Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

LÀM SAO PHÂN BIỆT BỆNH CHỨNG ÂM DƯƠNG BẰNG MÁY ĐO ÁP HUYẾT VÀ CÁCH CHỮA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.73 KB, 9 trang )

Trong tất cả các bệnh đều phải biết phân biệt bệnh thuộc âm hay
dương mới quyết định được cách chữa đúng.
Theo biểu tượng vịng trịn lưỡng nghi, thì một bệnh có thể do âm
dương trong ngồi mất qn bình theo 8 loại căn bản như :
1-Dư dương, âm đủ : Phải tả dương như trường hợp biểu thực
2-Thiếu dương, âm đủ : Phải bồ âm như trường hợp biểu hư
3-Dư âm, dương đủ : Phải tả âm như trường hợp lý thực
4-Thiếu âm, dương đủ : Phải bổ âm như trường hợp lý hư
5-Dư dương, dư âm : Phải tả âm, tả dương như trường hợp biểu
thực lý thực
6-Thiếu dương, thiếu âm : Phải bổ âm, dương như trường hợp
biểu và lý hư
7-Âm dư, dương thiếu : Phải bổ dương, giữ âm như trường hợp lý
hàn
8-Dương dư, âm thiếu : Phải bổ âm, tiềm dương như trường hợp
lý nhiệt
Không kể những trường hợp bệnh nặng của âm dương như : Chân
âm bất túc, chân dương bất túc, vong âm, vong dương. Các trường
hợp khác của âm dương đều nằm trong 8 biểu tượng vịng trịn
lưỡng nghi căn bản, trong đó phản ảnh được biểu-lý, hư-thực, hànnhiệt.
LÀM SAO PHÂN BIỆT BỆNH CHỨNG ÂM DƯƠNG BẰNG
MÁY ĐO ÁP HUYẾT VÀ CÁCH CHỮA.
Theo KCYĐ
Thí dụ lấy tiêu chuẩn tuổi trung niên làm mẫu :
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi
trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
KCYĐ đặt ra quy ước thực-hư về khí và huyết.
Về khí lực từ 120 đến 130, chênh lệch nhau 10 chia làm 2 phần,
mỗi phần là 5mmHg



Về huyết lực từ 70-80 số chênh lệch cũng chia 5 phần, mỗi phần là
2mmHg
Về thực chứng của khí lực là dương dư thừa :
Khi nói tới dư dương thì lấy số tốí đa cộng thêm mỗi số 5mmHg
là tăng 10% như :
130 + 5mmHg = 135mmHg là 60%
130 + 10mmHg = 140mmHg là 70%
130 + 15mmHg = 145mmHg là 80%
130 + 20mmHg = 150mmHg là 90%
130 + 25mmHg = 155mmHg là 100%
Về thực chứng của huyết là âm dư thừa :
Khi nịi dư âm thì lấy số tối đa cộng thêm 2mmHg là tăng 10%
như
80 + 2mmHg = 82mmHg là 60%
80 + 4mmHg = 84mmHg là 70%
80 + 6mmHg = 86mmHg là 80%
80 + 8mmHg = 88mmHg là 90%
80 + 10mmHg = 90mmHg là 100%
Về hư chứng của khí lực dưong thiếu :
Khi nói tới thiếu dương, thì lấy số tối thiểu trừ đi mỗi số 5mmHg
là thiếu 10% như ;
120 – 5mmHg = 115mmHg là dương thiếu còn 40%
120 – 10mmHg = 110mmHg là dương thiếu còn 30%
120 – 15mmHg = 105mmHg là dương thiếu còn 20%
120 – 20mmHg = 100mmHg làdương thiếu cịn 10%
Áp huyết khí lực dưới 100mmHg là khó chữa.
Về hư chứng của huyết là âm thiếu :
Khi nói tới thiếu âm thì lấy số tối thiểu trừ đi mỗi 2mmHg là thiếu



10% như :
70 – 2mmHg = 68mmHg là âm thiếu còn 40%
70 – 4mmHg = 66mmHg là âm thiếu còn 30%
70 – 6mmHg = 64mmHg là âm thiếu còn 20%
70 – 8mmHg = 62mmHg là âm thiếu còn 10%
Áp huyết tâm trương huyết lực thấp dưới 62mmHg là khó chữa.
Thực hành khám bệnh âm dương bằng cách khám âm-dương
nhiệt độ của bàn tay và máy đo áp huyết :
Mu bàn tay là dương, lịng bàn tay là âm.
Người khỏe bình thường, m hè nóng thì bàn tay mát, mùa lạnh
thìbàn tay ấm.
Nếu có sự chệnh lệch hàn-nhiệt thì cơ thể có bệnh, gọi là mất qn
bình âm-dương.
a-Thí dụ 60% dương, 40% âm, nếu đo áp huyết, dương 60% là
135mmHg , âm 40% là 68mmHg , áp huyết sẽ là 135/68mmHg,
nhưng hòa hợp lại vẫn còn đủ 100% cả 2 phần, trường hợp này
dùng châm cứu hay huyệt điều chỉnh lại âm-dương sẽ có kết qủa.
b-Nếu vừa mất qn bình âm-dương, vừa mất hịa hợp do tà khí
lục dâm (thời tiết xâm nhập), hay do ăn uống sai lầm phá hỏng
âm-dương, thay vì 60% dương, 40% âm, thành ra 80% dương
40% âm, hay khi đo áp huyết có kết qủa (80% dương là
145mmHg, 40% âm là 68mmHg) đo áp huyết nếy có kết qủa là
145/68mmHg có nghĩa dương bên trong đã thịnh 60% lại thêm lục
dâm hay thức ăn làm dương tăng thêm đến 80% làm thân nhiệt
nóng khơng ra mồ hơi, khát muốn uống nuớc là tại sao? Vì âm có
40% là thiếu, sinh ra nội nhiệt, sự khí hóa tự động để bảo vệ cơ thể
là phải giữ không cho âm mất thêm, nên vệ khí của cơ thể tự động
không cho xuất mồ hôi, mà phải cần nước ở ngoài bổ sung thêm
mới bảo tồn được âm.
Với lý thuyết này, khi chúng ta nghe một bệnh nhân nói người tơi

nóng mà khơng bao giờ ra mồ hơi, có nghĩa người ấy có bệnh


dương thừa, âm thiếu, cách chữa cần uống nước bổ sung, hay
thiếu máu, nếu đo bằng máy đo áp huyết, thì bệnh này sẽ có số đo
áp huyết khí lực thừa, huyết lực thiếu như : 145/68mmHg.
c-Ngược lại âm 80% (86mmHg), dương 30% ( 110mmHg), kết
qủa nếu đo áp huyết thấy 110/86mmHg, cũng là âm dương vừa
mất quân bình vừa mất hịa hợp vì dư thừa, là dương hư thiếu, sẽ
tự thốt mồ hơi để bớt âm, nên khơng khát, khơng thích uống
nước làm âm dư thừa. Nếu có người nói, người tơi hay ra mồ hơi,
mà khơng thích uống nước, chúng ta biết ngay là bệnh âm thừa,
dương thiếu, nếu đo bằng máy đo áp huyết sẽ có kết qủa như
110/86mmHg., trường hợp này châm cứu dùng huyệt, tả dư, điều
chỉnh cho âm dương hịa hợp thì dễ.
d-Nếu âm 60% (82mmHg), dương 20% (105mmHg), khi đo áp
huyết có kết qủa 105/82mmHg), cơ thể mất qn bình hồ hợp vì
thiếu, có nghĩa là cơ thể thay vì 60% dương và 40% âm, tuy mất
qn bình, nhưng vẫn hịa hợp đủ 100% thì dễ chữa bằng huyệt
châm cứu có kết qủa, nhưng lại bị lục dâm như gió lạnh xâm nhập,
mặc áo khơng đủ ấm, hay ăn uống thức ăn có tính hàn, hay giận
dữ bực tức nói nhiều làm mất khí, mất nhiệt, sẽ đi đến vong dương
là mất dương, kiểm tra bằng áp huyết có dương thấp cịn dưới
10% hay dưới 100mmHg là sắp vong dương khi mất dương dần
thì dưới 90/82mmHg, rồi xuống dần 80/82mmHg, xuống
70/82mmHg dương mất dần gọi là vong dương, thì bệnh này
khơng thể chữa khỏi bằng huyệt hay châm cứu, mà phải tập khí
cơng tăng khí, điều chỉnh ăn uống thuốc đơng y tăng dương bớt
âm để tái lập qn bình hịa hợp 50% âm+50% dương thành 100%
thì mới khỏi bệnh.

e-Nếu âm 20% (64mmHg), dương 60% (135mmHg),khi áp huyết
đo được 135/64mmHg, trong trường hợp đang bị bệnh âm 40%
dương 60%, khi theo dõi mạch hay áp huyết từ 135 (dư dương
10%, so với tiêu chuẩn tuổi), âm 68 (thiếu 10% so với tiêu chuẩn
tuổi), đo áp huyết sẽ là 135/68mmHg đối với tây y là tốt, vì khơng
biết tình trạng khí huyết âm dương như đơng y là áp huyết đang có
bệnh. Khi âm xuống cịn 20% thì áp huyết từ 135/68mmHg sẽ mất


thêm âm còn 135/64mmHg, tự nhiên mất thêm âm dễ dàng như
mất nước, tiêu chảy, bệnh viện lấy thêm máu để thử nghiệm, mệt
xuất mồ hôi, lại không uống thêm nước hay dùng thuốc bổ thêm
máu, khiến 6m mất dần, sẽ đến tìng trạng vong âm, là trường hợp
gây ra ung thư và cách chữa của tây y lấy máu nhíu mà khơng cho
bổ thêm máu sợ tế bào ung thư phát triển là vong âm như
135/50mmHg, mất máu mà chết chứ khơng phải do ung thư mà
chết.
Tóm lại mất âm phải bổ sung thêm âm là nước, là đường, là máu,
ăn uống bổ máu, châm cứu hay dùng huyệt chì làm quân bình âm
dương trong cơ thể như 60% âm +40 dương, châm cứu bấm huyệt,
trên nguyên tắc là thầy giỏi biết điều chỉnh thì kết qủa tốt sẽ qn
bình 50-50% âm dương, hay mất qn bình hịa hởp dư thừa như
40% âm 80% dương, dùng huyệt cắt tả bới dương 20%, còn 60 %
dương diều chỉnh 10% sang bù cho âm 10% để qn bình hồ
hợp, nhưng ai biết làm diều này, nếu không nhờ máy đo áp huyết
để đưa kết qủa về tiêu chuẩn tuổi, thì chỉ là chữa mị.
Cịn mất qn bình âm dương thiếu, thì chân cứu, khí cơng khơng
chữa đúng gốc bệnh là thiếu thì bổ sung âm bằng thức ăn chứ
khơng phải bằng huyệt làm tăng máu được, như xe thiếu x8ang
không thể châm cứu giống như chỉnh vặn nút này nút kia hay khí

cơng là đẩy cho xe chạy được.
Nếu mất qn bình thiếu hịa hợp, tại sao nói chân cứu hau huyệt
hay khí cơng khơng chữa đúng gốc bệnh được, thí dụ 30% âm.
50% dương, châm cứu hay bấm huyệt giỏi thì chỉ giúp qn bình
thành 40-40%, vì thiếu khơng làm thành 100% được, cho nên dư
thì dễ chữa, thiếu thì cần phải bù từ bên ngoài vào. Muốn biết
thiếu thừa hay quân bình đúng cũng cần phải đo áp huyết theo dõi
cả 3 số đúng tiêu chuẩn.
Khí cơng và châm cứu bấm huyệt có thể cắt bớt khí, bớt huyết,
nhưng khơng thể thêm huyết, thuốc bắc có thể thêm âm, thên
dương, nhưng dương là khí dễ bị mất khi bệnh nhân khơng biết
cách duy trì khí để bảo quản âm huyết, do đó mà những bệnh nan
y chữa khơng khỏi, vì thiếu âm như chất bổ máu, thiếu nước, thiếu


đường, nên hiện nay sở dĩ có nhiều bệnh ung thư do thiếu âm là
máu và đường, thiếu máu và đường được thấy rõ nhờ máy đo áp
huyết, theo thống kê thì số tâm trương là máu, nước, mỡ lẫn lộn
trong máu, nên tâm trương cao không hay thấy là thiếu âm do
máu, tuy nhiên thiếu âm do đường thì khi thử máy đo đường ai
cũng thấy thiếu so với tiêu chuẩn âm theo đơng y phải phù hợp vói
nhịp tim, khơng Sác, khơng Trì mà Hỗn từ 70-80, hiện nay trên
thế giới đều khuyên bớt ăn đường làm thiếu âm là nguyên nhân
gây ra bệnh ung thư, và hiện nay nên y học hiện đại tiên đoán đến
năm 2060 trên thế giới sẽ có 40% dân số thế giới mắc bệnh ung
thư, thay vì y học tiến bộ, thì bệnh viện ít cần đến, nhưng ngược
lại y học càng tiến bộ thì bệnh viện càng xây lớn và xây nhiều
bệnh viện để nhận được nhiều bệnh nhân hơn, sơ thiếu khơng đủ
chỗ cho người bệnh, đó là một nghịch lý.
Để phịng bệnh, cần biêt tình trạng bệnh qua kết qủa máy đo áp

huyết, và để biết đông y hay tây chữa đúng hay sai, khỏi hay chưa
khỏi, nặng hay nhẹ, cả hai loại thầy thuốc khi muốn chữa bệnh là
viết cách điều chỉnh tình trạng khí huyết cho bệnh nhân đúng hay
sai, hay chính bệnh nhân phải nhờ vào máy đo áp huyết so với tiêu
chuẩn tuổi sẽ biết được kết qủa trong thời gian điều trị đúng hay
sai, hay tự biết khi nào cần bổ sung khi nào phải cắt bỏ dư thừa do
ăn uống hay do thuốc, do đó cách chữa tự nhiên nhất là khơng
được lạm dụng dùng thuốc suốt đời khi kết qủa máy đo áp huyết
là máy đo tình trạng âm-dương khí huyết đã được quân bình
trong tiêu chuẩn tuổi.
Nhờ máy đo áp huyết mới kết hợp được kiến thức đông tây y, lý
thuyết bệnh của đông y lúc nào cũng cho rằng mất quân bình âm
dương khi thiếu khi dư mà gọi là hư thực, tây y thắc mắc lấy gì
chứng minh, nay môn Y Học Bổ Sung lấy máy đo áp huyết chứng
minh bằng con số cụ thể như trên, như vậy từ nay với con mắt
nhìn kết qủa máy đo áp huyết, thầy đơng y biết thế nào là khí
huyết bị bệnh, nhưng ngược lại, tây y dùng máy đo áp huyết lại
không thấy bệnh chi tiết rõ ràng như đông y, mà cứ cho rằng áp
huyết từ 100-140, trong giới hạn này đều tốt mà không thấy số nào


bệnh, số nào không bệnh rõ ràng là một thiếu sót sai lầm.
Một thí dụ mẫu để tìm bệnh âm-dương mất qn bình hịa hợp :
Nam, 28 tuổi, cách đây hai năm cháu bắt đầu bị bệnh, từ đau
đầu mờ mắt, dạ dày đại tràng rồi đau cổ vai gáy, rồi huyết áp
thấp, nhịp tim chậm. Và hiện tại bây giờ cháu rất yếu, hụt hơi
khó thở, thỉnh thoảng nhói tim, mắt mờ lắm và rất khó tập
trung nhìn vào vật cụ thể. Tay không lạnh nhưng từ bụng đến
chân rất lạnh, sợ gió sợ lạnh, bụng cồn cào khó chiu,các khớp
không được êm ái, đi tiểu nước tiểu vàng. Huyết áp cháu đo

được như sau ạ:
-trước ăn:+tay trái: 97/49/59 + tay phải:113/53/57
sau ăn: + tay trái: 105/49/58 + tay phải:107/55/58
So với áp huyết tiêu chuẩn tuổi :
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi
thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)
Cách tính nhanh về khí lực :
Cứ thấp 1 lần 5mmHg thì dương cịn 40%
2 lần 5mmHg thì dương cịn 30%
3 lần 5mmHg thì dương cịn 20%….
Khí lực lấy số tối thiểu 110 trừ 97 tay trái = 13 (hơn 2 lần
5mmHg) thì dương cịn khoảng 25% trước khi ăn,
Sau khi ăn tay trái 120 trừ 105 = 15 (là 3 lần 5mmHg) thì dương
cịn khoảng 20%. Như thế là thức ăn đã làm ất dương.
Tay phải trước khi ăn áp huyết phải cao 120 trừ 113 = 7 (hơn 2 lần
5mmHg) dương còn khoảng 25%
Sau khi ăn, áp huyết bên gan xuống 110 trừ 107 = 3mmHg dương
còn khoảng 45%
Cách tính nhanh về huyết lực :
Cứ thấp 1 lần 2mmHg thì âm cịn 40%


2 lần 2mmHg thì âm cịn 30%
3 lần 2mmHg thì âm còn 20%….
Lấy tiêu chuẩn thấp 65 trừ 49 tay trái = 16mmHg là gấp 8 lần, thì
thức ăn khơng có bổ âm huyết 0%
65-54= 11mmHg gấp 5,5 lần thì làm ất máu trong cơ thể thêm gọi
là tình trạng vong âm
Nhịp tim tiêu chuẩn trung bình 68 so với nhịp tim hiện tại sau khi
ăn 58 là thiếu 10 là thiếu đường, mạch Trì đi chậm và người lạnh

Kết luận : Tính theo % chuyển hóa thì dương cịn 20% , âm cịn
0% là thức ăn khơng có tạo máu
Tính theo % hấp thụ bên gan, đây là bệnh dương còn 45%, âm 0%
Đây là dấu hiệu ung thư.
Muốn cứu bệnh này, thì uống thêm đường là tăng âm, đường pha
với nước, nước cũng là âm làm tăng lượng máu tuần hoàn, nhưng
tạm thời làm giảm tỷ lệ hồng cầu vì máu lỗng. Tuy nhiên nhờ
đường làm chức năng chuyển hóa thức ăn và tăng tính hấp thụ
thức ăn thành máu với điều kiện phải uống thuốc bổ máu, ăn thức
ăn bổ máu, kiêng ăn chất phá máu, chất hàn lạnh làm giảm nồng
độ đường không đủ nhiệt chuyển hóa thức ăn, và giúp tăng nồng
độ máu tuần hồn.
Sau khi ăn cần thử đường, thiếu dưới 8.0mmol/l phải uống thêm
đường rồi tập bài khí cơng chuyển hóa thức ăn : Kéo Ép Gối Thổi
Hơi Ra Làm Mền Bụng 300 lần, đang tập thấy mệt không tập nổi
do thiếu đường là thiếu âm nhiều, cần thử lại đường, và uống cho
đường tăng lên trên 8.0mmol/l rồi tập tiếp cho đủ số 300 lần.
Sau đó tập bài làm tăng áp huyết : Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực
200 lần và bài Nằm Đá Gót chân vào mơng 300 lần làm tăng thân
nhiệt, tăng áp huyết chuyển hóa đường giúp bao tử chuyển hóa
thức ăn thành chất bổ, giúp gan hấp thụ chất bổ thức ăn thành
máu.
Sau khi tập, đo lại áp huyết và đường bên gan :


115/60mmHg 65 kết qủa là dương không thiếu, nằm trong tiêu
chuẩn, âm còn thiếu 5mmHg khoảng 25% là do còn thiếu đường,
vì nhịp tim ở mức tối thiểu thì đường tương đương 6.0mmol/l,
phải uống thêm đường để tồn âm (là giữ âm khơng bị mất)
Do đó, cách phịng ngừa ung thư là cơ thể cần máu và cần đường

chuyển hóa thức ăn để tập khí cơng, nếu uống đường mà khơng
tập khí cơng thì thức ăn khơng được chuyển hóa thành máu nên
âm vẫn thiếu, mà đường bị giữ trong mỡ bụng, muốn tan mỡ bụng
và tăng đường chuyển hóa thì khơng cần uống thêm đường, chỉ
cần tập khí cơng cho xuất mồ hơi thì đường xuất ra theo máu tn
hồn, đo lại đường trong máu sẽ tăng.
Tập khí cơng phịng bệnh, chữa bệnh có ưu điển tăng dương, nhờ
đường giúp thức ăn chuyển hóa máu và bảo vệ âm không bị mất,
KCYĐ chỉ không chữa được những bệnh kiêng ăn bổ máu, bổ
đường và lười tập thì đành bó tay.
Châm cứu bấm huyệt, dùng thuốc dù có hay giỏi đến đâu củng
khơng thể điều chỉnh qn bình lại âm dương cho bệnh nhân này
được, chỉ tiền mất tật mang, nếu bệnh nhân không tự học hỏi biết
cách tự điều chỉnh qn bình âm dương để cho Tinh-Khí-Thần hịa
hợp.
Thân
doducngoc



×