Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Pháp luật về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa một số vấn đề lí luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.04 KB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC VINH
KHOA LUẬT
--------------

ĐẬU VĂN TIẾN

PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN RỦI RO TRONG
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA – MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PHAN NỮ HIỀN OANH

Nghệ An, tháng 5 năm 2014


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU……………………… ....................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ……………………........................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài ............................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài ..................................................................... 3
5. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận ............................................................ 3
6. Kết cấu của khóa luận ................................................................................... 4
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN RỦI RO


TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA ........................................... 5
1.1. Một số khái niệm ......................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm rủi ro ....................................................................................... 5
1.1.2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa .................................................. 6
1.1.3. Khái niệm chuyển rủi trong hợp đồng mua bán hàng hóa ...................... 7
1.2. Quy định về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy
định của pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia khác .......................... 8
1.2.1.Quy định về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo Cơng
ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 ............................ 8
1.2.2. Quy định về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp
luật một số quốc gia khác .................................................................................. 15
1.3. Pháp luật Việt Nam về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa
trước khi Luật thương mại 2005 có hiệu lực..................................................... 21
1.4. Ý nghĩa của việc xác định thời điểm chuển rủi ro trong hợp đồng mua
bán hàng hóa...................................................................................................... 24
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN RỦI RO
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA .......................................... 27
2.1. Pháp luật Việt Nam về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán


hàng hóa ............................................................................................................ 27
2.1.1. Chuyển rủi ro trong trường hợp có địa điểm giao hàng xác định ........... 27
2.1.2. Chuyển rủi ro trong trường hợp khơng có địa điểm giao hàng
xác định ............................................................................................................ 29
2.1.3 Chuyển rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người nhận hàng để giao
mà không phải là người vận chuyển ................................................................. 31
2.1.4. Chuyển rủi ro trong trường hợp mua bán hàng hóa đang trên đường vận
chuyển ............................................................................................................... 34
2.1.5. Chuyển rủi ro trong các trường hợp khác ............................................... 36
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán

hàng hóa ............................................................................................................ 40
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH VỀ
CHUYỂN RỦI RO TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA ........ 45
3.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển rủi ro trong hợp
đồng mua bán hàng hóa..................................................................................... 45
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định pháp luật
về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa ......................................... 48
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu được nêu trong bài khóa luận là trung thực và có trích dẫn nguồn rõ
ràng. Kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chưa được công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Sinh viên
Đậu Văn Tiến.


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường Đại Học Vinh,
các thầy cô giáo trong khoa Luật cùng với các bạn sinh viên đã tạo điều kiện
cho em được học tập, tìm hiểu, nghiên cứu để em có thể hồn thành tốt bài
khóa luận tốt nghiệp này. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự chỉ dẫn, dạy bảo
nhiệt tình của cơ giáo: Phan Nữ Hiền Oanh, mặc dù cô đang trong thời gian
sinh con nhỏ, sức khỏe cơ đang cịn yếu hơn nữa cơ đang cịn phải chăm sóc
cho con nhỏ nhưng cơ đã khơng quản ngại vất vả, khó khăn đó cơ đã tận tình

giúp đỡ em để em có thể hồn thành tốt bài khóa luận này.
Với mục đích làm bài khóa luận này nhằm củng cố kiến thức đã học
được và phát huy khả năng tư duy, lơgich, khải năng tìm hiểu, hiểu biết của
em đối với pháp luật cũng như trong thực tiễn đời sống. Do điều kiện, năng
lực, tư duy, khả năng hiểu biết, cách tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu cịn rất
nhiều hạn chế nên trong q trình làm khóa luận chắc chắn sẽ khơng tránh
khỏi những thiếu sót, những hạn chế và khuyết điểm trong nội dung, cách làm
bài. Vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, những kiến nghị,
đánh giá của các thầy cơ và các bạn bè để khóa luận này của em được chặt
chẽ hơn, hoàn thiện hơn và tốt hơn, để sau này nếu em có cơ hội làm một đề
tài, một khóa luận khác hay một cơng trình nghiên cứu khoa học nào đó thì
chắc chắn em sẽ khơng phụ tấm lịng của các thầy cơ đã dạy bảo, hướng dẫn
em và em sẽ tin chắc em sẽ làm tốt.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên
Đậu Văn Tiến.


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mua bán hàng hóa là hoạt động chính trong các hoạt động thương mại,
là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng và không chỉ giới hạn ở phạm vi mỗi
quốc gia mà còn mở rộng ra cả các quốc gia khác nhau trên toàn thế giới. Khi
hai bên (thường gọi bên mua và bên bán) tiến hành kí kết một hợp đồng mua
bán hàng hóa, hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể bằng miệng,
bằng văn bản, bằng email, fax… Hợp đồng mua bán hàng hóa rất phong phú,
đa dạng được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật và khá phổ biến trong hoạt
động kinh doanh của bất kì cá nhân hay tổ chức nào. Trong hệ thống pháp
luật nước ta đã có những quy định cụ thể về điều chỉnh quan hệ hợp đồng
ngay từ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, tiếp theo đến là Bộ luật dân sự

1995, Luật thương mại 1997… và hiện tại tiêu biểu là hai văn bản pháp luật
mới được ban hành: Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005.
Trong hoạt động thương mại thường gặp rất nhiều rủi ro, đặc biệt là
trong lĩnh vực trao đổi, mua bán hàng hóa bởi vì hợp đồng mua bán hàng hóa
liên quan chặt chẽ đến hợp đồng vận chuyển và hàng hóa thường bị mất mát,
hư hỏng trong q trình chun chở. Nó có thể xẩy ra những sự kiện khách
quan làm mất mát, hư hỏng hàng hóa (bị trộm cắp, bị hư hỏng do thiên tai,
dịch họa…), hàng hóa có thể bị mất mát, hư hỏng trên đường vận chuyển,
trước hay trong khi nhận hàng. Trong những trường hợp đó, yêu cầu rất quan
trọng đặt ra là phải xác định trách nhiệm rủi ro đối với hàng hóa trong giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Vì vậy, việc xác định thời điểm, từ thời điểm
người bán không phải chịu rủi ro và chuyển sang cho người mua phải chịu
mọi rủi ro đối với hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa, vừa
mang ý nghĩa pháp lý, vừa có ý nghĩa thực tiễn hết sức quan trọng và cần
thiết.
Như vậy, việc xác định chính xác thời điểm định rủi ro trong hợp
đồng mua bán hàng hóa hiện nay là yêu cầu đặt ra trong các quy định pháp
luật để các bên có cơ sở pháp lý xác định chính xác trên thực tế, tránh xẩy ra
1


tranh chấp, xung đột giữa các bên hoặc có cơ sở để giải quyết các tranh chấp
phát sinh. Xuất phát từ thực tế đó, tơi đã chọn đề tài “Pháp luật về chuyển rủi
ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa là một vấn đề hết sức
quan trọng trong thực tiễn của hoạt động mua bán hàng hóa trong nước cũng
như việc mua bán hàng hóa quốc tế và cũng là một vấn đề đáng quan tâm
trong hệ thống pháp luật thương mại. Do vậy, trong thời qua ở Việt Nam cũng

đã có một số cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Đã có một số cuốn sách
viết về đề tài này, mang tính chất nghiên cứu một số nội dung của vấn đề
chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa như Cuốn sách “Rủi ro trong
kinh doanh” của tác giả Ngô Thị Ngọc Huyền, Nxb. Chính trị Quốc gia xuất
bản năm 2003, Cuốn sách “Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại thương”
của tác giả Nguyễn Anh Tuấn, Nxb. Lao động xã hội ấn hành năm 2006,
Cuốn sách “Hạn chế rủi ro trong kinh doanh” của tác giả Nguyễn Dương và
Ngọc Quyên, Nxb. Giao thông Vận tải ấn hành. Kể cả một số luận văn thạc sĩ
nghiên cứu liên quan, Có thể kể ra một số cơng trình nghiên cứu chủ yếu như:
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Nam Hải, Trường Đại học Kinh tế, 2008; “Các
rủi ro phát sinh khi thực hiện hợp đồng ngoại thương của các doanh nghiệp
Việt Nam”. Hay như một số các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật được đăng
tải trên các Tạp chí Tịa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, tạp chí Dân chủ và
pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Luật học… cũng đã có đề
cập tới vấn đề này, tuy nhiên các bài viết này dừng lại một khía cạnh nào đó.
Như vậy, có thể nhận thấy mỗi cơng trình nghiên cứu là một sự khai thác
khác nhau, nhìn nhận vấn đề dưới các góc độ khác nhau. Trong phạm vi bài
khóa luận, người viết tiếp cận vấn đề một cách tổng quan về lý luận cũng như
thực tiễn pháp luật việc chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Do
đó, bài viết sẽ là sự kế thừa và phát triển của các cơng trình nghiên cứu khác.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
2


Khóa luận chủ yếu đề cập đến những quy định của pháp luật liên quan
đến việc chuyển rủi ro trong Luật thương mại 2005 và thực tiễn của việc
chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hiện nay. Từ đó đưa ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao việc thực thi các quy định về chuyển rủi ro
trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Phương pháp luận sử dụng chung trong khóa luận là phương pháp biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Đồng thời còn sử dụng các phương
pháp bổ trợ như phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, đối chiếu lịch sử
nhằm đánh giá vấn đề một cách khách quan, tồn diện nhất của đề tài.
5. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
Mục đích của khóa luận là nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề
lý luận cũng như thực tiễn pháp luật về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán
hàng hóa, bảo vệ quyền và lợi ích cho các thương nhân, doanh nghiệp, đảm
bảo trật tự xã hội; đồng thời, phân tích, đánh giá, nhìn nhận thực trạng và xu
hướng phát triển các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề này. Trên
cơ sở đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị góp phần hồn thiện chính sách pháp
luật của Nhà nước về vấn đề chuyển rủi ro và đưa ra được các giải pháp nhằm
hoàn thiện hơn việc chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, khóa luận cần phải giải quyết
được những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận của việc chuyển rủi ro trong hợp
đồng mua bán hàng hóa như: Khái niệm rủi ro, hợp đồng mua bán hàng hóa,
rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa; chuyển rủi ro trong hợp đồng mua
bán theo quy định của pháp luật Việt Nam, Công ước viên 1980 và của các
quốc gia khác,…
- Nêu lên được thực trạng pháp luật về chuyển rủi ro trong hợp đồng
mua bán hàng hóa.

3


- Đưa ra một số giải pháp phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả các quy định chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hoá để
nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật.
6. Kết cấu của khóa luận

Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua
bán hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua
bán hàng hóa.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả việc thực thi các quy định về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa.

4


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN RỦI RO TRONG
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm rủi ro
Rủi ro là sự kiện không may mắn. Rủi ro hết sức đa dạng, phức tạp, tồn
tại dưới nhiều hình thái khác nhau và gắn liền với đời sống, hoạt động sản
xuất và kinh doanh của con người. Do đó, nhiều năm qua rủi ro đã trở thành
đối tượng nghiên cứu của nhiều học giả trong lĩnh vực kinh tế và bảo hiểm
trên thế giới. Xoay quanh khái niệm rủi ro hiện đang có rất nhiều quan điểm
khác nhau. Sau đây là một số khái niệm phổ biến thường được dùng nhiều.
Frank Knight, một học giả người Mỹ trong lĩnh vực bảo hiểm và quản
trị rủi ro, cho rằng: “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được” [12, tr. 233].
Theo ông các loại bất trắc khơng thể đo lường được thì khơng được gọi là rủi
ro, cịn loại bất trắc có thể đo lường được gọi là rủi ro. Cách tiếp cận này dựa
trên cơ sở bất trắc có đo lường được hay không. Tuy nhiên, trên thực tế không
phải bất trắc nào cũng có thể đo lường được hồn tồn.
Một học giả người Mỹ khác, ông Allan Willett trong cuốn “Risk and

Insurance” quan niệm: “Rủi ro là bất trắc cụ thể liên quan đến một biến cố
không mong đợi” [13, tr. 6]. Như vậy, theo ông rủi ro liên quan tới thái độ của
con người. Những biến cố ngồi mong đợi thì được xem là rủi ro còn những
biến cố mong đợi không phải là rủi ro.
Theo ông Nguyễn Hữu Thân, tác giả cuốn “Phương pháp mạo hiểm và
phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh” [1, tr. 51] thì: “Rủi ro là sự bất trắc gây
ra mất mát thiệt hại”. Theo cách tiếp cận này, rủi ro phải là bất trắc gây hậu
quả cho con người, cịn những bất trắc khơng gây tổn thất thì khơng phải là
rủi ro.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Rủi ro là hậu quả gây thiệt hại ít
nhiều có thể dự đốn được của một hành vi mà việc thực hiện không chỉ phụ
thuộc vào ý chí các bên đương sự [4, tr. 694].
5


Nhìn từ góc độ bảo hiểm, rủi ro là những đe dọa nguy hiểm mà con
người không lường trước được và là nguyên nhân trực tiếp gây tổn thất cho
đối tượng bảo hiểm.
Tóm lại, qua các khái niệm khác nhau về rủi ro của các học giả đề cập
ở trên, ta thấy các khái niệm có sự giao thoa và tồn tại mối liên hệ giữa chúng
ở hai vấn đề cơ bản sau:
Một là, các khái niệm đều đề cập tới sự bất định, không chắc chắn và
sự ngờ vực đối với rủi ro. Đây chính là thuộc tính cơ bản nhất của rủi ro.
Hai là, các khái niệm đều hàm ý về hậu quả của rủi ro do một hay nhiều
nguyên nhân gây ra cho con người trong một tình huống cụ thể và hậu quả
của rủi ro chính là tổn thất.
Như vậy, rủi ro không chỉ đơn thuần là mối ngờ vực trong tương lai mà
còn ám chỉ cả một thực tế là nó có thể kéo theo thiệt hại cho con người.
1.1.2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Hàng hóa theo nghĩa rộng được hiểu là sản phẩm lao động của con

người, được tạo ra nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của con người. Nhu cầu
của con người rất phong phú và biến thiên liên tục, vì vậy hàng hóa cũng ln
phát triển phong phú, đa dạng để đáp ứng nhu cầu của con người. Theo quy
định của pháp luật Việt Nam tại khoản 2 Điều 3 Luật thương mại 2005,
“Hàng hóa bao gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành
trong tương lai; Những vật gắn liền với đất đai”. Cũng theo tại Điều 3 của
Luật thương mại 2005 quy định: “Mua bán hàng hóa là hoạt động thương
mại, theo đó bên có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho
bên mua và nhận thanh tốn; bên mua có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán,
nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”.
Mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện thơng qua hình thức pháp
lý là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa có chung bản
chất là hợp đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi chấm dứt các quyền
và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Luật thương mại 2005 không đưa ra định
nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa song có thể xác định bản chất pháp lý
6


của hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại trên cơ sở quy định của Bộ
luật dân sự về hợp đồng mua bán tài sản. Theo Điều 428 Bộ luật Dân sự
2005: “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên
bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, cịn bên mua có nghĩa
vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”.
Từ phân tích trên ta có khái niệm: Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự
thỏa thuận giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên
khác không phải là thương nhân trong việc mua bán tất cả các động sản, kể cả
động sản được hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai.
1.1.3. Khái niệm chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Trong thực tế việc hoạt động mua bán hàng hóa rất cần thiết, quan
trọng nhưng khi các bên mua bán và chuyển hàng hóa với nhau khơng tránh

khỏi những mất mát, hư hỏng hàng hóa, điều này có thể xuất phát từ chủ quan
hay khách quan gây lên rủi ro này. Vì thế khi giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa các bên cần phải quy định rủi ro và xác định trách nhiệm rủi ro hàng
hóa sẽ như thế nào đối với các bên. Bởi tính quan trọng, cần thiết của nó trong
hợp đồng mua bán, vì thế chuyển rủi ro là một trong những điều khoản quan
trọng mà các bên cần phải lưu ý khi tham gia kí kết hợp đồng mua bán hàng
hóa với nhau, để tránh được các rủi ro khơng cần thiết.
Thuật ngữ chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán cũng khơng phải là
thuật ngữ mới sử dụng, nó đã được sử dụng trong hợp đồng mua bán quốc tế,
trong Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980. Tuy
nhiên, ở nước ta khái niệm này vẫn đang còn rất mới mẻ, Bộ luật Dân sự 2005
cũng như Luật thương mại 2005 đã không đưa ra định nghĩa thế nào là
chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa, mà chỉ quy định các điều
luật liên quan đến việc chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa mà
thơi. Từ những phân tích trên ta có thể định nghĩa, chuyển rủi ro trong hợp
đồng mua bán hàng hóa là việc xác định trách nhiệm đối với rủi ro của hàng
hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa thuộc về bên nào (bên bán hay bên
mua) trong các trường hợp cụ thể khi rủi ro xẩy ra đối với hàng hóa đó.
7


1.2. Chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy
định của pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia khác
1.2.1. Quy định về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa
theo Cơng ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980
Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 là
một trong những thành cơng điển hình về thống nhất hóa pháp luật về hợp
đồng trên thế giới. Cho đến nay đã có 74 nước gia nhập, Cơng ước Viên có sự
tác động rất lớn đến nền kinh tế của các nước mà đặc biệt là trong quan hệ
mua bán hàng hóa quốc tế, điều này chứng tỏ Cơng ước Viên đóng một vị trí

quan trọng trong hệ thống pháp luật của các nước.
Cùng với sự quy định việc mua bán hàng hóa hàng hóa quốc tế, Cơng
ước Viên cịn có sự quy định việc chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng
hóa giữa các bên. Sự quy định này nhằm ràng buộc các bên mua bán hàng hóa
cũng như quy định mất mát, hư hỏng hàng hóa trong q trình vận chuyển,
mua bán thì rủi ro này sẽ thuộc về ai giữa các bên. Sự quan trọng, cần thiết của
nó, Cơng ước Viên đã quy định các điều luật liên quan đến việc chuyển rủi ro
trong hợp đồng mua bán hàng hóa mà cụ thể là từ Điều 66 đến Điều 70 của
chương IV “Chuyển rủi ro” . Sau đây là các quy định của Công ước Viên liên
quan đến vấn đề này là:
Theo quy định tại Điều 66, “Việc mất mát hay hư hỏng hàng hóa xảy ra
sau khi rủi ro chuyển sang người mua không miễn trừ cho người này nghĩa vụ
phải trả tiền, trừ phi việc mất mát hay hư hỏng ấy là do hành động của người
bán gây nên”. Đây là sự quy định còn rất đơn giản trong quá trình chuyển rủi
ro giữa các bên mua bán hàng hóa, theo đó khi bên mua nhận được hàng hóa
từ bên bán, bên bán đã hồn thành nghĩa vụ chuyển giao hàng theo đúng thỏa
thuận giữa các bên, khi hàng hóa được chuyển giao cho bên mua mà xẩy ra
mất mát hay hư hỏng hàng hóa đó thì rủi ro này sẽ chuyển cho bên mua, dù
cho bên mua chưa thanh toán tiền cho bên bán. Mặc dù sự quy định này còn
rất đơn giản, sơ khai trong quá trình chuyển rủi ro giữa các bên nhưng với sự
quy định này ta thấy được phù hợp, hợp lý trong q trình mua bán hàng hóa,
8


bởi lẽ khi hàng hóa đã được chuyển sang cho bên bán thì lúc này hàng hóa đã
thuộc về bên mua và nếu xẩy ra rủi ro mất mát liên quan đến số hàng hóa này
thì do bên mua chịu. Trong trường hợp này để xác định được hành động do
người bán gây nên làm cho hàng hóa xẩy ra mất mát, hư hỏng hàng hóa thì ta
cần phải xác định người bán có các hành động vi phạm dẫn đến rủi ro và hành
động đó là nguyên nhân trực tiếp gây ra rủi ro đối với hàng hóa như cố tình

giao chậm hàng, giao hàng khơng đúng như thỏa thuận, giao cho người khơng
có kinh nghiệm chở hàng,… làm cho người mua gặp khó khăn trong việc
nhận hàng và gây ra rủi ro cho hàng hóa đó thì lúc này mặc dù xẩy ra rủi ro do
bên mua nhưng do các hành động của bên bán thì theo quy định tại Điều 66
của Công ước Viên này, rủi ro sẽ chuyển cho bên bán. Ví dụ: Cơng ty A của
Nhật Bản kí kết hợp đồng mua bán hải sản đông lạnh với Công ty B của Hàn
Quốc. Theo thỏa thuận Cơng ty B phải đóng gói, bảo quản số hải sản đông
lạnh cẩn thận, khi Công ty B giao hàng cho Công ty A, do bên Công ty B đã
khơng đóng gói và bảo quản hải sản đơng lạnh theo đúng thỏa thuận, lúc
Công ty A nhận được hàng hóa chuyển giao thì số hàng đó bị hư hỏng, mất
mát. Trong trường hợp này, mặc dù bên Công ty A đã nhận hàng và rủi ro sẽ
chuyển cho bên mua là Công ty A, nhưng hành động của Công ty B là khơng
đóng gói, bảo quản cẩn thận nên hàng hóa đã hư hỏng, mất mát. Theo quy
định thì tồn bộ rủi ro hàng hóa này sẽ thuộc về bên Công ty B do hành động
của bên Công ty B gây nên.
Khi hai bên kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì việc quy
định người vận chuyển hay giao hàng tại một địa điểm nào đó là điều rất cần
thiết và quan trọng, để xác định được hàng hóa đó đã thuộc về bên mua hay
chưa, để xác định các bên đã thực hiện đúng các điều khoản hợp đồng hay
chưa,… từ đó để xác định trách nhiệm, nghĩa vụ giữa các bên khi hàng hóa
xẩy ra rủi ro. Nhận thấy được điều quan trọng trong việc này, Điều 67.1 của
Công ước Viên đã quy định “Khi hợp đồng mua bán quy định việc vận
chuyển hàng hóa và người bán khơng bị buộc phải giao hàng tại nơi xác định,
rủi ro được chuyển sang người mua kể từ lúc hàng được giao cho người
9


chuyên chở thứ nhất để chuyển giao cho người mua chiếu theo hợp đồng mua
bán. Nếu người bán bị buộc phải giao hàng cho một người chuyên chở tại
một nơi xác định, các rủi ro không được chuyển sang người mua nếu hàng

hóa chưa được giao cho người chuyên chở tại nơi đó. Sự kiện người bán được
phép giữ lại các chứng từ nhận hàng khơng ảnh hưởng gì đến sự chuyển giao
rủi ro”. Với quy định này, ta thấy rằng khi hai bên kí kết hợp đồng mua bán
hàng hóa mà các bên khơng thỏa thuận giao hàng tại một địa điểm nhất định
hoặc địa điểm xác định mà thỏa thuận giao hàng cho người vận chuyển, kể từ
lúc người bán đã giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên, mà hàng hóa xẩy
ra mất mát, hư hỏng thì rủi ro này thuộc về bên mua hàng, vì trong lúc này
bên bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và hàng hóa đã chuyển cho bên
mua thơng qua người vận chuyển đầu tiên rồi. Để xác định trong hợp đồng
mua bán hàng hóa giữa hai bên trong việc chuyển hàng hóa cho nhau thơng
qua người thứ ba là trung gian nhận hàng hóa, vận chuyển hàng hóa thì pháp
luật còn quy định: Khi người bán giao hàng cho người chuyên chở tại một địa
điểm nhất định mà các bên đã thỏa thuận chuyển giao thì rủi ro về hàng hóa
sẽ chuyển cho bên mua, rủi ro chuyển sang cho người mua này không làm
ảnh hưởng khi người bán vẫn giữ lại chứng từ hàng hóa. Khi các bên đã thỏa
thuận giao hàng tại một địa điểm xác định và người bán gia hàng cho người
chuyên chở thì nếu tại địa điểm xác định đó người bán chưa giao hàng cho
người chuyên chở đó hay giao hàng cho người chuyên chở khác hoặc người
thứ ba mà không phải là người chuyên chở khi các bên đã thỏa thuận trong
hợp đồng. Trong trường hợp này mà xẩy ra mất mát, hư hỏng hàng hóa dó
người đó thì rủi ro về hàng hóa này thuộc về bên bán và bên bán sẽ phải chịu
mọi rủi ro đó.
Để hồn thiện hơn cho Điều 67.1 trên thì Cơng ước Viên cịn quy định
thêm trong Điều 67.2 nêu rõ “Tuy nhiên, rủi ro không được chuyển sang
người mua nếu hàng hóa khơng được đặc định hóa rõ ràng cho mục đích của
hợp đồng hoặc bằng cách ghi ký mã hiệu trên hàng hóa, bằng các chứng từ
chuyên chở, bằng một thông báo gửi cho người mua hoặc bằng bất cứ
10



phương pháp nào khác”. Trong Điều 67.2 này đã quy định cụ thể, chặt chẽ
hơn, bổ sung các quy định còn thiếu cho Điều 67.1 trong việc chuyển rủi ro
hàng hóa cho bên mua, theo đó nếu hàng hóa mà khơng có các ký hiệu, mã
hóa, các chứng từ, hoặc các hình thức khác mà làm cho bên mua khơng thể
nhận dạng, không biết hay không thông báo cho bên mua về sự kiện của hàng
hóa đó mà bên bán vẫn chuyển giao cho bên mua, khi chuyển giao số hàng đó
cho bên mua mà xẩy ra mất mát, hư hỏng hàng hóa thì rủi ro này sẽ khơng
thuộc về bên mua mà rủi ro hàng hóa này do bên bán chịu. Điều này là phù
hợp trong việc mua bán hàng hóa, từ đó ta càng đánh giá cao các quy định của
Công ước Viên trong việc quy định chuyển rủi ro trong trường hợp khơng có
địa điểm giao hàng xác định, giao hàng hóa cho người chuyên chở và các
chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Cũng khơng thể lường trước được các rủi ro khi các bên giao kết mua
bán hàng hóa mà hàng hóa này đang trên đường vận chuyển, mà điều đặc biệt
đây là việc mua bán hàng hóa quốc tế, việc mua bán này phải trải qua các của
khẩu, hàng rào thế quan, phi thế quan của các nước thì vấn đề xẩy ra mất mát,
hư hỏng của hàng hóa là điều khơng tránh khỏi. Nhận thấy được điều này,
Điều 68 Công ước Viên quy định: “Người mua nhận rủi ro về mình đối với
những hàng hóa bán trên đường vận chuyển kể từ lúc hàng hóa được giao
cho người chuyên chở là người đã phát chứng từ xác nhận một hợp đồng vận
chuyển. Tuy nhiên, nếu vào lúc ký kết hợp đồng mua bán, người bán đã biết
hoặc đáng lẽ phải biết sự kiện hàng hóa đã bị mất mát hay hư hỏng và đã
khơng thơng báo cho người mua về điều đó thì việc mất mát hay hư hỏng
hàng hóa do người bán phải gánh chịu”. Trong trường hợp này, kể từ lúc
người bán giao hàng cho người chuyên chở này (người này đã kí kết một hợp
đồng vận chuyển hàng hóa) mà hàng hóa xẩy ra các thiệt hại, mất mát thì rủi
ro hàng hóa sẽ do bên mua gánh chịu. Để giảm bớt các rủi ro do bên mua và
để đảm bảo cho quyền lợi của bên mua thì Cơng ước Viên cịn quy định khi kí
kết hợp đồng mà bên bán đã biết hoặc phải biết hàng hóa đó đã bị mất mát, hư
hỏng và không thông báo, hay không cho bên bán biết hàng hóa đó đã bị

11


khuyết tật thì rủi ro đó buộc người bán phải chịu trách nhiệm. Ví dụ: Doanh
nghiệp B của Đức kí kết hợp đồng mua bán với Doanh nghiệp A của Pháp là
mua 1000 chai rượu vang loại thượng hạng của Pháp, số hàng hóa này đang
cịn trên đường vận chuyển từ nước Pháp đến nước Đức. Tuy nhiên trước khi
kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa với Doanh nghiệp B của Đức thì Doanh
nghiệp A của Pháp đã biết ¼ số hàng trên bị hư hỏng do bảo quản không
đúng nhiệt độ của rượu, nhưng Doanh nghiệp A của Pháp đã không thông
báo, không cho bên Doanh nghiệp B của đức biết số hàng trên bị lỗi và vẫn
chuyển giao tồn bộ 1000 chai rượu vang đó. Đến khi người chuyên chở do
Doanh nghiệp B thuê nhận được hàng hóa và kiểm tra số hàng trên, phát hiện
¼ trong tổng số 1000 chai rượu vang bị hỏng và không dùng được nữa. Để
xác định rủi ro hàng hóa trên thuộc về bên nào thì ta xác định, theo Điều 68
Cơng ước Viên: Khi kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa đang trên đường vận
chuyển nà người bán đã biết số hàng hóa đó bị mất mát, hư hỏng mà khơng
thơng báo cho bên mua thì tồn bộ rủi ro đó thuộc về bên bán, trong trường
hợp này bên Doanh nghiệp A của Pháp đã biết 1000 đó chai rượu đã bị mất
mát, hư hỏng nhưng mà vẫn không thông báo cho bên Doanh nghiệp B của
Đức biết. Như vậy Doanh nghiệp A của Pháp phải chịu toàn bộ số hàng trên.
Việc mua bán hàng hóa đang trên đường vận chuyển này Công ước Viên đã
quy định rõ ràng, cụ thể để nhằm đảm bảo được quyền lợi của các bên trong
mua bán, tránh được các tình trạng gian lận trong mua bán hàng hóa quốc tế.
Theo Điều 69.1 Cơng ước Viên thì: “Trong các trường hợp khơng được
nêu tại các Điều 67 và 68, các rủi ro được chuyển sang người mua khi người
này nhận hàng hoặc, nếu họ không làm việc này đúng thời hạn quy định, thì
kể từ lúc hàng hóa được đặt dưới quyền định đoạt của người mua và người
mua đã vi phạm hợp đồng vì khơng chịu nhận hàng”. Sự quy định này thấy
rằng, ngoài các trường hợp chyển rủi ro sang cho bên mua hay bên bán tại các

Điều 67, 68 của Cơng ước Viên thì trong trường hợp quy định tại điều này,
bên bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho bên mua hay đã thông báo cho
bên mua để nhận hàng theo đúng hợp đồng đã kí kết mà bên mua đã nhận
12


hàng hoặc bên mua đã cố tình khơng thực hiện, thực hiện không đúng các quy
định trong hợp đồng, cố tình khơng nhận hàng, vi phạm hợp đồng, thì khi
hàng hóa này đã thuộc quyền định đoạt của bên mua mà hàng hóa xẩy ra mất
mát, hư hỏng thì lúc này theo quy định, bên mua phải chịu mọi rủi ro của
hàng hóa đó. Để thấy rằng nếu trong hợp đồng đã thỏa thuận chuyển giao cho
bên mua nhưng bên mua đã có những hành vi cố tình kéo dài, trì hỗn khơng
nhận hàng, vi phạn hợp đồng do hai bên đã thỏa thuận và hàng hóa đã đặt
dưới quyền của người mua kể từ lúc này xẩy ra các mất mát, hư hỏng liên
quan đến hàng hóa thì rủi ro này người mua phải chịu, điều này cũng rất phù
hợp trong thực tế mua bán giữa các bên.
Để nâng cao sự ràng buộc của các bên trong mua bán cũng như đảm
bảo cho việc mua bán diễn ra thuận lợi, Công ước Viên đã quy định “Tuy
nhiên, nếu người mua bị ràng buộc phải nhận hàng tại một nơi khác với nơi
có xí nghiệp thương mại của người bán, rủi ro được chuyển giao khi thời hạn
giao hàng phải được thực hiện và người mua biết rằng hàng hóa được đặt
dưới quyền định đoạt của họ tại nơi đó”, (Điều 69.2). Từ đó ta thấy rằng nếu
hai bên thỏa thuận giao hàng tại một địa điểm khác không phải là nơi xí
nghiệp của người bán thì người mua nhận được hàng hóa là khi hàng hóa đó
đã được hai bên thỏa thuận thời gian nhận hàng và bên mua đã biết được hàng
hóa đó đã thuộc về mình hay hàng hóa đó đã thuộc về bên mua thì lúc này nếu
hàng hóa xẩy ra mất mát, hư hỏng thì bên mua phải gánh chịu. Sự quy định
này là hợp lý cho cả bên mua và bên bán, khi bên mua nhận được hàng hóa đó
thì lúc này hàng hóa đó đã thuộc về bên mua rồi và nghĩa vụ giao hàng của
bên bán cũng đã kết thúc.

Để làm rõ quy định tại Điều 69.1, 69.2, thì trong Điều 69.3 này đã quy
định cụ thể hơn, chi tiết, bổ sung cho các điều khoản trên “Nếu hợp đồng mua
bán liên quan đến hàng hóa chưa được cá biệt hóa, hàng chỉ được coi là đã
đặt dưới quyền định đoạt của người mua khi nào nó được đặc định hóa rõ
ràng cho mục đích của hợp đồng này”. Khi các bên mua bán hàng hóa mà
hợp đồng mua bán hàng hóa này chưa được cá biệt hóa, chưa được rõ ràng
13


liên quan đến hàng hóa như chất lượng, số lượng, giá cả, chủng loại,… thì
hàng hóa này chưa được chuyển giao cho bên mua, khi chuyển giao cho bên
mua mà xẩy ra mất mát, hư hỏng hàng hóa thì bên bán phải gánh chịu. Khi
hàng hóa đã được rõ ràng về chất lượng, giá cả, chủng loại,… phù hợp với nội
dung, mục đích của hợp đồng mà hai bên đã kí kết trong hợp đồng thì lúc này
hàng hóa được đặt dưới quyền định đoạt của bên mua, hàng hóa đó đã thuộc
về bên mua, thì lúc này mà xẩy ra mất mát, hư hỏng liên quan đến hàng hóa
thì rủi ro này thuộc về bên mua. Quy định trong Điều 69 của Công ước Viên
đã quy định rất chặt chẽ, bổ sung cho nhau, làm hoàn thiện hơn các quy định
liên quan đến rủi ro giữa các bên khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế.
Điều cuối cùng trong Công ước Viên, Điều 70 quy định việc chuyển rủi
ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên đó là: “Nếu người bán gây
ra một sự vi phạm chủ yếu đối với hợp đồng, thì các quy định của những Điều
67, 68, 69, không ảnh hưởng đến quyền của người mua sử dụng các biện
pháp bảo hộ pháp lý trong trường hợp xảy ra vi phạm như vậy”. Điều luật
trên ta thấy rằng, khi hai bên đã thỏa thuận hợp đồng mua bán hàng hóa với
nhau, người bán đã vi phạm các nội dung của hợp đồng mà sự vi phạm này
được coi là “vi phạm chủ yếu đối với hợp đồng”, thì các quy định liên quan
đến việc xác định trách nhiệm rủi ro giữa các bên trong mua bán hàng hóa
khơng làm ảnh hưởng tới người mua khi người mua sử dụng các biện pháp

bảo hộ hàng hóa khi hàng hóa xẩy ra mất mát, hư hỏng đó là do bên bán vi
phạm chủ yếu đến hợp đồng. Công ước Viên đã không định nghĩa rõ ràng bên
bán “vi phạm chủ yếu trong hợp đồng” là gì. Tuy nhiên, vi phạm chủ yếu
trong hợp đồng có thể được hiểu là bên bán đã khơng thực hiện nghĩa vụ
trong hợp đồng hoặc thực hiện không hết nghĩa vụ hợp đồng, làm ảnh hưởng
đến người mua có thể chưa gây ra hậu quả hoặc đã gây ra hậu quả cho người
mua, như trong hợp đồng có nội dung chủ yếu thỏa thuận các vấn đề như: Giá
cả, chất lượng, phương thức thanh toán, thời gian, địa điểm chuyển hàng

14


hóa,… nhưng bên bán đã khơng thực hiện một trong các điều khoản trên hoặc
thực hiện không đúng mà các bên đã thỏa thuận kí kết trong hợp đồng.
Như vậy với các quy định trên của Công ước Viên về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế năm 1980 quy định liên quan đến các trường hợp
chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa, đã làm cho việc mua bán
hàng hóa quốc tế giữa các nước diễn ra được thuận lợi hơn góp phần thúc đẩy
việc loại trừ các trở ngại pháp lý trong thương mại quốc tế và hộ trợ cho việc
phát triển thương mại quốc tế.
Hiện nay, Việt Nam chưa là thành viên của Công ước Viên nhưng một
số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã áp dụng công ước Viên để giải quyết
những vấn đề phát sinh trong một số trường hợp mua bán hàng hóa quốc tế có
yếu tố nước ngồi và Cơng ước Viên có thể được áp dụng làm nguồn luật điều
chỉnh hợp đồng trong quan hệ mua bán hàng hoá quốc tế giữa thương nhân
Việt Nam với các cá nhân, tổ chức nước ngoài.
1.2.2. Quy định về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa
theo pháp luật một số quốc gia khác
Trong hoạt động mua bán hàng hóa của các nước luôn tiềm ẩn các nguy
cơ, các rủi ro, các mất mát mà khơng thể lường trước, dự đốn được trong q

trình mua bán hàng hóa. Vì tính quan trọng này nên các nước có các quy định
khác nhau, quy định liên quan đến việc chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán
hàng hóa. Để chuyển được rủi ro từ người bán sang người mua trong hợp
đồng mua bán hàng của các nước được xác định bởi những quy định đặc biệt.
Theo Điều 1138 Bộ luật Dân sự Pháp [7], “Nghĩa vụ của việc cung cấp một
điều hoàn tất bởi sự đồng ý duy nhất của các bên ký kết hợp đồng. Nó làm
cho các chủ nợ của chủ sở hữu và đặt điều tại rủi ro của mình từ thời gian khi
nó đã được chuyển giao, mặc dù bàn giao đã không được thực hiện, trừ khi
con nợ đã được đưa ra thông báo để cung cấp, trong trường hợp đó, điều vẫn
có nguy cơ sau này”. Với quy định này ta thấy được pháp luật của nước Pháp
quy định chuyển rủi ro cho nhau khi mua bán hàng hóa là khi các bên phải có
nghĩa vụ cung cấp các thông tin, các vấn đề liên quan đến việc mua bán hàng
15


hóa và đồng ý thống nhất kí kết hợp đồng, thì từ lúc các bên chuyển giao hàng
hóa cho nhau mà xẩy ra rủi ro mất mát, hư hỏng thì sẽ được chuyển cho bên
mua, trừ khi bên mua đã thông báo đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ liên quan
đến việc mua hàng hóa của mình. Điều này thấy rằng, pháp luật Pháp đã quy
định cho trường hợp chuyển rủi ro trong hợp đồng có sự liên quan đến sự kiện
chuyển quyền sở hữu hàng hóa giữa các bên trong mua bán hàng hóa, đó là
quyền sở hữu hàng hóa được chuyển cho bên mua từ thời điểm hàng hóa đó
được chuyển giao cho bên mua. Như vậy, quy định chuyển rủi ro trong hợp
đồng mua bán của Bộ luật dân sự Pháp khơng thấy được có sự quy định phù
hợp hay tương thích nào với quy định của Công ước Viên về chuyển rủi ro
trong hợp đồng mua bán hàng hóa của các bên mua bán.
Khác với quy định của Bộ luật dân sự Pháp, Bộ luật dân sự liên bang
Nga [7], Điều 459.1 quy định cho trường hợp chuyển giao các rủi ro, mất mát
hàng hoá như sau: “Trừ khi quy định của hợp đồng mua bán, nguy cơ phá hủy
do tai nạn hàng hoá, thiệt hại ngẫu nhiên của hàng hoá được chuyển giao cho

người mua kể từ thời điểm phù hợp với pháp luật hoặc hợp đồng, người bán
được coi là đã thực hiện nhiệm vụ của mình bàn giao hàng hóa cho người
mua”.
Điều 459.1 của Bộ luật dân sự liên bang Nga, khi các bên kí kết hợp
đồng mua bán hàng hóa với nhau mà người bán đã thực hiện xong nghĩa vụ
chuyển giao hàng hóa như trong hợp đồng đã thỏa thuận với bên mua, việc
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của bên bán phù hợp với việc mua bán hàng hóa
mà các bên đã thỏa thuận cũng như các quy định liên quan đến việc mua bán
hàng hóa mà pháp luật đã quy định thì ngay khi người bán đã hồn thành
xong nghĩa vụ đó mà chuyển giao hàng hóa cho bên mua, từ lúc bên mua
nhận được hàng hóa đó mà xẩy ra mất mát, hư hỏng, thiệt hại hàng hóa thì
bên mua phải chịu mọi rủi ro liên quan đến hàng hóa đó. Như vậy việc quy
định cho trường hợp hàng hóa thiệt hại ngẫu nhiên này phải có sự phù hợp với
pháp luật về mua bán hàng hóa và sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng,
ta thấy được quy định liên quan đến vấn đề này của Bộ luật dân sự liên bang
16


Nga rất chặt chẽ và cụ thể, đòi hỏi các bên khi kí kết mua bán hàng hóa phải
có sự am hiểu sâu về pháp luật, hiểu nó và vận dụng vào mua bán, kí kết. Sự
quy định tại điều luật này của Bộ luật dân sự liên bang Nga khơng thấy được
có sự giống hay tương thích với quy định của Công ước Viên về chuyển rủi ro
trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trong Điều 459.2 Bộ luật dân sự liên bang Nga đã quy định cho trường
hợp rủi ro trong quá cảnh mua bán hàng hóa, “Nguy cơ phá hủy do tai nạn,
hư hỏng do tai nạn với hàng hố bán khi họ đang có trong q cảnh được
chuyển giao cho người mua kể từ thời điểm giao kết hợp đồng mua bán, trừ
trường hợp quy định của hợp đồng hoặc cơ quan hải quan của doanh thu kinh
doanh. Các điều kiện của hợp đồng có nêu rằng nguy cơ phá hủy do tai nạn,
hư hỏng do tai nạn với hàng hoá được chuyển giao cho người mua kể từ thời

điểm giao hàng cho các phương tiện vận chuyển đầu tiên có thể được cơng
nhận bởi một tịa án của pháp luật là không hợp lệ trên nhu cầu của người
mua, nếu tại thời điểm kí kết hợp đồng người bán đã biết hoặc phải biết rằng
hàng hóa đã bị mất hoặc bị hư hỏng và không thông báo cho người mua về
việc này”.
Từ quy định trên ta thấy rằng, khi các bên kí kết hợp đồng mua bán
hàng hóa với nhau mà hàng hóa này đang “quá cảnh chuyển giao”, quá cảnh
được chuyển giao ở đây có thể hiểu là hàng hóa đang trong q trình vận
chuyển qua lãnh thổ của một nước để chuyển giao hoặc hàng hóa đang cịn
trên đường vận chuyển đến, thì rủi ro phá hủy tai nạn, hư hỏng hàng hóa sẽ
chuyển cho bên mua kể từ thời điểm các bên giao kết hợp đồng mua bán với
nhau. Như vậy, kể từ thời điểm kí kết hợp đồng mua bán với hàng hóa trong
q cảnh chuyển giao thì người mua phải chịu mọi trách nhiệm liên quan đến
hàng hóa đó, lúc này mọi rủi ro mất mát, hư hỏng hàng hóa đều thuộc về bên
mua. Hơn nữa còn quy định thêm cho trường hợp tai nạn, hư hỏng do tai nạn
với hàng hóa được chuyển sang cho bên mua kể từ khi giao hàng hóa cho các
phương tiện vận chuyển, có thể được cơng nhận bởi một tịa án. Quy định này
cũng có thể hiểu là giao hàng hóa cho người chuyên chở đầu tiên hoặc là giao
17


hàng cho người được bên mua ủy quyền nhận hàng hóa, khi được cơng nhận
bởi một tịa án đó, thì khi người này nhận hàng hóa đó mà xẩy ra rủi ro mất
mát, hư hỏng hàng hóa thì sẽ thuộc về bên mua. Ngoài ra Bộ luật dân sự liên
bang Nga cũng quy định trong khi các bên kí kết hợp đồng với nhau mà bên
bán đã biết hay phải biết số hàng hóa đã xẩy ra mất mát, hư hỏng và khơng
thơng báo cho bên mua thì rủi ro, mất mát, hư hỏng hàng hóa đó khơng được
chuyển cho bên mua mà rủi ro này sẽ chuyển cho bên bán, điều này phù hợp.
Đối với quy định tại Điều 459.2 này có sự tương thích, giống với quy định
của Công ước Viên về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa, mà

cụ thể là Điều 68 của Công ước quy định cho trường hợp chuyển rủi ro trong
hợp đồng mua bán hàng hóa khi hàng hóa đang còn trên đường vận chuyển.
Luật thương mại của bang California [7], Điều 2509 quy định chuyển
rủi ro từ bên bán chuyển sang cho bên mua như sau:
“1. Trường hợp hợp đồng yêu cầu hoặc cho phép bên bán để vận
chuyển hàng hóa bằng phương tiện vận chuyển:
a) Nếu bên mua không yêu cầu bên bán phải cung cấp cho họ tại một
địa điểm cụ thể, nguy cơ rủi ro để bên mua khi hàng hóa được hợp lệ chuyển
giao cho người vận chuyển mặc dù lô hàng được xác định theo thỏa thuận
của các bên (Điều 2505); nhưng
b) Nếu yêu cầu bên bán phải cung cấp cho bên mua tại một địa điểm cụ
thể và hàng hố có hợp lệ đấu thầu trong khi thuộc sở hữu của người vận
chuyển, nguy cơ rủi ro để người mua khi hàng hóa đang có hợp lệ đấu thầu
để cho phép đi giao hàng.
2. Trường hợp hàng hoá đang được người nhận hàng giữ sẽ được
chuyển giao cho bên mua, nguy cơ rủi ro sẽ chuyển cho bên mua:
a) Khi bên mua nhận về sở hữu hoặc kiểm soát của một tài liệu thỏa
thuận về quyền sở hữu bao gồm các hàng hóa; hoặc
b) Về xác nhận của bên giữ quyền của bên mua để sở hữu hàng hoá;
hoặc

18


c) Sau khi bêni mua nhận về sở hữu hoặc kiểm soát một tài liệu, giấy tờ
của tiêu đề hoặc hướng khác để cung cấp trong hồ sơ theo quy định tại điểm
b khoản 4 của Điều 2503.
3. Trong mọi trường hợp không nằm trong khoản 1 hoặc khoản 2 này,
nguy cơ rủi ro hàng hóa để lại người mua trên nhận về hàng hóa nếu bên bán
là một thương gia; nếu khơng thì rủi ro được chuyển sang bên mua trên đấu

thầu giao hàng.
4. Các quy định của điều khoản này có thể thỏa thuận trái của các bên
và quy định của bộ phận này được bán ra (Điều 2327) và ảnh hưởng của
hành vi vi phạm về rủi ro hàng hóa (Điều 2510)”.
Theo Điều 2509.1 Luật thương mại bang California quy định chuyển
rủi ro trường hợp vận chuyển hàng hóa bằng phương tiện vận chuyển này thì:
Trong hợp đồng các bên không quy định giao hàng tại một địa điểm cụ thể,
khi người bán chuyển giao hàng hóa hợp lệ cho người vận chuyển thì kể từ
lúc hàng hóa đã được chuyển giao cho người vận chuyển mà xẩy rủi ro mất
mát, hư hỏng hàng hóa đó thì sẽ được chuyển cho bên mua. Còn trong trường
hợp hai bên thỏa thuận giao hàng tại một địa điểm cụ thể, khi người bán giao
hàng tại một địa điểm cụ thể và hàng hóa đó hợp lệ trong đấu thầu thuộc sở
hữu của người vận chuyển hàng hóa, lúc người mua nhận hàng tại địa điển cụ
thể đó mà xẩy ra rủi ro mất mát hàng hóa, thì rủi ro hàng hóa đó sẽ được
chuyển cho bên mua.
Tại Điều 2509.2 của Luật thương mại bang California quy định cho
hàng hóa được người nhận hàng đang nắm giữ số hàng đó thì sẽ xác định
chuyển giao rủi ro cho người mua trong các trường hợp: Khi người mua nhận
chứng từ sở hữu hàng hóa hoặc người mua kiểm sốt của một tài liệu mà các
bên thỏa thuận về quyền sở hữu hàng hóa từ tổ chức giao hàng đó thì khi
người mua nhận được chứng từ sở hữu hàng hóa hay kiểm sốt tài liệu liên
quan đến hàng hóa đó, mà lúc này xẩy ra mất mát hư hỏng hàng hóa thì rủi ro
đó sẽ thuộc về bên mua.

19


Trường hợp người giao hàng đã xác nhận hàng hóa đó đã thuộc quyền
sở hữu của bên mua, bên mua đã nhận số hàng đó, từ lúc hàng hóa thuộc
quyền sở hữu của người mua mà xẩy ra mất mát, hư hỏng hàng hóa thì rủi ro

về hàng hóa đó bên mua phải gánh chịu.
Trường hợp người mua nhận về mình về sở hữu hàng hóa đó hoặc kiểm
sốt của một tài liệu, hồ sơ liên quan đến thỏa người bán hoặc đã đấu thầu
chuyển tài liệu về quyền sở hữu hàng hóa chuyển cho bên mua, thì kể từ khi
bên mua nhận được quyền sở hữu hàng hóa đó mà xẩy ra mất mát, hư hỏng
hàng hóa thì bên mua phải chịu mọi rủi ro hàng hóa đó.
Trường hợp khơng nằm trong Điều 2509.2, 2509.2 thì theo quy định tại
Điều 2509.3 rủi ro về mất mát, hư hỏng hàng hóa sẽ chuyển cho bên mua khi
bên mua nhận về số hàng hóa đó và bên bán là một bên trong quan hệ mua bán
hàng hóa là thương nhân giao hàng cho bên mua. Thì kể từ lúc bên mua nhận
hàng do bên bán giao mà xẩy ra mất mát, hư hỏng hàng hóa thì rủi ro về hàng
hóa thuộc về bên mua. Trường hợp bên bán không phải là thương nhân thì rủi
ro hàng hóa sẽ được chuyển cho bên mua khi bên mua đấu thầu giao hàng.
Điều 2509.4 Luật thương mại bang California quy định, các điều luật
trên quy định việc chuyển rủi ro trong hợp đồng hàng hóa có thể trái với sự
thỏa thuận của các bên và các quy định mà các bên khơng có sự thỏa thuận
này hoặc các trường hợp giao hàng khác mà các bên có quy định thì các quy
định chuyển rủi ro mất mát hàng hóa này vẫn có hiệu lực đối với các bên. Với
các quy định việc chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa của luật
thương mại bang California, ta thấy rằng quy định tại Điều 2509.1 giống với
quy định của Công ước Viên về chuyển rủi ro, mà cụ thể là tại Điều 67.1 về
trường hợp chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa có địa điểm xác
định cụ thể và khơng có địa điểm xác định. Ngoài ra, các quy định khác liên
quan đến chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa của bang California
khơng có sự tương thích, phù hợp với quy định của Công ước Viên về chuyển
rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa.

20



×