Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
MÔN: KỸ NĂNG THAM GIA GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN HÌNH CHÍNH
Mơn
: Hành chính
Hồ sơ số
: LS.HC105/DA2
Diễn lần
:1
Ngày diễn : 10/08/2021.
Họ và tên : Nguyễn Tấn Phát
Sinh ngày : 12 tháng 01 năm 1997
MSHV
: 211
Lớp
: LS23.1E tại TP Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 08 năm 2021
0
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: Kỹ năng cơ bản của Luật sư khi tham gia giải quyết vụ việc Hành chính
Hồ sơ số: LS.HC 105/DA2
NGƯỜI KHỞI KIỆN: TÀO THỊ MÃO, TÀO THỊ TỴ, TÀO THỊ THƠM, TÀO
THỊ NHỊN, TÀO MINH DŨNG
I.
TĨM TẮT
Ơng Tào Văn Sung (chết năm 1959) và bà Nguyễn Thị Mùi (chết năm 1994) có tất
cả 07 người con chung gồm các ông, bà: Tào Minh Hùng, Tào Thị Mão, Tào Thị Tỵ,
Tào Thị Thơm, Tào Thị Nhịn, Tào Minh Nhường (chết năm 2014) và Tào Minh Dũng.
Trước năm 1960, gia đình bà Mão sinh sống trên thửa đất thổ cư cũ ở ngồi xóm đê
sát quốc lộ 1A gần cầu Tào Xuyên, xã Hoằng Lý, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1960, chính quyền địa phương vận động gia đình bà Mão vào xóm trong
thuộc thơn Thành Phú, xã Hoằng Lý để ở và thửa đất này tồn tại cho đến nay.
Năm 1994, bà Mùi chết, không để lại di chúc. Tài sản để lại là 04 gian nhà cấp 4,
xây tường 20 gạch đỏ và các cơng trình phụ xung quanh.
Sau khi bà Mùi chết, các đồng thừa kế thống nhất không chia di sản thừa kế mà để
cho ông Hùng và ông Dũng cùng sinh sống trên thửa đất này. Trong đó, ơng Hùng có
trách nhiệm thời cúng tổ tiên và không được chuyển nhượng, tặng cho, cầm cố, thế
chấp… đối với tài sản này.
Tuy nhiên, đến tháng 6/2014, ông Hùng phá 4 gian nhà cấp 4 và đất cho 02 con gái
nên dẫn đến tranh chấp.
Sau đó, bà Mão và các đồng thừa kế cịn lại (“phía bà Mão”) mới phát hiện năm
2007 ơng Hùng và bà Sen đã được Ủy ban nhân dân huyện Hoằng Hóa cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên số 843, tờ bản đồ số 5, diện tích
232,5m2.
Ngày 12/7/2015, phía bà Mão đã có đơn khiếu nại Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã
Hoàng Lý liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hùng, bà
Sen và được giải quyết bằng Công văn số 25/UBND-ĐCXD và Công văn số
28/UBND-ĐCXD. Không đồng ý với 02 văn bản này, bà Mão tiếp tục khiếu nại đến
Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa.
Ngày 14/10/2015, Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa ban hành Quyết định số
9050/QĐ-UBND với nội dung giữ nguyên GCNQSDĐ do UBND hun Hoằng Hóa đã
cấp cho ơng Hùng, bà Sen.
Khơng đồng ý với quyết định này, phía bà Mão đã khiếu nại đến Chủ tịch UBND
1
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
tỉnh Thanh Hóa và được giải quyết bằng Quyết định số 619/QĐ-UBND ngày 22/2/2016
với nội dung: giữ nguyên Quyết định số 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 của Chủ
tịch UBND thành phố Thanh Hóa.
Khơng đồng ý với các quyết định giải quyết khiếu nại trên, ngày 10/5/2016, các
ông, bà gồm: Tào Thị Mão, Tào Thị Tỵ, Tào Thị Thơm, Tào Thị Nhịn và Tào Minh
Dũng cùng có đơn khởi kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố Thanh Hóa và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hoằng Hóa
đến Tịa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa với các yêu cầu như sau:
-
Hủy Quyết định số 619/QĐ-UBND ngày 22/2/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh
Thanh Hóa;
-
Quyết định số 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 của Chủ tịch UBND thành
phố Thanh Hóa;
-
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 214324 ngày 31/12/2007 do
UBND huyện Hoằng Hóa cấp cho ơng Hùng, bà Sen.
Ngày 23/05/2016, TAND tỉnh Thanh Hóa đã thụ lý vụ án hành chính sơ thẩm số
06/2016/TLST-HC về việc “Khởi kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai.”
II.ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN KHỞI KIỆN
1. Chủ thể khởi kiện:
Theo hồ sơ bà Tào Thị Mão và các anh em là người khởi kiện. Họ đều trên 18
tuổi, đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính. Cho rằng Giấy chứng nhận Quyền sử
dụng đất và quyết định giải quyết khiếu nại xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của
mình nên tiến hành khởi kiện (khoản 8 điều 3 Luật TTHC)
2. Xác định người bị kiện:
Người bị kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân ban hành Quyết định hành chính bị
khởi kiện (khoản 9 Điều 3 Luật TTHC), Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa là người
ban hành QĐ giải quyết khiếu nại lần 2 số 619.
3. Đối tượng khởi kiện:
-
Quyết định số 619/QĐ-UBND ngày 22/2/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh
Hóa;
-
Quyết định số 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 của Chủ tịch UBND thành phố
Thanh Hóa;
-
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 214324 ngày 31/12/2007 do UBND
huyện Hoằng Hóa cấp cho ông Hùng, bà Sen.
Đây là quyết định hành chính do UBND tỉnh Thanh Hóa, UBND thành phố Thanh
Hóa và UBND huyện Hoằng Hóa ban hành, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của phía bà Mão. Do đó thuộc đối tượng khởi kiện hành chính theo khoản 1 Điều
2
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
28 Luật tố tụng hành chính 2010 (khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính 2015).
4. Yêu cầu khởi kiện:
Người khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định hành chính sau:
-
Quyết định số 619/QĐ-UBND ngày 22/2/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh
Hóa;
-
Quyết định số 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 của Chủ tịch UBND thành phố
Thanh Hóa;
-
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 214324 ngày 31/12/2007 do UBND
huyện Hoằng Hóa cấp cho ông Hùng, bà Sen
5. Thẩm quyền giải quyết của tòa án:
-
Thẩm quyền theo vụ việc: Theo khoản 1 Điều 28 Luật tố tụng hành chính năm
2010 (khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính năm 2015) vụ án trên thuộc
thẩm quyền chung của Tòa án do khiếu kiện này là vụ án hành chính.
-
Thẩm quyền theo lãnh thổ: Theo điểm c khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành
chính năm 2010 (khoản 3 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015), Tịa
án có thẩm quyền là Tịa án nhân dân cấp tỉnh nơi người bị kiện có trụ sở làm
việc do trong các đối tượng khởi kiện thì có quyết định hành chính của Chủ tịch
UBND tỉnh Thanh Hóa (cơ quan hành chính cấp tỉnh).
Như vậy, Tịa án có thẩm quyền giải quyết cấp sơ thẩm là TAND tỉnh Thanh Hóa.
6. Các đương sự trong vụ kiện
a. Người khởi kiện:
-
Bà Tào Thị Mão, sinh năm 1939;
Địa chỉ: Thành Khang 2, phường Tào Xuyên, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
-
Bà Tào Thị Tỵ, sinh năm 1941;
Địa chỉ: Xóm 4, xã Hoằng Lý, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
-
Bà Tào Thị Thơm, sinh năm 1949;
Địa chỉ: Tổ 16A, Khu 2A, Nơng Trang, TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
-
Bà Tào Thị Nhịn, sinh năm 1954;
Địa chỉ: Xóm 4, xã Hoằng Lý, TP. Thanh Hố, tỉnh Thanh Hóa.
-
Ơng Tào Minh Dũng, sinh năm 1957.
Địa chỉ: Xóm 6, xã Hoằng Lý, TP. Thanh Hố, tỉnh Thanh Hóa
Đại diện theo ủy quyền của phía người khởi kiện: Ông Nguyễn Ngọc Uyên
3
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
b. Người bị kiện:
-
Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa;
Đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch: Ơng Ngơ Đức Quyền - Phó Chủ tịch
UBND tỉnh Thanh Hóa.
-
Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa;
Đại diện theo ủy quyền: Lê Văn Tú - Phó Chủ tịch UBND TP. Thanh Hóa.
-
UBND huyện Hoằng Hóa;
Người đại diện theo pháp luật: ông Lê Đức Giang - Chủ tịch UBND huyện;
Người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch: Ơng Nguyễn Đình Tuy - Phó Chủ
tịch UBND huyện Hoằng Hóa.
c. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
-
UBND xã Hoằng Lý;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Mạnh Hùng - Chủ tịch UBND xã
Hoằng Lý.
-
Ông Tào Minh Hùng, sinh năm 1937;
Địa chỉ: Xóm 4, xã Hoằng Lý, TP. Thanh Hố, tỉnh Thanh Hóa
7. Thời hiệu khởi kiện:
Theo điểm a, khoản 2, Điều 104 Luật tố tụng hành chính năm 2010 (điểm a khoản 2
Điều 116 Luật tố tụng hành chính năm 2015) thì thời hiệu khởi kiện là 01 năm kể từ
nhận được hoặc biết được quyết định hành chính ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Theo Đơn khởi kiện ngày 10/5/2016 thì khoảng năm 2015 phía
bà Mão phát hiện ra việc ơng Tào Minh Hùng và bà Hoàng Thị Sen đã được UBND
huyện Hoằng Hóa cấp GCNQSDĐ số AL 214324 ngày 31/12/2007. Sau đó, phía bà
Mão đã có đơn khiếu nại các cấp có thẩm quyền cho đến khi khởi kiện ra tịa án. Do
đó, tính 01 năm từ thời điểm nhận được, biết được các quyết định hành chính trên,
thì thời hiện khởi kiện sẽ được tính từ ngày 22/2/2016 đến ngày 22/2/2017. Như vậy,
bà Mão khởi kiện ngày 10/5/2016 là còn trong thời hạn khởi kiện.
8. Giai đoạn “tiền tố tụng hành chính”:
- Sau khi nhận được 02 Cơng văn của UBND xã Hoằng Lý, người khởi kiện đã
làm đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa. Ngày 14/10/2015 Chủ
tịch UBND thành phố Thanh Hóa giải quyết khiếu nại bằng Quyết định GQKN số
9050/QĐ-UBND với nội dung: “Giữ nguyên GCNQSDĐ do UBND huyện Hoằng Hóa
đã cấp cho anh Hùng và chị Sen ngày 31/12/2007”.
4
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
- Sau đó người khởi kiện đã làm đơn khiếu nại lên Chủ tịch UBND tỉnh Thanh
Hóa. Ngày 22/2/2016 Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Quyết định GQKN
lần hai số 619/QĐ-UBND với nội dung: Giữ nguyên Quyết định GQKN số 9050/QĐUBND ngày 14/10/2015 của Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa.
Vì vậy, người khởi kiện có quyền khởi kiện tiếp ra Tòa án.
9. Ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện của người bị kiện
Việc người khởi kiện (các ông bà: Mão, Tỵ, Thơm, Dũng) cho rằng việc UBND
huyện Hoằng Hóa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 214324 ngày
31/12/2007 cho ông Tào Minh Hùng, bà Hồng Thị Sen sai đối tượng là khơng có căn
cứ bởi lẽ:
-
Thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ơng Tào Minh Hùng chỉ
có một mình hộ ông Hùng đang sử dụng ổn định, không có tranh chấp, do đó
cuối năm 2007 UBND huyện Hoằng Hóa đã thực hiện theo nghị định
181/2004/NĐ-CP lập hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
18 hộ trong đó có hộ ơng Hùng là đúng đối tượng.
-
Trong thời gian lập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sau khi cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Hùng, bà Sen UBND xã Hoằng
Lý không nhận được bất kỳ đơn, thư khiếu nại gì về việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Hùng, bà Sen.
-
Mãi đến tháng 3/2015 khi ông Hùng xây dựng xong nhà thì các ông bà: Mão, Tỵ,
Thơm, Dũng mới có đơn khiếu nại về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Tào Minh Hùng.
III. VĂN BẢN PHÁP LUẬT ÁP DỤNG
- Luật Tố tụng hành chính 2015;
- Luật đất đai 2003;
- Pháp lệnh thừa kế 1990;
- Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính Phủ quy định bổ sung
về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng
đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải
quyết khiếu nại về đất đai;
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính Phủ về thi hành Luật
Đất đai.
- Nghị quyết 104/2015/QH13 về thi hành Luật Tố tụng hành chính 2015.
5
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
IV. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA
1. Hỏi người bị kiện
-
Trước năm 1980 thửa đất 843 do ai quản lý, sử dụng?
-
Ông Hùng đã đăng ký sử dụng đất từ năm nào?
-
Đơn khiếu nại gửi Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa khiếu nại về quyết
định hành chính nào?
-
Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa ban hành quyết định số 9050/QĐ-UBND
dựa vào căn cứ nào?
- Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hùng, bà Sen được
hiện dựa trên căn cứ nào?
- thực Trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hùng, bà
Sen được thực hiện như thế nào?
- Khi xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Hùng, bà Sen đã nộp
những giấy tờ gì?
2. Hỏi người khởi kiện
- Bố mẹ bà sống trên mảnh đất đó từ năm nào?
- Mẹ ông và các anh chị em ông sinh sống trên mảnh đất mà UBND cấp
GCNQSDĐ cho ông Tào Minh Hùng từ khi nào?
- Ơng cho biết Q trình sinh sống của bản thân ông và vợ con ông trên
mảnh đất
này; Năm 1996, ơng có sinh sống trên mảnh đất đó khơng?
- Ơng có được thơng báo về việc kiểm kê quỹ đất năm 1996 của UBND xã
Hoằng Lý không?
- Có những ai đã sống trên mảnh đất đó?
Cụ Sung và cụ Mùi mất có để lại di chúc khơng?
- Trong q trình sinh sống đất có bị tranh chấp khơng?
- Căn nhà và những cơng trình phụ trên đất bao gồm những gì?
Vậy những người con trong gia đình đã tiến hành phân chia tài sản như thế
nào?
- Từ năm 1960 đến năm 1993, có cán bộ xã nào đến ghi nhận về việc sử dụng đất
của mẹ bà hay khơng? Hoặc có ai làm chứng khơng?
- Từ năm 1973 đến năm 1982 bà có biết ơng Hùng làm gì và ở đâu khơng?
- Khi ơng Hùng làm đơn yêu cầu cấp GCNQSDĐ có hỏi ý kiến các chị em trong
gia đình khơng?
3. Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
6
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
Ông Tào Minh Hùng
-
Từ năm 1973 đến năm 1982 ông làm gì? Ở đâu?
Ai là người kê khai sổ mục kê năm 1996?
Tại sao ơng lại khơng kê khai gia đình ơng Dũng?
Ơng có làm đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khơng?
Khi đó ơng có hỏi ý kiến của các anh chị em trong gia đình khơng?
Những chữ ký trên các tài liệu có phải là do ông ký không?
UBND xã Hoằng Hóa
-
UBND xã có xác minh nguồn gốc đất 843 không?
Thời điểm từ năm 1960 đến năm 1993 có ghi tên người sử dụng đất trên sổ địa
chính?
- Tại thời điểm kiểm kê năm 1996, theo hồ sơ quản lý hộ tịch, thì có những ai sinh
sống trên mảnh đất của bà Mùi để lại? Ông có thu thập ý kiến những hộ dân
xung quanh khơng?
V. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ NGƯỜI KHỞI KIỆN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Kính thưa Hội đồng xét xử;
Thưa đại diện viện kiểm sát;
Thưa Luật sư đồng nghiệp!
Tôi là Luật sư Nguyễn Tấn Phát, thuộc VPLS Tấn Phát, thuộc đoàn Luật sư
TP HCM. Theo yêu cầu của người khởi kiện và được sự chấp thuận của Tịa án nhân
dân tỉnh Thanh Hóa, nay tơi tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi
kiện trong vụ án hành chính đã được TAND tỉnh Thanh Hóa thụ lý vào ngày 23/5/2016
về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng như diễn biến tại phiên tịa hơm nay, tơi
xin trình bày một số ý kiến bảo vệ quyền lợi cho người khởi kiện như sau:
Thứ nhất: Quyền sử dụng đối với thửa đất 843 là tài sản thuộc quyền sở
hữu của bà Mùi, bởi:
Căn cứ theo lời khai của người khởi kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là ơng Tào Minh Hùng thì vào năm 1960, gia đình bà Mão được vận động di dời
vào xóm trong thuộc thơn Thành Phú, xã Hoằng Lý tại thửa 843 (trước đây là thửa
843a), tờ bản đồ số 05 để ở. Điều này được hiểu rằng, thửa đất 843 chính là phần đất
mà bà Mùi được bồi thường, hỗ trợ khi thực hiện theo chính sách di dời của chính
7
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
quyền địa phương. Điều này được chứng minh bởi việc từ năm 1960 đến nay, gia đình
bà Mùi vẫn sinh sống, sử dụng hợp pháp trên phần đất này mà khơng có bất kì quyết
định thu hồi hay xử phạt do lấn chiếm đất đai của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai: Quyền sử dụng đối với thửa đất 843 là tài sản thừa kế do bà Mùi
chết để lại, bởi:
Năm 1994, bà Mùi chết, các đồng thừa kế của bà Mùi gồm: ông Hùng, bà Mão, bà
Tỵ, bà Thơm, bà Nhịn, ông Nhường (chết năm 2014) và ông Dũng vẫn chưa thỏa thuận
phân chia di sản này theo quy định pháp luật mà chỉ thống nhất tạm thời để ông Hùng là
người trông coi, quản lý, sử dụng đối với thửa đất này.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 33 Pháp lệnh thừa kế năm 1900 thì ơng Hùng chỉ được
sử dụng, không được bán, cho, đổi, cầm cố, thế chấp đối với tài sản này, trừ trường hợp
được sự thoả thuận của những người thừa kế.
Tuy nhiên, đến năm 2014, ông Hùng đã tự ý phá căn nhà và chia đất cho 02 người
con của ông Hùng để xây nhà khác.
Sau đó, bà Tảo và các đồng thừa kế cịn lại mới phát hiện được ông Hùng và bà
Sen đã tự ý xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất của bà Mùi để
lại mà không được sự đồng ý bằng văn bản của các đồng thừa kế khác. Hành vi này của
ông Hùng, bà Sen là vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của các đồng thừa kế còn lại của bà Mùi.
Thứ ba: Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 214324 và
hủy 02 Quyết định số 619/QĐ-UBND ngày 22/2/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh
Thanh Hóa và Quyết định số 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 của Chủ tịch
UBND thành phố Thanh Hóa là có căn cứ bởi:
Về thẩm quyền ban hành: Quyết định số 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015
của Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa
Để khiếu nại về việc UBND huyện Hoằng Hóa đã cấp Giấy nhận nhận quyền
sử dụng đất số AL214324 ngày 31/12/2007 cho ơng Tào Minh Hùng và bà Hồng Thị
Sen, những người khởi kiện đã gửi đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND thành phố
Thanh Hóa. Theo quy định tại Điều 2 và Điều 18 Luật khiếu nại 2011, quyết định hành
chính bị khiếu nại là Giấy nhận nhận quyền sử dụng đất số AL214324, người bị khiếu
nại là người có thẩm quyền đã ban hành quyết định hành chính bị khiếu nại (ở đây
được xác định là UBND huyện Hoằng Hóa) và người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại liên quan đến quyết định hành chính bị khiếu nại này, khơng ai khác là Chủ tịch
UBND huyện Hoằng Hóa.
Từ lẽ trên, tôi khẳng định việc Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa ban hành
8
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
Quyết định số 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 là sai thẩm quyền, sai quyền hạn. Tại
phần hỏi, vị đại diện Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa cũng đã thừa nhận điều
này thơng qua nội dung trả lời của mình.
Về nội dung: Quyết định số 9050/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND thành phố
Thanh Hóa và quyết định số 619/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa
giữ nguyên nội dung của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL214324
Trước hết, tôi cho rằng việc UBND huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL214324 là chưa đúng quy định của pháp luật
bởi:
-
UBND huyện Hoằng Hóa đã xác định chưa đúng về nguồn gốc và đối tượng sử
dụng đất:
Qua hồ sơ vụ án, các bên đều thừa nhận: bà Mùi cùng các con đã sinh sống ổn
định, khơng có tranh chấp và liên tục tại mảnh đến trên từ năm 1962 đến năm 1993;
đến năm 1994 bà Mùi chết, không để lại di chúc tài sản để lại là 04 gian nhà cấp 4, xây
tường 20 gạch đỏ, cột, kèo, rui, mè bằng gỗ, lợp mái ngói âm dương, có nhà bếp, cơng
trình phụ, bể nước, sân phơi, quy hoạch khu vực chăn nuôi gia súc, gia cầm thành
khuôn viên khép kín. Trong khi đó, Ơng Tào Minh Hùng đã thốt lý, khơng ở địa
phương từ năm 1953 cho đến năm 1982 mới về ở khu đất trên cùng bà Mùi (BL14).
Thêm nữa, cả ông Hùng, ông Dũng và đại diện UBND xã Hoằng Lý đều thừa
nhận, tại thời điểm năm 1996, tại mảnh đất trên có gia đình ơng Hùng và ông Dũng
cùng sinh sống; đến năm 2001, gia đình ơng Dũng mới tách hộ và được chính quyền
cấp đất tại nơi ở mới (BL11)
Như vậy việc UBND huyện Hoằng Hóa chỉ căn cứ vào việc sổ mục kê ghi tên
ông Hùng và bà Sen để xác định chỉ có ơng Hùng và vợ sử dụng ổn định, khơng có
tranh chấp trên mảnh đất trên là chưa đầy đủ và khách quan.
-
Có sự giả mạo hồ sơ cung cấp cho UBND huyện Hoằng Hóa để cấp Giấy chứng
nhận QSDĐ cho ông Tào Minh Hùng:
Tại kết luận giám định ngày 28/5/2017 Cơng an tỉnh Thanh Hóa đã khẳng định các
giấy tờ trong hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận QSDĐ: Phiếu lấy ý kiến dân cư về nguồn
gốc và thời điểm sử dụng đất (BL 26), Biên bản kiểm tra hiện trạng thửa đất (BL 30)
và Đơn xin cấp Giấy chứng nhận QSDĐ (BL32) khơng phải do Ơng Tào Minh Hùng
ký và viết.
Xuất phát từ việc cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Hùng và bà Sen không
9
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
đúng quy định pháp luật, do đó, 02 quyết định về việc giải quyết khiếu nại có nội dung
giữ nguyên việc cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Hùng và bà Sen cũng sẽ không
đúng quy định pháp luật.
-
Tại Kết luận giám định số 1280/KLGĐ-PC54 ngày 28/5/2017 của Phịng kỹ
thuật hình sự Cơng an tỉnh Thanh Hóa đã kết luận: Chữ ký “Hùng” và chữ viết
họ tên “Tào Minh Hùng” trên các văn bản nêu trên so với các tài liệu mẫu so
sánh không phải do cùng một người viết ra.
Từ kết luận này có thể hiểu rằng, trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Hùng đã có sự gian dối, khơng đúng thủ tục, trái quy định pháp luật.
Như vậy, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hùng, bà Sen là
không đúng đối tượng sử dụng đất, khơng đúng trình tự thủ tục theo quy định, thuộc
trường hợp phải thu hồi giấy chứng nhận đã cấp theo quy định pháp luật. Do đó, yêu
cầu của người khởi kiện về việc hủy giấy chứng nhận và hủy 02 Quyết định số 619/QĐUBND ngày 22/2/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa và Quyết định số
9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 của Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa là hồn
tồn có căn cứ và hợp pháp.
Từ những lập luận nêu trên, có thể thấy việc UBND huyện Hoằng Hóa trước đây đã
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hùng và bà Sen là khơng có căn cứ và
vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó,
các Quyết định giải quyết khiếu nại của UBND thành phố Thanh Hóa và tỉnh Thanh
Hóa đã cơng nhận việc cấp giấy chứng nhận này là trái quy định pháp luật. Điều này đã
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng thừa kế cịn lại của bà Mùi.
Từ những lý lẽ trên, căn cứ khoản 3, 4 Điều 32; điểm a khoản 3 Điều 116; điểm b
khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính 2015; điểm d khoản 2 Điều 106 Luật đất đai
2013, tơi kính đề nghị Hội đồng xét xử chấp thuận đơn khởi kiện, tuyên hủy các quyết
định hành chính sau:
-
Hủy Quyết định số 619/QĐ-UBND ngày 22/2/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh
Thanh Hóa;
-
Hủy Quyết định số 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 của Chủ tịch UBND
thành phố Thanh Hóa;
-
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 214324 ngày 31/12/2007 do
UBND huyện Hoằng Hóa cấp cho ơng Tào Minh Hùng, bà Hồng Thị Sen.
Trên đây là toàn bộ quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người khởi kiện trong vụ án khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai.
10
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
Tôi xin trân trọng cảm ơn Hội đồng xét xử, những người tham gia tố tụng và những
người có mặt tại phiên tòa đã chú ý lắng nghe.
Xin chân thành cảm ơn!
VI. NHẬN XÉT
1. Ưu điểm, Hạn chế về buổi diễn án :
a. Ưu điểm:
-
Nhìn chung các bạn đã diễn trọn được vai của mình theo từng vai trị, nắm rõ được
nội dung, có sự chuẩn bị chu đáo.
-
Do chủ tọa giảng là người điều hành phiên tòa nên dù 03 lớp nhưng vẫn liền mạch.
Các bạn học viên có sự đầu tư về trang phục cũng như phơng nền góp phần tạo nên
khơng khí buổi xét xử.
-
Do diễn án onl nên không gian kết nối hơn 100 con người mà vẫn thống nhất, quan
sát được biểu cảm cũng như nghe kỹ ngữ điệu của các bạn một cách chân thật và rõ
nét.
b. Hạn chế:
-
Do diễn án online nên các bạn không thể tránh những sai sót, vẫn cịn lúng túng.
Đơi khi mạng không ổn định, âm thanh ngắt khiến đến sự không mạch lạc xuyên
suốt buổi diễn án.
-
Do diễn án onl nên em chưa thật sự cảm nhận được khơng khí tịa án thật sự.
-
Em cảm nhận hơm nay các bạn có đầu tư trang phục, nhưng hầu như ai cũng bận áo
trắng, nên nếu khơng để ý thì khó phân biệt, vị trí mặt 1 số bạn quá gần camera, các
bạn cũng khơng ngồi ngay ngắn trong q trình diễn án mà dể chế độ thư giãn, nên
làm cho không khí khơng được nghiêm trang.
-
Một số bạn khơng làm phơng nền, khi tham gia diễn thì khơng bật cam khi tới lượt
mình, khiến q trình theo dõi khó nhận biết được.
2. Đối tượng cần chứng minh trong vụ án và nhận xét kỹ năng hỏi, kỹ năng
tranh luận của các bên luật sư.
1) Đối tượng cần chứng minh trong vụ án
-
Quyết định số 619/QĐ-UBND ngày 22/2/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh
Hóa;
-
Quyết định số 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 của Chủ tịch UBND thành phố
Thanh Hóa;
11
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
Chứng minh các quyết định trên khơng đúng trình tự, thủ tục ban hành văn bản,
gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của phía bà Mão.
-
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 214324 ngày 31/12/2007 do UBND
huyện Hoằng Hóa cấp cho ơng Hùng, bà Sen.
Chứng minh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nguồn gốc là của bà Mùi, là
tài sản do bà Mùi để lại cho các con, ông Hùng, bà Sen không có quyền định đoạt đối
với tồn bộ tài sản này khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của các đồng thừa kế còn
lại.
2) Kỹ năng hỏi và kỹ năng tranh luận của Luật sư
a. Về kỹ năng hỏi :
Nhìn chung Luật sư 02 bên đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng phần phản biện khiến cho buổi
tranh luận sôi nổi.
-
Luật sư Người Khởi kiện:
+ Các luật sư người khởi kiện không hỏi liên kết các câu hỏi với nhau, dẫn đến bố
cục câu hỏi đi không theo thứ tự và trùng lặp.
+ Các luật sư người khởi kiện đặt câu hỏi cịn rập khn theo hồ sơ, khơng có gì mới;
Khơng có sự xốy sâu vào từng câu hỏi để thể hiện được ý đồ câu hỏi.
+ Luật sư người khởi kiện hỏi có nhiều câu khơng đúng trọng tâm, hỏi thừa.
+ Đội luật sư người bị kiện chưa sắp xếp được trình tự câu hỏi để dẫn dắt ra từng vấn
đề trọng tâm của vụ án dẫn đến việc hỏi không khai thác được hiệu quả cao.
+ Luật sư người khởi kiện nên khai thác hỏi người bị kiện cụ thể là UBND xã Hoằng
Lý bởi quá trình xét xử tơi nhận định đó là kẻ hở dễ khai thác và làm lợi thế cho người
khởi kiện.
- Luật sư Người Bị kiện:
+ Luật sư phía người bị kiện đã có những câu hỏi mới mẻ nhưng khơng vận dụng triệt
để lấn áp người khởi kiện.
+ Luật sư người bị kiện hỏi nhiều câu đã có sẵn trong hồ sơ, không sáng tạo về cách
hỏi để khai thác vấn đề nội dung vụ án.
+ Chưa lập kế hoạch hỏi thống nhất giữa các Luật sư.
+ Phía luật sư bị kiện có sự chuẩn bị tốt hơn so với luật sư người khởi kiện trong phần
xét hỏi với hội thẩm.
+ Luật sư người bị kiện đã có những câu hỏi gài khá hay tạo cơ sở để bảo vệ quyền lợi
của người bị kiện.
-
Luật sư bảo vệ cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Luật sư có sáng tạo trong ý đồ đặt câu hỏi nhưng hỏi xong cũng khơng làm rõ được
vấn đề gì của vụ án.
12
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
+ Luật sư tự nhận bên người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ơng Hùng và bà
Mùi cùng có công ở và tạo dựng miếng đất là rất sai hướng.
+ Luật sư có nhiều hướng khai thác hay, mới mẻ bảo vệ tốt cho quyền lợi của ông
Hùng.
+ Luật sư hầu như hỏi hết các vấn đề trải rộng nên khơng hình dung được luật sư đang
bảo vệ cho ai.
b. Về kỹ năng tranh luận:
-
Luật sư Người Khởi kiện:
+ Lt sư của người khởi kiện khơng cần phân tích diễn giải quyền khởi kiện, vì sẽ
thừa ra, vì khi tòa án thụ lý vụ án là đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi
kiện rồi.
+ Luật sư chưa thực sự linh động để đưa ra các luận cứ theo tình hình xét xử và hồn
cảnh phiên tịa trong q trình tranh luận nên chỉ rập khn theo bài luận cứ đã chuẩn bị
sẵn.
+ Luật sư có sự chuẩn bị chi tiết để tranh luận từ hình thức tới nội dung của quyết định
xử phạt hành vi vi phạm hành chính.
+ Luật sư đã dẫn chiếu các quy định của pháp luật chính xác để đưa ra luận cứ bảo vệ
quyền lợi cho người khởi kiện.
+ Luật sư của người khởi kiện hầu như đã nói hết phần luận cứ của mình ở phần trình
bày phần đầu phiên tòa.
-
Luật sư Người Bị kiện:
+ Luật sư người bị kiện chưa phản bác đầy đủ đối với tranh luận của phía luật sư
người khởi kiện .
+ Luật sư người bị kiện nói lan man dài dịng, khơng xốy sâu vấn đề.
+ Luật sư người bị kiện đã khai thác đầy đủ các chứng cứ chứng minh quyền sử dụng
đất của ông Hùng và việc cấp giấy chứng nhận của người bị kiện là đúng theo quy định
pháp luật.
+ Luật sư người bị kiện đã có những luận cứ sắc bén để phản bác về nội dung giám
định chữ ký của ông Hùng.
+ Luật sư người bị kiện đã phản bác với phía người khởi kiện đúng trọng tâm về
nguồn gốc miếng đất của ông Hùng.
-
Luật sư bảo vệ cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Luật sư khơng nên xốy sâu về vấn đề chữ ký sẽ khơng có lợi cho ơng Hùng
+ Luật sư có dẫn nhiều luật vào luận cứ của mình nhưng lại khơng trực tiếp liên quan
tới nội dung vụ án.
+ Luật sư lại tự nhận định ông Hùng ủy quyền cho người khác ký, trong khi chữ ký là
tên của ông Hùng.
13
Nguyễn Tấn Phát – LS 23.1E - LS.HC 105
+ Luật sư lại đi khai thác về hướng thừa kế, sẽ làm phát sinh thừa kế theo pháp luật,
nếu là cho riêng thì phải có văn bản giấy tờ.
+ Thời hiệu khởi kiện là do tòa án thụ lý và xem xét, không nên đưa ra làm luận cứ
trong bài bảo vệ trên phiên tòa.
+ Thời hiệu khiếu nại là thủ tục hành chính giữa người khởi kiện với người bị kiện,
luật sư của ơng Hùng khơng có liên quan nên khơng cần phải phân tích hay tranh luận
về vấn đề này.
Trên đây là phần nhận xét của Nguyễn Tấn Phát. Do trong quá trình diễn án, em
đang là F0 phải điều trị tại khu cách ly nên sức khỏe không được tốt để tập trung
theo dõi từ đầu đến cuối, ngồi ra trong khu cách ly khơng có mạng nên em chỉ có
thể dùng 3G để theo dõi buổi diễn án, khơng thể tránh được những sai sót, mong
Q Thầy/Cơ thơng cảm cho những khó khăn của em. Em xin cảm ơn Quý
Thầy/Cô.
14