
Chính phurlaam thời Việt Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và các ngạch
thẩm phán đã đạt cơ sở pháp lý đầu tiên cho tổ chức thi hành án dân sự Việt Nam, việc
thi hành án do Ban Tư pháp xã thực hiện.
Giai đoạn từ năm 1950-1980: Việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban Tư

pháp xã thực hiện trước đây được thay thế bằng thẩm phán huyện dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Chánh án. Tòa án chủ động thi hành án dân sự mà không chờ yêu cầu của người
được thi hành án .
Từ ngày 13/10/1972 Chánh án Tòa án nhân dân tố cao ra Quyết định số 186/TC về
tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên, Tên gọi “Chấp hành viên” ra đời.
Giai đoạn 1981-1990: Theo Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981 thì Bộ Tư
pháp quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, bao gồm cả việc quản lý công
tác thi hành án dân sự
Ngày 28/8/1989, Pháp lệnh thi hành án dân sự lần đầu tiên được ban hành, đặt cơ sở
pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Trên
cơ sở đó, quy chế Chấp hành viên cũng được ban hành kèm theo Nghị định số 68/HĐBT
ngày 6/3/1990.
- Giai đoạn 1990-1993: tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX ngày 6/10/1992 đã
thông qua Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án Tòa án nhân dân các cấp sang
các cơ quan của Chính phủ “chậm nhất vào tháng 6/1993.” Pháp lệnh thi hành án dân sự
năm 1993, thay thế Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 đưa công tác thi hành án dân
sự sang một giai đoạn phát triển mới, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ đổi
mới.
1.2.2. Thời kỳ 1993-2004 và hiện nay
a. Thời kỳ từ năm 1993 đến trước khi có Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
2004

20


Điểm khác biệt căn bản nhất của Pháp lệnh THADS năm 1993 so với Pháp lệnh
THADS năm 1989 chính là ở các quy định về tổ chức, cơ chế THA mới. Theo Pháp lệnh
THADS năm 1989, TA có nhiệm vụ THADS, cịn theo Pháp lệnh THADS năm 1993 thì
nhiệm vụ THADS được chuyển cho một cơ quan Nhà nước mới thành lập và đi vào hoạt
động từ ngày 01/7/1993, đó là hệ thống các CQTHADS. Việc ra các quyết định về THA

trước đây thuộc thẩm quyền của Chánh án TA, thì nay tḥc thẩm qùn của Thủ trưởng
CQTHA. Có thể nói, Pháp lệnh THADS ngày 21/4/1993 đã tạo ra bước ngoặt về tổ chức
và hoạt động của công tác THADS ở nước ta, đưa công tác này sang một giai đoạn phát
triển mới, đáp ứng yếu cầu của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Bắt đầu từ ngày
01/7/1993, tổ chức và hoạt đợng THADS chính thức tiến hành theo cơ chế mới. Các
CQQLNN về công tác THADS, các CQTHADS được hình thành từ Trung ương đến các
địa phương trong cả nước. So với trước đây, công tác THADS đã được đổi mới căn bản
từ tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động.
Về CQQLNN về công tác THADS: Theo quy định của Pháp lệnh THADS năm
1993, việc THADS được Nhà nước giao cho CQTHADS tḥc Chính phủ đảm nhiệm.
Trong việc tổ chức THADS, CQTHA và CHV hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật,
chịu trách nhiệm trước pháp luật, không một cơ quan, cá nhân nào được can thiệp vào
quá trình thực thi nhiệm vụ THA. Tuy nhiên, trong q trình tở chức và hoạt đợng,
CQTHA, CHV khơng thể thốt ly sự quản lý của Chính phủ, cơ quan được giao chức
năng thống nhất quản lý Nhà nước về công tác THADS trong phạm vi cả nước.
Theo quy định tại Điều 10, Điều 11 của Pháp lệnh THADS năm 1993, các cơ quan
giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về công tác THADS bao gồm: Bộ Tư pháp;UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phớ tḥc tỉnh; Bợ
trưởng Bợ Q́c phịng phới hợp với Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý về công tác thi hành
quyết định về tài sản trong các bản án hình sự của TA quân sự.
Trong phạm vi trách nhiệm của mình, Bợ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, giúp
Chính phủ quản lý Nhà nước về cơng tác THADS và tở chức việc THADS, có những
nhiệm vụ,qùn hạn sau đây: Giúp Chính phủ chuẩn bị các dự án luật, dự án pháp lệnh và
các dự án khác về công tác THADS; Chỉ đạo và kiểm tra thực hiện công tác THADS,
trực tiếp quản lý hệ thống CQTHADS; quyết định việc thành lập, giải thể các
CQTHADS; Thực hiện thanh tra Nhà nước về công tác THADS; Quản lý công tác đào
tạo cán bộ và thực hiện chế độ, chính sách đới với CHV và cán bợ làm cơng tác THADS.
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh thực hiện quản lý Nhà nước về công tác THADS ở địa phương theo quy định của
Chính phủ.

Căn cứ nghị định sớ 30/CP ngày 02/6/1993 của Chính phủ, hệ thớng cơ quan quản
lý THADS đã nhanh chóng được hình thành ở cả ba cấp, bao gờm: Cục quản lý THADS
tḥc Bợ Tư pháp; Phịng quản lý THA tḥc Bợ Q́c phịng; Sở Tư pháp tỉnh, thành
phớ trực tḥc Trung ương; Phịng Tư pháp q̣n, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

21


×