Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Mở rộng Tín dụng đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn Kiếm.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.84 KB, 71 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển kinh tế, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở
nước ta ngày càng được mở rộng về quy mô và số luợng. Từ khi Luật Doanh
nghiệp ra đời, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQ) đã phát triển rất
nhanh, nhất là các đô thị, các thành phố lớn. Trên địa bàn thành phố Hà Nội
nếu như năm 2001 mới có 2.818 doanh nghiệp, thì đến tháng 5 năm 2005 đã
có 25.479 doanh nghiệp. Như vậy sau hơn 3 năm đã có hơn 22 ngàn DNNQD
ra đời. Bình quân mỗi năm có trên 7.000 doanh nghiệp được thành lập.
DNNQD phát triển đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội
của đất nước và đang trở thành lực lượng kinh tế quan trọng. Tuy nhiên, hiện
nay phần lớn các DNNQD vẫn còn gặp một số khó khăn trong hoạt động nhất
là việc thực hiện các cơ chế, chính sách tài chính,… việc tạo điều kiện vay
vốn và mở rộng các quan tín dụng đối với các DNNQD là rất cần thiết giúp
các DN này có thể phát triển góp phần làm tăng trưởng kinh tế nước nhà.
Vì vậy em chọn đề tài nghiên cứu về “Mở rộng Tín dụng đối với các
Doanh nghiệp ngồi quốc doanh Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt
Nam Chi nhánh Hoàn Kiếm”.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: hoạt động tín dụng tại Ngân hàng
thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt
Nam chi nhánh Hoàn Kiếm.
Mục tiêu: đưa ra các giải pháp để mở rộng tín dụng đối với các
DNNQD.
Kết cấu chuyên đề gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tín dụng đối với các DNNQD của
NHTM
Chương 2:Thực trạng hoạt động TD đối với các DNNQD tại Ngân
hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm.
Chương 3: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các DNNQD tại Ngân


hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm.

1


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG
ĐỐI VỚI CÁC DNNQD CỦA NHTM
1.1 Hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1. Tổng quan về NHTM
• Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM

Theo Hiệp định Basel II, “Ngân hàng” được định nghĩa như sau: “Ngân
hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh tốn- và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ghi: “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền
này dể cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh tốn”.
Vậy sự hình thành của ngân hàng như thế nào và cùng với thời gian
ngân hàng được phát triển dưới những hình thức nào? Các nhà khoa học đều
đồng ý rằng hoạt động ngân hàng gần như đã xuất hiện cùng lúc với sự hình
thành đời sống kinh tế và xã hội của lồi người. Thơng qua nghiên cứu cũng
như các bằng chứng lịch sử cho thấy hoạt động ngân hàng đã ra đời từ khoảng
3000 đến 4000 năm trước cơng ngun. Mỗi giai đoạn ngân hàng lại có
những sự thay đổi trong nhận thức cũng như hoạt động. Ngân hàng đã đi từ
bước hình thành cực kỳ thơ sơ và chính nhu cầu phát triển của xã hội và nền

kinh tế là nhân tố chính thúc đẩy ngân hàng ngày một phát triển, nâng cao cả
về số lượng lẫn chất lượng các hoạt động, dịch vụ để trở thành một thành
phần cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế.
Giai đoạn sơ khai của ngành ngân hàng ra đời khi các thiết chế tổ chức
xã hội bắt đầu được hình thành. Hoạt động của các ngân hàng sơ khai gồm
có: đổi tiền, bảo quản và giữ hộ tiền của các thợ vàng và những người giầu có
cho vay nặng lãi. Hoạt động của chúng mang tính chất gần giống như các
2


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

tiệm cầm đồ ngày nay. Các hoạt động này xuất phát từ việc hầu như mỗi quốc
gia đều có đồng tiền riêng. Quá trình giao lưu, bn bán giữa các vùng, các
lãnh thổ với nhau đã tạo ra thu nhập cho những người làm nghề đổi tiền, đúc
tiền. Thu nhập đó có được từ chênh lệch giá mua và giá bán giữa các loại tiền.
Hoạt động cất giữ hộ, cho vay nặng lãi và thanh toán hộ cũng được những
người đổi tiền thực hiện. Việc có thể sử dụng tạm thời một phần số tiền của
khách để cho vay đã làm xuất hiện việc thu hút tiền gửi bằng cách trả lãi cho
người gửi tiền.
Trong vòng từ thế kỷ thứ V cho đến thế kỷ X nhiều hoạt động mới
được áp dụng đã đem lại bước phát triển mới cho ngân hàng so với giai đoạn
sơ khai trước kia: chiết khấu thương phiếu, ghi chép và theo dõi khách hàng
qua số hiệu tài khoản…
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, từ chỗ là ngân hàng
của các thợ vàng, người cho vay ngân hàng sơ khai đã trở thành ngân hàng
thương mại với chức năng chủ yếu là cho vay ngắn hạn rồi tiếp đó mở rộng
cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản, cho vay tiêu
dùng, kinh doanh chứng khoán, cho thuê…Các hình thức huy động ngày càng
phong phú và đa dạng. Ngân hàng đã giúp các luồng tiền di chuyển một cách

có hiệu quả đồng thời bằng danh mục các sản phẩm, dịch vụ của mình Ngân
hàng cũng ngày một đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của cả người cần tiền lẫn
người có tiền, thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, việc kinh
doanh dịch vụ tiền tệ khơng cịn là độc quyền của các ngân hàng. Các công ty
bảo hiểm, hiệp hội tiết kiệm cho vay, các tổ chức tín dụng tiêu dùng, các quỹ
tín dụng, các hợp tác xã tín dụng cũng tham gia vào các loại hình dịch vụ như
nhận gửi tiền, cho vay thu lãi. Tuy nhiên, trong bất cứ nền kinh tế nào trên thế
giới thì ngân hàng thương mại vẫn là tổ chức lớn nhất, quan trọng nhất trong
lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.


Chức năng của Ngân hàng:

- Chức năng trung gian tài chính, với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết
3


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

kiệm thành đầu tư, Ngân hàng thương mại đóng vai trị là “cầu nối” giữa
người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động
các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng thương
mại hình thành nên quỹ cho vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với
chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trị là người đi vay vừa
đóng vai trị là người cho vay.
Với chức năng trung gian tài chính, ngân hàng thương mại đã góp
phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền, ngân hàng và
người đi vay, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn
rỗi của mình dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa,

ngân hàng cịn đảm bảo cho họ sự an tồn về khoản tiền gửi và cung cấp các
dịch vụ thanh toán tiện lợi.
Đối với người đi vay, họ sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh
doanh, chi tiêu, thanh toán mà khơng phải chi phí nhiều về sức lực, thời
gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
Đối với ngân hàng thương mại, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho
bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc
hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của
ngân hàng thương mại.
Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trị quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá
trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất.
Với chức năng này, ngân hàng thương mại đã biến vốn nhàn rỗi khơng hoạt
động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh phát triển.
Chức năng trung gian tài chính được xem là chức năng quan trọng
nhất của ngân hàng thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng
thương mại là đi vay để cho vay, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của
4


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

ngân hàng. Đồng thời nó cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng khác.
- Chức năng trung gian thanh toán: Ngân hàng thương mại làm trung
gian thanh tốn khi nó thực hiện thanh tốn theo u cầu của khách hàng
như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch
vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và
các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai
trị là người “thủ quỹ” cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là

người giữ tài khoản của họ. Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng
trung gian thanh toán trên cơ sở thực hiện chức năng trung gian tín dụng.
Bởi vì thơng qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài
khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu, chi. Đó chính là tiền đề để
khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí
làm trung gian thanh tốn. Hơn nữa, việc thanh tốn trực tiếp bằng tiền mặt
giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế như rủi ro do phải vận chuyển
tiền, chi phí thanh tốn lớn, đặc biệt là với các khách hàng ở cách xa nhau,
điều này đã tạo nên nhu cầu khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân
hàng.Việc các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh
tốn có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này,
các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện
thanh toán thuận lợi như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ
thanh tốn, thẻ tín dụng... Tuỳ theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho
mình phương thức thanh tốn phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh
tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người
phải thanh tốn dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào
đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy, các chủ thể kinh tế sẽ tiết
kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo được thanh tốn an tồn.
Như vậy, chức năng này thúc đẩy lưu thơng hàng hố, đẩy nhanh tốc độ
thanh tốn, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Đồngthời, việc thanh tốn khơng dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm
5


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

được lượng tiền mặt trong lưu thơng, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thơng tiền
mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản tiền...
Đối với ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm

lợi nhuận cho ngân hàng thơng qua việc thu lệ phí thanh tốn. Thêm nữa, nó
lại làm tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong
tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở hình
thành chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.
- Chức năng tạo phương tiện thanh tốn, hay cịn gọi là chức năng “tạo
tiền”. Khi có sự phân hố trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân
hàng phát hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian khơng
cịn thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng nữa. Nhưng với
chức năng trung gian tài chính và trung gian thanh tốn, ngân hàng thương
mại có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản
tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Khi khách
hàng tại một Ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên
khoản thu, tức làm tăng số dư tiền gửi của một khách hàng khác tại một
Ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi khơng một
Ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ
thống Ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh
tốn) gấp bội thơng qua hoạt động cho vay(tạo tín dụng).
1.1.2. Hoạt động tín dụng của NHTM
Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh “Creditium” có nghĩa là tin tưởng, tín
nhiệm và trong tiếng Anh gọi là “Credit”. Cũng có thể hiểu nơm na “tín dụng”
có nghĩa là sự vay mượn. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử
dụng một lượng giá trị, dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu
sang người sử dụng, sau đó hồn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn. Trong
mỗi một hành vi tín dụng hai bên cam kết với nhau: Một bên giao một số tài

6


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


hoá hay tiền bạc, cịn bên kia cam kết sẽ hồn lại những đối khoản của số tài
hố đó trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định nào đó.
Nhà kinh tế người Pháp, ơng Louis Baundin, đã định nghĩa tín dụng
như là “một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai”. Ở đây,
chúng ta thấy yếu tố thời gian đã xen lẫn vào và cũng vì có sự xen lẫn đó, cho
nên có thể có sự bất trắc, rủi ro xảy ra và cần có sự tín nhiệm của hai bên
đương sự đối với nhau. Hai bên đương sự dựa vào sự tín nhiệm, sử dụng sự
tín nhiệm của nhau nên mới có danh từ tín dụng.
Những hành vi tín dụng có thể được thực hiện do bất cứ ai, chẳng hạn
hai người thường có thể cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian chúng ta
thấy một sự chuyên nghiệp đã xảy ra và ngày nay khi nói tới tín dụng người ta
thường nghĩ ngay tới các ngân hàng, vì các tổ chức này luôn làm những việc
như cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, ký thác…Mặt khác, trong một nền kinh tế
đã phát triển với thu nhập của những người làm công ăn lương gần tương
đương nhau và một hệ thống ngân hàng thế giới hiện đại thì mọi người chỉ có
vay mượn ngân hàng, hầu như khơng vay mượn lẫn nhau.
Hoạt động tín dụng có tầm quan trọng bậc nhất trong ngân hàng đặc
biệt là ở các nước đang phát triển và có nền kinh tế thị trường như ở nước ta.
Đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tổng
tài sản có, thu nhập do tín dụng đem lại chiếm khoảng 1/2 đến 2/3 tổng thu
nhập cho ngân hàng.
Ngân hàng thương mại có thể coi như một doanh nghiệp kinh doanh
tiền tệ với hoạt động chủ yếu là việc đi vay để cho vay. Hoạt động này của
ngân hàng thực chất là đi mua quyền sử dụng vốn để bán lại quyền sử dụng
vốn đó. Khác với các quan hệ mua bán thơng thường, quan hệ tín dụng ngân
hàng chỉ trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ không trao đổi quyền
sở hữu khoản vay. Người cho vay giao giá trị khoản vay dưới hình thức hàng
hố hay tiền tệ cho người vay sử dụng trong một thời hạn nhất định, sau khi
khai thác giá trị khoản vay trong thời hạn cam kết, người vay phải hoàn trả
7



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

toàn bộ giá trị khoản vay và thêm khoản lợi tức trả cho việc được sử dụng
khoản vay.
Trong quan hệ tín dụng, giá trị vốn tín dụng được chuyển từ người cho
vay sang người đi vay còn trong quan hệ mua bán hàng hố giá trị hàng hố
thay đổi hình thái vật chất nghĩa là hàng hoá vẫn giữ nguyên giá trị chỉ thay
đổi hình thái tồn tại. Trong việc cho vay, tiền với tư cách là một vật có đặc
điểm là quay trở lại điểm xuất phát với nguyên vẹn giá trị của nó đồng thời
cũng lớn lên trong q trình ln chuyển.
Nói tóm lại, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sỏ
hoàn trả và có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình
thức là cho vay( bằng tiền) và cho thuê( bất động sản và động sản ). Trong
những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho
vay bằng tiền. Xuất phát từ đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho
vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ
cho thuê tài chính và cho thuê vận hành đã được các ngân hàng hoặc các định
chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh
của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực( nhà ở, văn phịng
làm việc, máy móc- thiết bị)
- Xuất phát từ ngun tắc hồn trả, vì vậy nguời cho vay khi chuyển
giao tài sản cho người đi vay phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả
đúng hạn. Đây là một yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong
thực tế , một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay khơng dựa trên cơ
sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo
đảm, chính quan điểm này đã ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
- Giá trị hồn trả thơng thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Để

thực hiện được nguyên tắc này, phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ
lạm phát. Tuy nhiên vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau

8


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm
phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được trên cơ sở cam kết
hoàn trả vơ điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ
tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước…thực chất là lệnh phiếu trong đó
bên đi vay cam kết hồn trả vơ điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh
toán.
Các ngân hàng thương mại hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín
dụng từ cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn .. đến bảo lãnh, cho thuê tài chính,
phục vụ cho nhiều đối tượng khách hàng. Có thể phân loại tín dụng theo
nhiều tiêu thức khác nhau như sau:
1.1.2.1 Phân chia theo thời hạn cho vay:
• Cho vay ngắn hạn: Là việc cho vay với thời hạn dưới một năm
nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà
nước, doanh nghiệp, cá nhân ,hộ gia đình.
• Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng
trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các
dự án mới có quy mơ nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp,
chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy
bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều…

Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn cịn là nguồn
hình thành vốn lưu động thường xun của các doanh nghiệp, đặc biệt là
những doanh nghiệp mới thành lập.
• Cho vay dài hạn: Thời hạn vay trên 5 năm và tối đa có thể lên đến
20-30 năm, một số trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40 năm.

9


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu
cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mơ lớn,
xây dựng các xí nghiệp mới.
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn
hạn, nhưng từ những năm 1970 trở lại đây, các ngân hàng thương mại đã chuyển
sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao
tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng.
1.1.2.2. Phân chia theo đảm bảo
• Cho vay có bảo đảm:
Cho vay bảo đảm biểu hiện việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp
cụ thể nào đó, ví dụ như: xe cộ, nhà cửa, đất đai hoặc hàng hoá…Vật thế chấp
những khoản nợ rất đa dạng song một yêu cầu cơ bản là phải có thể bán được.
Lý do chủ yếu đòi hỏi một khoản vay phải được đảm bảo là nhằm tạo điều
kiện để người cho vay giảm bớt rủi ro mất mát trong trường hợp người vay
không muốn hoặc không thể trả nợ vay khi đến hạn. Bảo đảm khơng có nghĩa
là món nợ sẽ được hồn trả vì cịn nhiều chi phí , công đoạn liên quan đến
việc xử lý tài sản đảm bảo. Việc bảo đảm chủ yếu để giảm bớt rủi ro cho ngân
hàng. Trong trường hợp giá trị thanh lý của tài sản vượt quá giá trị khoản vay
thì khoản chênh lệch sẽ được hoàn trả cho người vay nhưng nếu khơng đủ giá

trị khoản vay thì ngân hàng có thể trơng đợi vào sự phán quyết của Tồ án
hay tịch biên thêm tài sản của khách hàng.
Sự bảo đảm là yêu cầu phải có đối với các khoản cho vay vì một số
ngun nhân. Thơng thường đó là do sự yếu kém về tài chính của người vay
và khi đó thì ngân hàng cần có tài sản cầm cố, thế chấp để đảm bảo an toàn
cho hoạt động của ngân hàng. Việc thời hạn cho vay kéo dài đồng nghĩa với
rủi ro tăng thì việc đảm bảo gần như bắt buộc. Tỷ lệ cho vay tối đa được tính
trên giá trị tài sản đảm bảo và tỷ lệ đó cao hay thấp tuỳ vào từng quy định của
các ngân hàng, pháp luật, tư cách pháp nhân khách hàng…
• Cho vay khơng có bảo đảm
10


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Khác với cho vay có bảo đảm, cho vay khơng có bảo đảm được dựa
trên uy tín, khả năng tài chính lành mạnh của khách hàng, lợi tức có thể có
trong tương lai cùng tình hình trả nợ trước đây. Với những doanh nghiệp, cá
nhân mà nguồn thu nhập ổn định, là khách hàng lớn của ngân hàng, hoạt động
hiệu quả có thể ngân hàng sẽ cho vay những khoản vay lớn mà thiếu giá trị tài
sản đảm bảo thậm chí khơng có tài sản đảm bảo. Ở Việt Nam, trong những
năm 90 các ngân hàng chỉ được phép cho vay có bảo đảm trừ các doanh nghiệp
nhà nước kinh doanh có hiệu quả và cho vay hộ nông dân từ 5 triệu đồng trở
xuống. Ngày 29/12/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/1999/NĐCP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; theo nghị định này việc cho
vay khơng có bảo đảm được mở rộng hơn so với trước cho phép các tổ chức tín
dụng được lựa chọn khách hàng để cho vay khơng có đảm bảo khi cho vay
ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc
phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Tuy nhiên, khách hàng
vay không đảm bảo phải hội đủ một số điều kiện cơ bản sau:
- Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay

và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi
- Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi
có khả năng hồn trả nợ hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi
phù hợp với quy định của pháp luật
- Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ
- Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của
tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín
dụng, cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo
đảm bằng tài sản
- Tổng mức cho vay không đảm bảo và điều kiện cho vay không đảm
bảo do Ngân hàng Nhà nước quy định.
1.1.2.3. Phân chia theo hình thức tài trợ

11


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Theo hình thức tài trợ tín dụng đựơc chia thành: chiết khấu thương
phiếu, cho vay, bảo lãnh, cho thuê.
 Chiết khấu thương phiếu: là việc NH ứng trước tiền cho khách

hàng tương ứng giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng
để sở hữu 1 thương phiếu chưa đến hạn. Đây là nghiệp vụ đơn giản nhất dựa
trên sự tín nhiệm giữa NH và những người ký tên trên thương phiếu.
 Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết

khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Hình
thức cho vay lại có thể phân chia thành:
• Cho vay doanh nghiệp: Đây các khoản tín dụng thương mại và công

nghiệp với thời hạn biến động từ một vài tháng đến vài năm. Hình thức tín
dụng có thể là vay món hoặc hạn mức. Doanh nghiệp có thể vay một lần tồn
bộ khối lượng tín dụng hoặc cũng có thể được cung cấp một hạn mức tín dụng
trong một khoản thời gian nhất định và sẽ được sử dụng trong phạm vi tín
dụng đó
• Cho vay tiêu dùng. Đây là hình thức tín dụng đang rất phát triển với
các sản phẩm, dịch vụ như cho vay ô tô trả góp, mua nhà trả góp, thấu chi. Sự
gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã
hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một thị trường đầy tiềm
năng. Mức lãi suất của các loại vay tiêu dùng khác nhau tuỳ thuộc vào đặc
điểm của khoản vay: chất lượng và hình thức thế chấp, mức độ rủi ro và các
yếu tố phi lãi suất kèm theo như các khoản phí hoặc hoa hồng. Phương thức
cho vay có thể cho vay trực tiếp hoặc thông qua tài trợ cho các doanh nghiệp
bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để các doanh nghiệp này bán hàng
trả góp. Cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao. Vì vậy ngân hàng thường yêu cầu
một mức lãi suất cao, yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm nhân thọ, hàng
hố…
• Cho vay Chính phủ:Chính phủ cũng là một trong những khách hàng
của các ngân hàng thương mại. Hình thức phổ biến là ngân hàng mua trái
12


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phiếu do kho bạc nhà nước phát hành.Nhà nước cũng vay ngân hàng để đầu
tư phát triển hạ tầng cơ sở vật chất..


Cho vay các tổ chức tài chính khác: Việc vay mượn tạm thời giữa


các tổ chức tài chính, tín dụng rất phổ biến và cũng tạo điều kiện cho việc lưu
chuyển vốn nhanh hơn. Ở các nước có trình độ phát triển cao, các ngân hàng
thương mại có mối liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành cả một hệ thống hoạt
động hiệu quả.
• Cho vay liên quan đến bất động sản:
Việc cho vay đầu tư bất động sản đã có thời gian đem lại lợi nhuận rất
lớn cho ngân hàng ở một số nước như Việt Nam, Thái Lan..Khi giá nhà, giá
đất rơi vào trạng thái đóng băng thì với các hoạt động tín dụng liên quan đến
bất động sản ngân hàng phải tăng cường sự giám sát, có sự điều chỉnh phù
hợp mức cho vay, định giá.. để giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng
Ngoài các dịch vụ căn bản trên, hoạt động tín dụng của ngân hàng cịn
có một số dịch vụ như:


Bảo lãnh

Đây là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực
hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ với bên thứ ba. Bảo lãnh phát triển nhờ uy tín của ngân hàng
ngày được nâng cao. Bảo lãnh thường được áp dụng trong lĩnh vực xây lắp.
Có nhiều loại bảo lãnh : bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo
lãnh bảo hành, bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh thanh toán….Hoạt động bảo
lãnh sẽ giúp ngân hàng thu được phí bảo lãnh. Tuỳ từng trường hợp cụ thể và
tuỷ vào chính sách khách hàng của mỗi ngân hàng sẽ quy định khách hàng có
phải có bảo đảm cho khoản bảo lãnh hay khơng, khách hàng có thể được bảo
lãnh mà khơng cần tài sản bảo đảm hoặc phải có tài sản bảo đảm theo quy
định hoặc có thể sẽ phải ký quỹ một tỷ lệ nhất định đối với giá trị của khoản
bảo lãnh, có thể là 10%, 80% hay 100% số tiền bảo lãnh.
 Cho thuê
13



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản đẻ cho khách hàng thuê
theo những thảo thuận nhất định.
Với các thiết bị, phương tiện có giá trị lớn, các doanh nghiệp khơng
muốn mua có thể sử dụng dịch vụ cho th thiết bị trung và dài hạn của ngân
hàng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngân hàng sẽ
mua thiết bị và cho khách hàng thuê kèm theo một số điều kiện. Kết thúc hợp
đồng thuê, doanh nghiệp có thể được ưu tiên mua lại phương tiện với giá ưu
đãi. Người ta cũng gọi hình thức này là thuê mua tài chính. Hiện nay ở Việt
Nam có rất nhiều các cơng ty tài chính mà chủ yếu là thuộc các Ngân hàng
thương mại quốc doanh.
1.1.2.4. Phân chia theo rủi ro
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ,
các căn cứ để chia loại rủi ro. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường
xuyên đánh giá lại các khoản mục tín dụng, dự trù quĩ cho các khoản tín dụng
rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín dụng.


Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi.



Tín dụng có vấn đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu khơng lành

mạnh như khách hàng có hàng hóa tiêu thụ chậm, tiến độ thực hiện kế hoạch
bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hỗn nộp báo cáo tài chính,
….



Nợ q hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá hạn với

thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có
giá trị lớn…


Nợ q hạn khó đòi: là nợ qúa hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém,

tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì….
Ngồi các cách phân chia trên thì tín dụng cịn đựơc phân chia theo
nhiều cách khác như theo ngành kinh tế, theo mục đích sử dụng…
1.2

Hoạt động tín dụng đối với DNNQD của NHTM
1.2.1 Khái quát về các DNNQD
14


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

1.2.1.1



Vai trò của các DNNQD
Đối với sự phát triển kinh tế

Trong xu thế hội nhập và phát triển kinh tế toàn cầu, DNNQD ngày

càng giữ vai trò hết sức quan trọng và trở thành một thành phần không thể
thiếu được đối với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế thị trường. Vai trị
của DNNQD được khẳng định qua các khía cạnh:
Nâng cao tính cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Thơng qua cạnh
tranh, các doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất vì giảm chi phí
sản xuất đồng nghĩa với giảm giá thành, đồng thời cũng thúc đẩy các doanh
nghiệp nhanh chóng đổi mới thiết bị, công nghệ. Cạnh tranh không những
giúp các doanh nghiệp đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu về tiêu dùng cho sản
xuất hay tiêu dùng cho cá nhân trong xã hội, mà thơng qua đó nó cịn giúp
đào thải và bình tuyển tự nhiên các doanh nghiệp, doanh nghiệp nào làm ăn
khơng có hiệu quả sẽ nhanh chóng bị loại ra khỏi thị trường, trên thị trường
chỉ tồn tại các doanh nghiệp có hiệu quả thực sự.
Góp phần làm tăng thu nhập quốc dân: Hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các DNNQD đã góp phần làm gia tăng hoạt động đầu tư trong nền kinh
tế, thơng qua đó làm tăng đáng kể thu nhập quốc dân trong nước.
Tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước: Nguồn thu chủ yếu của
Ngân sách Nhà nước là thuế. Thuế do các tổ chức, các cá nhân trong quốc gia
thực hiện nghĩa vụ của mình. Phần lớn thuế thu được là do đóng góp của các
tổ chức kinh tế trong đó có các DNNQD. Về mặt pháp luật các DNNQD cũng
như các doanh nghiệp nhà nước có nghĩa vụ như nhau trong việc nộp thuế.
Các loại thuế phổ biến mà các doanh nghiệp này thường phải đóng là thuế
VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập
khẩu.
Góp phần tạo việc làm, giảm thất nghiệp: Việc làm hay một tỷ lệ thất
nghiệp cao là một vấn đề xã hội nan giải với bất cứ quốc gia nào. Với dân số
trên 85 triệu người như nước ta hiện nay, hàng năm sẽ có trên 1,5 triệu người
15


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


bước vào độ tuổi lao động. Giải quyết một số lượng việc làm như vậy mỗi
năm là một vấn đề không hề đơn giản. Trong khi các doanh nghiệp nhà nước
chỉ có thể giúp một phần trong số lao động kia có việc làm thì các DNNQD
thực sự là một cứu cánh cho số còn lại. Sự xuất hiện và phát triển của các
DNNQD đã làm tăng thêm cơ hội có việc làm cho tất cả mọi người, đặc biệt
là lao động trong khu vực nông thôn cũng như lao động dư thừa từ các doanh
nghiệp nhà nước giải thể, cổ phần hóa. Đây là một thế mạnh rõ rệt của các
DNNQD, và cũng là nguyên nhân khiến chúng ta quan tâm đặc biệt đến đối
tượng này.
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện
đại hố: Thu hút một lực lượng lớn là lao động dư thừa ở nơng thơn, lại có thể
nhanh chóng thích nghi đón đầu cơng nghệ mới, chuyển đổi hướng sản xuất
nhanh chóng cho phù hợp với thị trường, do đó DNNQD đã và đang tạo ra
những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu kinh tế: từ một nền sản xuất
nhỏ, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp sang một nền kinh tế có cơ cấu tiên tiến,
hướng xuất khẩu, phù hợp với định hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Tóm lại, Đại hội Đảng VI với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần đã mở đường cho các DNNQD có điều kiện tồn tại,
hoạt động, và phát triển. Luật Doanh nghiệp mới ra đời gần đây đã tạo dựng
một hành lang pháp lý khá đầy đủ và hoàn thiện cho sự hoạt động của các
doanh nghiệp này. Cùng thực tế sau gần 20 năm đổi mới, các DNNQD đã thể
hiện rõ vị trí và vai trị ngày càng quan trọng của mình trong nền kinh tế,
đóng góp đáng kể vào sự phát triển,ổn định kinh tế đất nước.


Đối với hoạt động Ngân hàng

Khu vực kinh tế NQD hoạt động một cách sôi nổi và ngày càng phát
triển cả về quy mô và chất lượng đã tạo ra một nhu cầu lớn cho ngân hàng cả

về vốn và nhu cầu tín dụng, thanh tốn, dịch vụ ngân hàng. Điều này đã tạo
điều kiện cho hoạt động ngân hàng ngày càng trở lên sôi động hơn. Do vậy
mà việc mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc
16


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

doanh sẽ giúp ngân hàng ngày càng năng động và hoàn thiện hơn trong hoạt
động của mình và giữ vững vai trị, vị trí của mình trong nền kinh tế đặc biệt
trong giai đoạn đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng như
hiện nay.

17


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Trong tương lai khu vực kinh tế NQD sẽ chiếm một vị trí quan trọng
trong nền kinh tế vì vậy nó sẽ là một thị trường đầy triển vọng của ngành
ngân hàng, do vậy việc mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực này sẽ là
một chiến lược phát triển của ngân hàng.
1.2.1.2 Những ưu thế và khó khăn của DNNQD



DNNQD có những ưu thế nổi bật sau:

Mục tiêu của các DNNQD là lợi nhuận. Do các DNNQD có tính tư hữu
cao nên hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ln gắn liền với

quyền lợi, lợi ích cá nhân của người sản xuất cũng như chủ doanh nghiệp.
Chính vì vậy mà các DNNQD luôn luôn tập trung, tận dụng tối đa những gì
họ có để đạt được lợi nhuận cao nhất có thể.
Các DNNQD có số vốn đầu tư ban đầu ít, nhưng hiệu quả sử dụng vốn
cao, thường đầu tư vào các ngành nghề nhanh thu hồi vốn nên khả năng thu hồi
vốn nhanh. Cũng chính vì ưu thế quy mơ nhỏ mà các DNNQD có thể dễ dàng
thích ứng đối với sự thay đổi của thị trường, cơ chế chính sách của nhà nước.
Các DNNQD thường có bộ máy quản lý, tổ chức, kinh doanh gọn nhẹ.
Vì vậy mà các quyết định quản lý được thực hiện nhanh, công tác kiểm tra,
điều hành trực tiếp. Điều này góp phần đáng kể trong việc giảm chi phí quản
lý doanh nghiệp .
Các DNNQD có tính linh động cao, có khả năng chuyển hướng kinh
doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh và dễ dàng nhanh chóng tiếp thu
được những tiến bộ khoa học, kỹ thuật mới giúp họ có thể nhanh chóng “đi
tắt”, “đón đầu”.
DNNQD tận dụng triệt để được lợi thế về nguồn lao động dồi dào, cách
thức quản lý lao động chặt chẽ và quan hệ giữa người lao động và chủ doanh
nghiệp cũng được quản lý chặt chẽ theo địa phương, họ hàng, gia đình.
 Khó khăn
Tuy có nhiều ưu thế, song các DNNQD cũng khơng tránh khỏi các hạn
chế sau:
18


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Hạn chế về nguồn vốn là tình trạng rất phổ biến của các DNNQD khi
muốn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Mặt khác việc tìm nguồn tài trợ
của họ thường khó khăn hơn so với các doanh nghiệp nhà nước. Tiếp cận được
nguồn vốn ngân hàng đã khó, song để có được nguồn vốn đủ cho phương án

sản xuất kinh doanh thì nguồn vốn tự có nhỏ của họ đơi khi là rào cản bởi nó
khơng đáp ứng được các tỷ lệ an tồn theo u cầu từ phía ngân hàng.
Cơ sở sản xuất, trang thiết bị, cơng nghệ cịn yếu kém và lạc hậu chủ
yếu đầu tư vào các ngành nghề ít vốn, thu hồi vốn nhanh, khơng địi hỏi cơng
nghệ phức tạp. Do đó nhiều doanh nghiệp đã tận dụng những máy móc thiết
bị đã lạc hậu để tiếp tục sản xuất kinh doanh. Mặt khác do phạm vi hoạt động
hẹp, bản thân doanh nghiệp khơng đủ sức tích luỹ vốn đáp ứng yêu cầu sản
xuất kinh doanh cho nên họ chưa có đủ nguồn để tài trợ cho việc đổi mới máy
móc trang thiết bị.
Chất lượng lao động cịn thấp, trình độ tay nghề chưa cao, đặc biệt là
trình độ quản lý nói chung cịn hạn chế, ít được đào tạo cơ bản và chưa đáp
ứng được so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Cho nên trong thực tế,
một số doanh nghiệp khi hoạt động ở quy mơ nhỏ thì có hiệu quả, nhưng khi
mở rộng quy mơ sản xuất kinh doanh thì trình độ quản lý của chủ doanh
nghiệp không đáp ứng một cách tương xứng nên đã dẫn đến thua lỗ.
Khả năng cạnh tranh trên thị trường bị hạn chế, thường bị động trong
các quan hệ thị trường, khả năng tiếp thị kém, nguy cơ phá sản cao.
Hiện tượng các DNNQD hoạt động phi pháp như trốn thuế, lậu thuế,
lừa đảo v...v..còn phổ biến. Ngồi ra, đa số các DNNQD cịn chưa thực hiện
đầy đủ các quy định của pháp luật về an tồn lao động và đóng bảo hiểm xã
hội đối với người lao động của mình .Như vậy, DNNQD tuy có nhiều ưu thế,
song cũng bộc lộ khơng ít các hạn chế của mình. Các hạn chế trên mới chỉ là
những hạn chế của bản thân các doanh nghiệp. Mặt khác những doanh nghiệp
này đang phải hoạt động trong một môi trường kinh tế mà trong đó cịn có
nhiều cản trở như sự bất bình đẳng về chế độ chính sách giữa doanh nghiệp
19


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


quốc doanh và DNNQD, hay các cản trở gây khó khăn trong quá trình tìm
kiếm nguồn vốn tài trợ. Do đó mà DNNQD cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước
về nhiều mặt như cơ chế chính sách, thuế, cơng nghệ, và đặc biệt là vốn. Có
thể thấy với đặc điểm về quy mơ vốn, trình độ Ban lãnh đạo, thiết bị cơng
nghệ việc tự thu hút các nguồn vốn bên ngồi của các DNNQD là rất khó.
Việc tự thu hút vốn thông qua phát hành cổ phiếu hay trái phiếu doanh nghiệp
là vơ cùng khó khăn, vì cần phải đáp ứng các điều kiện gắt gao về quy mơ
vốn, trình độ quản lý của Ban lãnh đạo v..v. Do đó nguồn vốn chính mà các
DNNQD ln mong mỏi có được chính là nguồn vốn vay từ ngân hàng.
1.2.2

Hoạt động tín dụng đối với các DNNQD

1.2.2.1 Các hình thức tín dụng đối với các DNNQD
 Cho vay
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian
nhất định theo thoả thuận với ngun tắc hồn trả cả gốc và lãi.
Các hình thức cho vay: Cho vay thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho
vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp.


Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép

một số DN được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh tốn của mình đến
một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này này
được gọi là hạn mức thấu chi. Cho vay thấu chi nhìn chung chỉ áp dụng đối
với các doanh nghiệp có quan hệ lâu dài với ngân hàng và có độ tin cậy cao,
thu nhập ổn định.
• Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến của ngân


hàng đối với các khách hàng khơng có nhu cầu vay vốn thường xun, khơng
có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm
đơn trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay.Vốn từ ngân hàng chỉ tham
gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.

20


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

• Cho vay luân chuyển: là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển của

hàng hoá. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển,
ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn
mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hố và khả năng tiêu thụ. Mọi khoản
thu từ bán hàng đều dùng trả nợ vào tài khoản tiền vay trước khi được trích
trả lại tài khoản tiền gửi thanh tốn của khách hàng. Khi vay, khách hàng chỉ
cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay,
ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Hình thức cho vay này thường
áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp có chu
kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xun với ngân hàng.
• Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà ngân hàng cho phép khách

hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng thoả thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản
cố định hoặc hàng lâu bền. Hình thức này có rủi ro cao do khách hàng thường
thế chấp hàng hố mua trả góp, khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập ổn định
của người vay. Nếu xảy ra rủi ro đối với người vay, thu nhập bị giảm sút thì
khả năng thu nợ của ngân hàng bị ảnh hưởng, vì vậy lãi suất cho vay trả góp

thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
• Cho vay gián tiếp: đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức

trung gian như các tổ, đội, hội, nhóm như tổ sản xuất, Hội Nông dân, Hội Cựu
chiến binh, Hội Phụ nữ, … Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt
động cho vay sang các tổ chức trung gian, các tổ chức này cũng có thể đứng
ra đảm bảo cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh
cho một thành viên vay. Cho vay gián tiếp được áp dụng đối với thị trường có
nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Tuy nhiên, hình
thức này cũng bộc lộ khiếm khuyết như nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế
của mình để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên
khác cho riêng mình, …

21


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

 Chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nhận nợ).
Chiết khấu thương phiếu là một hình thức tín dụng dựa trên cơ sở trao
đổi trái quyền: Ngân hàng bỏ tiền ra trong hiện tại để thu về một khoản lớn
hơn trong tương lai với lãi suất xác định (lãi suất chiết khấu), nhưng thực chất
ngân hàng đã thay người mua trả tiền trước cho người bán, như vậy người bán
sớm có tiền để tiếp tục sản xuất kinh doanh, quay vịng vốn nhanh chóng hơn.
 Bảo lãnh
Bảo lãnh là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc
thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi

khách hàng của ngân hàng không thực hiện được nghĩa vụ đã cam kết.
Bảo lãnh được coi là một hình thức tín dụng thông qua chữ ký, tuy
ngân hàng không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã dùng uy tín của mình
để thu lợi (phí bảo lãnh).
 Cho th tài chính
Cho thuê tài chính là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách
hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách
hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng.
Cho thuê tài chính thường là hình thức tín dụng trung - dài hạn. Ngân
hàng mua tài sản và cho khách hàng thuê với thời gian sao cho ngân hàng
phải thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi (thời gian
khoảng 80 đến 90% đời sống hoạt động của tài sản đó). Hết thời hạn thuê,
khách hàng có thể mua lại tài sản đó.
Phương thức cho thuê là một hình thức tài trợ có nhiều ưu điểm, đặc
biệt là đối với các DNNQD, bởi DNNQD sẽ không phải đầu tư với quy mô
lớn ngay từ Ban đầu mà tuỳ theo thoả thuận với ngân hàng, sẽ trả gốc và lãi
tương ứng với giá trị của tài sản thuê. Hơn nữa số tiền thuê này được tính
22


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

thành cho thuê thiết bị trung và dài hạn.Với các thiết bị, phương tiện có giá trị
lớn, các doanh nghiệp khơng muốn mua có thể sử dụng dịch vụ cho thuê thiết bị
trung và dài hạn của ngân hàng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình. Ngân hàng sẽ mua thiết bị và cho khách hàng thuê kèm theo một số
điều kiện. Kết thúc hợp đồng thuê, doanh nghiệp có thể được ưu tiên mua lại
phương tiện với giá ưu đãi. Người ta cũng gọi hình thức này là th mua tài
chính. Hiện nay ở Việt Nam có rất nhiều các cơng ty tài chính mà chủ yếu là
thuộc các Ngân hàng thương mại quốc doanh một chi phí và nó sẽ làm giảm

đáng kể số thuế phải nộp của doanh nghiệp.
1.2.2.2 Quy trình tín dụng
a. Tiếp nhận hồ sơ
Cán bộ tín dụng làm đầu mối tiếp nhận, hướng dẫn khách hàng hoàn
thành các hồ sơ cần thiết. Các hồ sơ đó là:
• Hồ sơ pháp lý về doanh nghiệp: Quyết định thành lập doanh nghiệp,
điều lệ tổ chức và hoạt động, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép
hành nghề đối với ngành nghề cần giấy phép, biên bản họp bầu Hội đồng
quản trị, chủ tịch, kế toán trưởng, các văn bản uỷ quyền và các giấy tờ có liên
quan khác.
• Hồ sơ về khoản tín dụng: Giấy đề nghị cấp tín dụng, kế hoạch sản
xuất kinh doanh, kế hoạch tài chính trong năm kế hoạch, các báo cáo tài chính,
bảng kê cơng nợ, các khoản phải trả, phải thu, các hợp đồng kinh tế (đầu vào,
đầu ra), phương án sản xuất kinh doanh, và các hồ sơ khác có liên quan.


Hồ sơ bảo đảm tín dụng: Gồm các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu,

sử dụng, giá trị của tài sản hay hợp đồng, văn bản bảo lãnh của bên thứ ba.
b.

Phân tích tín dụng

Mục tiêu chính của việc phân tích tín dụng là xác định khả năng và ý
chí trả nợ của khách hàng. Đây cũng là khâu quan trọng nhất để hạn chế tối đa
rủi ro đối với một khoản tín dụng.

23



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Nội dung của việc phân tích tín dụng tập trung vào 5 yếu tố: uy tín, tư
cách của khách hàng, quyền sở hữu về tài sản, khả năng tạo lợi nhuận, và một
số điều kiện khác có ảnh hưởng đến hoạt động của khách hàng.
Cụ thể việc phân tích tín dụng phải trải qua các bước sau:
Bước 1: Thu thập thông tin
Cán bộ tín dụng cần phải thu thập các thơng tin về DNNQD xin cấp tín
dụng. Nguồn thơng tin có thể do chính DNNQD đó cung cấp, hay do cán bộ
tín dụng thu thập được trực tiếp thông qua thăm, xem xét tình hình thực tế của
doanh nghiệp, hoặc có thể lấy thông tin từ các bên thứ ba (các chủ nợ cũ,
thơng tin của phịng Kế hoạch - Đầu tư nơi DNNQD đăng ký kinh doanh).
Bước 2: Xử lý thông tin
Sau khi có được đầy đủ các thơng tin, cán bộ tín dụng tiến hành phân
tích các thơng tin đó theo các khía cạnh sau:
• Đánh giá về tài sản của DNNQD: bao gồm đánh giá về ngân quỹ
(tiền mặt, tiền gửi, các khoản phải thu có khả năng chuyển đổi thành tiền); các
chứng khốn có giá, hàng hóa trong kho, tài sản cố định...
• Đánh giá các khoản nợ: Ngân hàng quan tâm đến tất cả các chủ nợ
của khách hàng (ngân hàng, người cung cấp, người lao động, các khoản nợ
cũ), các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm bảo và nợ khác.
• Phân tích luồng tiền: Các luồng tiền vào và luồng tiền ra thực tế là một
chỉ tiêu rất quan trọng trong việc dự đoán các vấn đề tín dụng trong tương lai.
• Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thơng qua việc sử
dụng các tỷ lệ để phân tích như tỷ lệ về khả năng thanh toán, tỷ lệ đo khả
năng tài trợ bằng vốn tự có, tỷ lệ rủi ro...
• Phân tích các điều kiện kinh tế, xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động của DNNQD xin cấp tín dụng.
c. Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Sau khi đã phân tích về khách hàng cũng như phương án tài trợ, ngân

hàng sẽ ra quyết định tín dụng. Nếu đồng ý cung cấp tín dụng cho khách
24


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

hàng, ngân hàng và khách hàng sẽ cùng nhau ký kết hợp đồng. Đây có thể là
hợp đồng tín dụng (nếu ngân hàng cho vay), hay hợp đồng bảo lãnh, hoặc hợp
đồng cho thuê. Hợp đồng chính là các văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa
người nhận tài trợ (DNNQD) và ngân hàng với nội dung chủ yếu là ngân hàng
cam kết cung cấp cho khách hàng một khoản tín dụng trong một khoảng thời
gian và lãi suất nhất định. Đây cũng chính là văn bản pháp luật xác định
quyền và nghĩa vụ của cả hai bên trong quan hệ tín dụng.
Các nội dung chính trong hợp đồng:
+ Khách hàng: tên doanh nghiệp, địa chỉ, điện thoại, người đại diện của
DN.
+ Mục đích sử dụng khoản tín dụng (thường có trong hợp đồng tín dụng).
+ Số lượng tín dụng: số tiền mà ngân hàng cam kết cung cấp cho khách
hàng.
+ Lãi suất: lãi suất mà khách hàng phải trả cho khoản tín dụng và tính
chất của lãi suất (thả nổi hay cố định) hoặc phí phải trả (đối với hợp đồng bảo
lãnh).
+ Thời hạn tín dụng hoặc thời hạn có hiệu lực của bảo lãnh.
+ Các loại bảo đảm.
+ Điều kiện giải ngân và kỳ hạn giải ngân (đối với hợp đồng tín dụng)
hoặc các điều kiện thực hiện bảo lãnh (đối với hợp đồng bảo lãnh).
+ Các điều kiện thanh toán.
Và một số điều kiện khác.
d. Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng
Sau khi đã ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng phải có trách nhiệm

cấp tiền (hoặc thanh toán tiền hàng) cho khách hàng như đã thoả thuận. Kèm
theo ngân hàng phải kiểm soát khách hàng trong quá trình cho vay.
e. Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng
Theo dõi việc thực hiện hợp đồng tín dụng thơng qua hợp đồng tín
dụng, sổ sách kế tốn, chứng từ kế tốn...để có thơng báo trả nợ cho khách
25


×