Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích nội dung phân chia rừng, liên hệ thực tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.44 KB, 15 trang )

Phân tích nội dung phân chia rừng, liên hệ thực tế ở Việt Nam


MỤC LỤC


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Rừng có vai trị quan trọng trong mối quan hệ tương tác giữa sinh vật và môi trường
trong hệ sinh thái rừng. Rừng rất quan trọng đối với sự tồn tại của con người và môi
trường, cung cấp gỗ, củi, điều hịa, tạo oxy, kiểm sốt nước, môi trường sống cho động
vật và thực vật, và lưu trữ nguồn gen. hiếm, phịng chống gió bão, chống xói mòn đất,
đảm bảo cuộc sống, bảo vệ sức khỏe con người ... Do đó, tỷ lệ diện tích rừng của một
quốc gia là thước đo an ninh môi trường của quốc gia đó. một lĩnh vực quan trọng
Mối liên hệ giữa rừng và sự sống đã phát triển thành một mối liên hệ hữu cơ.
Khơng một chính phủ hay một quốc gia nào lại không công nhận tầm quan trọng của cây
xanh trong cuộc sống. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương hiện nay, người dân khơng có khả
năng bảo vệ rừng và việc chặt phá bừa bãi khiến cho tài nguyên rừng không thể phục hồi,
vốn đang ngày càng cạn kiệt. Nước mưa tạo ra lũ lụt ở những vùng đồi núi cằn cỗi và sa
mạc, cuốn trôi chất dinh dưỡng và gây ra lũ lụt và sạt lở đất ở đồng bằng, tàn phá tài sản
và cuộc sống. Ý nghĩa của rừng trong việc bảo vệ môi trường đang trở thành một chủ đề
nóng thu hút sự quan tâm của tồn cầu.
Ngồi ra, cây cịn giúp chống lại cát di động ven biển, bảo vệ đất liền, bảo vệ đê
biển, cải tạo các vùng chua, cung cấp gỗ, lâm sản và rừng sinh cảnh. Nhiều loài động vật
gọi nơi này là nhà. Động vật rừng cung cấp thực phẩm, cây thuốc, nguồn gen có giá trị và
các sản phẩm xuất khẩu sinh lợi như lông thú và sừng động vật.
Rừng được chính phủ Việt Nam coi trọng như một nguồn tài nguyên thiên nhiên
quan trọng góp phần vào sự phát triển và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Rừng
đóng một vai trị quan trọng trong việc thích ứng với biến đổi khí hậu bằng cách cung cấp
các dịch vụ mơi trường như chống xói mịn và lưu thơng nước. Các chất dinh dưỡng cũng
có thể được tìm thấy trong rừng và lâm sản ngồi gỗ. Rừng có thể có một chức năng xã
hội bằng cách giúp cung cấp việc làm và tạo ra tiền. Hiện nay có khoảng 25 triệu người


Việt Nam có 20%-40% thu nhập hàng năm đến từ rừng. Vai trò của rừng cũng được thể
hiện ở vùng sâu vùng xa, vùng cao nơi 10% dân cư sống bên trong hoặc gần các khu rừng
(diện tích xấp xỉ 12 triệu hecta) là người nghèo hoặc người dân tộc thiểu số


Rừng được theo dõi qua nhiều chỉ số bao gồm độ tàn che, đất rừng, diện tích che
phủ cây. Khơng phải tất cả các tổ chức theo dõi đều sử dụng tồn bộ các chỉ số, mỗi tổ
chức có thể định nghĩa chỉ số theo cách khác nhau. Ngân hàng thế giới, thu thập dữ liệu
từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp thế giới (FAO), sử dụng chỉ số “đất rừng” và
định nghĩa như sau “Đất rừng là đất nằm dưới các cây tự nhiên hoặc cây được trồng tại
chỗ có chiều cao 5m, dù có được sản xuất hay khơng, ngoại trừ các cây nằm trong nhóm
sản xuất nơng nghiệp (ví dụ cây ăn quả và hệ thống nông lâm kết hợp) và cây trong công
viên đô thị hoặc trong vườn”. Tổ chức Global Forest Watch sử dụng chỉ số “tỷ lệ che phủ
cây” và định nghĩa nó là “sự hiện diện sinh lý của cây và có thể ở dạng rừng tự nhiên
hoặc rừng trồng tồn tại trên một loạt mật độ tán”. Chính phủ Việt Nam, thay vào đó, sử
dụng khái niệm tỷ lệ che phủ rừng, được định nghĩa là phần trăm đất rừng hiện tại so với
đất tự nhiên trên toàn quốc, trên một lãnh thổ hoặc một địa phương tại một thời điểm nhất
định. Sự khác biệt về định nghĩa ảnh hưởng quan trọng tới cách giải thích dữ liệu, cũng
như phân tích đóng góp của rừng trong việc giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu vì
các dịch vụ hệ sinh thái cho rừng tự nhiên khác với dịch vụ hệ sinh thái cho rừng trồng
lại.
Theo FAO, Việt Nam từng là nước có tỷ lệ đất rừng và trữ lượng gỗ bình qn đầu
người thấp nhất trên tồn cầu.10 Trong giai đoạn 1943-1995, Việt Nam ghi nhận tỷ lệ che
phủ rừng giảm từ 43% xuống còn chỉ 27,2%11 Từ năm 2001 đến 2017, Global Forest
Watch (GFW) thống kê 10 vùng trên cả nước chịu trách nhiệm cho 29% diện tích rừng
đã mất, bao gồm rừng tự nhiên và rừng trồng lại, trong đó tỉnh Bình Dương là tỉnh có tỷ
lệ che phủ cây tương đối giảm nhiều nhất, ở mức 59% so với tỷ lệ bình quân cả nước là
13%.12 GFW cũng ghi nhận trong thời gian từ 2001 đến 2012, Việt Nam cũng đã tăng
diện tích che phủ cây lên 564.000 ha tương đương 0,7% trên toàn cầu.13 Nếu áp dụng
định nghĩa từ Ngân hàng thế giới, diện tích rừng năm 2016 chiếm 47,6% tổng diện tích

đất tồn Việt Nam,14 trong đó bao gồm 10 triệu ha rừng tự nhiên từ năm 2006, chiếm
70% tổng diện tích rừng trên cả nước. Và phân loại rừng là một công tác rất quan trọng
trong quản lý tài nguyên rừng của mỗi quốc gia.


PHẦN 2: NỘI DUNG
Để giúp cho công tác quản lý và lập kế hoạch lâm nghiệp dễ dàng hơn, chính phủ
Việt Nam đã tạo ra một hệ thống phân loại rừng và đất sản xuất trong lâm nghiệp theo các
mục đích như:


Rừng đặc dụng: Là loại rừng được thành lập với mục đích chủ yếu để bảo tồn thiên
nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng, nghiên cứu
khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh phục vụ nghỉ ngơi du lịch kết hợp
với phịng hộ bảo vệ mơi trường sinh thái.



Rừng phịng hộ: Là rừng được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống
xói mịn, chống sa mạc hóa, hạn chế thiên tai, điều hịa khí hậu, bảo vệ mơi trường.



Rừng sản xuất: Là rừng được dùng chủ yếu trong sản xuất gỗ, lâm sản, đặc sản.
2.1 Phân chia rừng
2.1.1 Phân chia rừng theo lãnh thổ
Diện tích tài nguyên rừng rất lớn là một trong những đặc điểm của các mặt hàng sản
xuất lâm nghiệp. Có nhiều lồi cây khác nhau, một số loại trạng thái rừng và sự phân bố
rất phức tạp dựa trên hoàn cảnh tự nhiên và tác động của con người đối với khu vực rộng
lớn đó. Do đó, bước đầu tiên để tổ chức sản xuất lâm nghiệp đúng kế hoạch và đảm bảo

tài nguyên rừng được tiếp tục sử dụng lâu dài là chia rừng theo vùng.
Việc phân vùng rừng theo lãnh thổ được thực hiện một cách bài bản hay ngẫu nhiên,
tùy thuộc vào mức độ thương mại rừng và có liên quan trực tiếp đến quy hoạch quản lý.
chế biến rừng, Do đó, trước tiên chúng ta phải hiểu các khái niệm về cường độ kinh
doanh rừng và phân cấp quy hoạch rừng trước khi đưa ra nội dung của công việc này.
Tại thời điểm này, khơng có tiêu chuẩn được cơng nhận và ổn định để đánh giá
cường độ kinh doanh rừng. Theo một số người, mục tiêu phải được đặt ra tùy thuộc vào
số lượng trồng rừng và tái sinh rừng. Người ta đề xuất rằng nó nên phụ thuộc vào trình độ
phát triển của giai đoạn khai thác và thiết bị công nghệ. Một số người đề xuất cho rằng
nên sử dụng các kỹ thuật thương mại để khai thác rừng và dựa trên mức độ thu được từ
rừng của đối tượng lập kế hoạch.


Phân chia rừng theo lãnh thổ thực chất là việc quy hoạch về mặt địa lý cho toàn bộ
đối tượng quy hoạch lâm nghiệp phục vụ công tác thống kê số chất lượng tài nguyên
rừng, tổ chức và quản lý kinh doanh rừng.
Toàn bộ đối tượng quy hoạch rừng được chia thành các đơn vị có quy mơ từ lớn đến
nhỏ, có xác định khu vực, ranh giới rõ ràng, có tính tốn đến số liệu thống kê, quy hoạch
và quản trị kinh doanh. Khi chia tách, điều quan trọng là phải tuân theo khái niệm đã đề
cập ở trên, đồng thời dựa trên việc phân chia theo cấp quy hoạch lâm nghiệp đã chọn để
giữ cho khu vực được kiểm soát. Nếu đối tượng quy hoạch lâm nghiệp là một khu vực
lớn (một khu kinh tế, một Tập đoàn hay một Tổng công ty) đầu tiên cần phân chia thành
các Công ty Lâm nghiệp (thay thế lâm trường quốc doanh theo Nghị định số
200/2014/NĐ-CP), trong Công ty lâm nghiệp chia thành các đơn vị nhỏ hơn nữa là các
phân trường (đội sản xuất),tiểu khu, khoảng và lô.
1. Công ty Lâm nghiệp (được chuyển đổi từ Lâm trường): là đơn vị cơ sở của tổ
chức sản xuất lâm nghiệp. Thường nằm trọn trên địa bàn một tỉnh, hoặc một huyện. Công
ty là đơn vị để lập kế hoạch sản xuất và hạch tốn kinh tế độc lập.
Diện tích Cơng ty Lâm nghiệp thông thường khoảng 10.000 ha. Đối với rừng phòng
hộ, đặc dụng: Ban quản lý các khu rừng phòng hộ, đặc dụng có phạm vi ranh giới thơng

thường cũng chỉ nằm trong phạm vi địa giới của một tỉnh. Tuy nhiên, cũng có nhiều
trường hợp theo yêu cầu về chức năng nhiệm vụ và điều kiện cụ thể một khu rừng phịng
hộ hoặc một khu rừng đặc dụng, có thể nằm trên địa bàn một số tỉnh gần nhau. Diện tích
các khu rừng phịng hộ, đặc dụng thường từ 10.000 đến 30.000 ha hoặc hơn, thậm chí có
trường hợp tới hàng trăm nghìn ha.
2. Phân trường (Đội sản xuất - Trạm lâm nghiệp): là đơn vị trực thuộc Công ty Lâm
nghiệp, có nhiệm vụ quản lý kinh doanh và thực hiện kế hoạch sản xuất trong phạm vi
quản lý. Thường nằm trên địa bàn một huyện, có thể là một xã hoặc một số xã trong một
huyện tùy điều kiện tài nguyên rừng. Căn cứ để phân chia:
- Dựa vào địa hình địa thế;
- Nên bao quát một phần đường vận chuyển chính hay đường nhánh của lưới đường
vận chuyển trong công ty;


- Tài nguyên rừng trong một phân trường - Đội sản xuất cũng cần cố gắng đảm bảo
cho việc sản xuất kinh doanh tương đối ổn định.
Diện tích tùy theo chức năng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh cụ thể, thường khoảng
5.000 ha.
Với các khu rừng phòng hộ và đặc dụng: Tương ứng với đối tượng này thường là
các trạm kiểm lâm, trạm bảo vệ rừng. Diện tích các trạm có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn tùy
thuộc điều kiện cụ thể của khu vực.
3. Tiểu khu: Nằm trong địa bàn một xã, là đơn vị quản lý tài nguyên rừng cơ sở,
thường bao quát một lưu vực suối nhỏ. Diện tích trung bình khoảng 1.000 ha.
4. Khoảnh: Nằm trong tiểu khu, là đơn vị cơ sở để tổng hợp thống kê tài nguyên
rừng và tổ chức sản xuất. Diện tích khoảnh tùy thuộc theo cấp bậc quy hoạch lâm nghiệp,
thường từ 50 - 100 ha. Khoảnh là đơn vị tổ chức sản xuất nên cần có khả năng bao quát
về mặt địa hình và thuận lợi cho việc thực hiện các nội dung sản xuất.
Phân chia khoảnh thường kết hợp 3 phương pháp:
- Phân chia nhân tạo: Cách tiếp cận này chia rừng thành các ơ có ranh giới thẳng,
dạng nhất quán và các khu vực đồng nhất bằng cách sử dụng ranh giới nhân tạo. Kiểm kê,

tính tốn diện tích và thiết kế kỹ thuật đều được thực hiện dễ dàng hơn. Tuy nhiên, cách
làm này chỉ thích hợp với những địa hình bằng phẳng;
- Phân chia tự nhiên: Các đường viền tự nhiên của ô, chẳng hạn như các đường và
khe có bão, thường được sử dụng trong phương pháp phân chia này. Kích thước và hình
thức của lơ đất được xác định bởi địa hình, do đó nó thay đổi đáng kể. Chỉ cách tiếp cận
phân chia này mới có thể mang lại sự ổn định và xác định đơn giản ở những vị trí mà
cảnh quan phức tạp và bị chia cắt nhiều;
- Phân chia khoảnh tổng hợp: Nó là sự kết hợp giữa hai cách tiếp cận nêu trên. Cách
tiếp cận nhân tạo nên được sử dụng khi địa hình đơn giản, cịn cách tiếp cận tự nhiên nên
được sử dụng ở những nơi địa hình khó khăn, tận dụng cả những giới hạn tự nhiên và
nhân tạo ổn định lâu dài.
4. Lô: Là đơn vị cơ bản để tiến hành thống kê diện tích, số lượng, chất lượng tài
ngun rừng. Lơ là đơn vị đồng nhất về kiểu trạng thái rừng hoặc dạng lập địa. Tính


thống nhất về các yếu tố tự nhiên và lâm học trong lô là cao nhất. Trong một lô chỉ áp
dụng một biện pháp kinh doanh hoặc gây trồng cùng một loại hình rừng trồng.
Diện tích lơ tùy thuộc vào cấp bậc quy hoạch lâm nghiệp, thường biến động từ 1 10 ha. Căn cứ phân chia lô: căn cứ vào các yếu tố chủ yếu sau:
- Các yếu tố về điều kiện đất đai, địa hình: loại đất, độ cao, độ dốc, hướng phơi...;
- Các yếu tố về tài nguyên rừng, từng bộ phận tài nguyên rừng khác nhau thì có
những căn cứ khác nhau:
+ Rừng gỗ tự nhiên lá rộng;
+ Rừng trồng, rừng cây gỗ lá kim hay rừng nước mặn;
+ Rừng tre nứa;
+ Đất trồng rừng.
Phương pháp phân chia lơ:
- Nếu có ảnh viễn thám: Nếu hạng mục quy hoạch nằm trong khu vực có máy bay
hoặc ảnh vệ tinh, thì điều cần thiết là sử dụng phương pháp chia ô để vẽ trên ảnh, chỉnh
sửa bằng khảo sát thực địa, sau đó quay lại bản đồ cơ sở.;
- Khơng có ảnh: Vẽ đồ thị được thực hiện trên thực địa bằng cách sử dụng tuyến

khảo sát hoặc phương pháp tiếp cận độ dốc ngược lại ở những vùng khơng có ảnh mặt
phẳng. Cần có một bản đồ chính xác để vẽ thực địa. Phương pháp tiếp cận độ dốc đối lập
có thể được sử dụng nếu cảnh quan được nhận biết rõ ràng với góc nhìn dài, mặc dù độ
chính xác của phương pháp này khơng lớn. Phương pháp vẽ biểu đồ theo tuyến khảo sát
được sử dụng ở những vị trí cần độ chính xác cao như địa hình phức tạp, bị chia cắt
nhiều, tầm nhìn hạn chế.
2.1.2 Phân chia rừng theo hiện trạng thảm che
Việc tổ chức tài nguyên rừng trong một đối tượng điều chế rừng thường khá phức
tạp. Một số là gỗ tự nhiên, một số là rừng nhân tạo, một số là rừng gỗ, nhưng một số là
rừng tre, nứa hoặc rừng đặc sản. Có những vùng đất khơng có cây cối nằm rải rác khắp
các vùng có rừng. Điều quan trọng là thực hiện phân chia rừng theo hiện trạng độ che phủ
nhằm phản ánh trạng thái cấu trúc phức tạp cũng như sự phong phú của tài nguyên rừng


trong đối tượng, làm cơ sở cho việc xác lập mục tiêu, cân đối sử dụng đất và đề xuất các
phương pháp quản lý rừng.
Có nhiều quan điểm phân chia rừng theo hiện trạng thảm che khác nhau. Một trong
những hệ thống phân chia được sử dụng khá phổ biến là phân chia trạng thái rừng gỗ tự
nhiên của Loetschau năm 1963, tóm tắt như sau:
- Kiểu trạng thái I: Đặc trưng của kiểu trạng thái này là đất chưa có rừng, tùy theo
tình trạng thực bì có cỏ, cây bụi hay có cây rải rác, cây gỗ tái sinh mà chia ra IA, IB và
IC;
- Kiểu trạng thái II: Đặc trưng của kiểu trạng thái này là rừng non phục hồi sau
nương rẫy hay sau khai thác trắng (kiệt). Tùy theo đường kính của cây rừng trong lâm
phần to hay nhỏ, có cây gỗ lớn hay khơng mà chia ra IIA, IIB;
- Kiểu trạng thái III: Đặc trưng là rừng đã bị tác động. Tùy theo mức độ bị tác động
và phục hồi khác nhau chia ra IIIA, IIIB; trong trạng thái IIIA còn chia thành IIIA1, IIIA2
vàIIIA3;
- Kiểu trạng thái IV: Đặc trưng là rừng chưa bị tác động. Tùy theo nguồn gốc của
rừng chia ra IVA và IVB.

Phân chia rừng ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau khi ngành lâm
nghiệp phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn. Trước đây, ngành lâm nghiệp đã sử dụng
hệ thống phân loại rừng của Loetschau từ năm 1963 cho phù hợp với điều kiện đặc thù
của Việt Nam, với những thay đổi nhỏ dựa trên tình trạng tài nguyên rừng và tốc độ tăng
trưởng của ngành lâm nghiệp tại thời điểm đó. Các hệ thống phân chia rừng được quy
định chi tiết cụ thể trong các quy trình kỹ thuật điều tra, thống kê tài nguyên rừng, thiết
kế kinh doanh rừng, quy hoạch rừng và trong các thơng tư hướng dẫn của ngành,
trong đó có Thơng tư số 34/2009/TT-BNNPTNT ngày 10/6/2009 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn.
Đặc biệt gần đây, Luật Lâm nghiệp năm 2017 ra đời và kèm theo đó là hàng loạt các
Nghị định và Thông tư hướng dẫn thi hành luật được ban hành đã có những hướng dẫn
rất chi tiết, cụ thể việc thực hiện các nội dung của Luật Lâm nghiệp 2017, trong đó có


Thông tư số 33/2018/TT-BNNPTNT ngày16/11/2018 quy định về điều tra, kiểm kê và
theo dõi diễn biến rừng.
Nội dung cơ bản những quy định liên quan đến rừng và phân chia rừng theo Luật
Lâm nghiệp năm 2017 cụ thể như sau:
*Khái niệm về rừng:
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm các loài thực vật rừng, động vật rừng, nấm, vi
sinh vật, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó thành phần chính là một hoặc
một số lồi cây thân gỗ, tre, nứa, cây họ cau có chiều cao được xác định theo hệ thực vật
trên núi đất, núi đá, đất ngập nước, đất cát hoặc hệ thực vật đặc trưng khác; diện tích liên
vùng từ 0,3 ha trở lên; độ tàn che từ 0,1 trở lên.
*Các quy định về phân chia rừng:
(1) Phân chia rừng theo nguồn gốc hình thành


Rừng tự nhiên, bao gồm:
- Rừng ngun sinh;

- Rừng thứ sinh, bao gồm: rừng thứ sinh phục hồi và rừng thứ sinh sau khai thác.



Rừng trồng được phân theo loài cây, cấp tuổi, bao gồm:
- Rừng trồng mới trên đất chưa có rừng;
- Rừng trồng lại;
- Rừng tái sinh tự nhiên từ rừng trồng sau khai thác.
(2) Phân chia rừng theo điều kiện lập địa




Rừng núi đất, bao gồm: rừng trên các đồi, núi đất.
Rừng núi đá, bao gồm: rừng trên núi đá hoặc trên những diện tích đá lộ đầu khơng
có hoặc có rất ít đất trên bề mặt.



Rừng ngập nước thường xuyên hoặc định kỳ, bao gồm:
- Rừng ngập mặn, bao gồm: rừng ven bờ biển và các cửa sơng có nước triều mặn

ngập
thường xun hoặc định kỳ;
- Rừng ngập phèn, bao gồm: diện tích rừng trên đất ngập nước phèn, nước lợ;
- Rừng ngập nước ngọt thường xuyên hoặc định kỳ;


- Rừng đất cát, bao gồm: rừng trên các cồn cát, bãi cát.
(3) Phân chia rừng theo lồi cây



Rừng gỗ, chủ yếu có các lồi cây thân gỗ, bao gồm:
- Rừng cây lá rộng, bao gồm: rừng lá rộng thường xanh, rừng lá rộng rụng lá và

rừng
lá rộng nửa rụng lá;
Rừng cây lá kim;
- Rừng hỗn giao cây lá rộng và cây lá kim.




Rừng tre nứa.
Rừng hỗn giao gỗ - tre nứa và rừng hỗn giao tre nứa - gỗ.
Rừng cau dừa.
(4) Phân chia rừng tự nhiên theo trữ lượng



Đối với rừng gỗ, bao gồm:
- Rừng giàu: Trữ lượng cây đứng lớn hơn 200 m3/ha;
- Rừng trung bình: Trữ lượng cây đứng từ lớn hơn 100 đến 200 m3/ha;
- Rừng nghèo: Trữ lượng cây đứng từ lớn hơn 50 đến 100 m3/ha;
- Rừng nghèo kiệt: Trữ lượng cây đứng từ 10 đến 50 m3/ha;
- Rừng chưa có trữ lượng: Trữ lượng cây đứng dưới 10 m3/ha.



Đối với rừng tre nứa: Rừng được phân theo lồi cây, cấp đường kính và cấp mật

độ; phân chia chi tiết theo quy định tại Phụ lục I kèm theo Thơng tư này.
(5) Diện tích chưa có rừng



Diện tích có cây gỗ tái sinh đang trong giai đoạn khoanh ni, phục hồi để thành
rừng.




Diện tích đã trồng cây rừng nhưng chưa đạt các tiêu chí thành rừng.
Diện tích khác đang được sử dụng để bảo vệ và phát triển rừng.
2.1.3 Phân chia rừng theo ý nghĩa kinh tế
Tất cả chúng ta đều nhận thức được tác động tích cực của rừng đối với nền kinh tế

quốc dân và đời sống của người dân. Đối với nhu cầu của con người và kinh tế, rừng
cung cấp các sản phẩm như gỗ, tre, nứa và các loại đặc sản. Rừng tạo ra nhiều cảnh quan


đa dạng để thu hút du khách, bảo vệ môi trường sống, bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên của
các lồi động thực vật. Giữ đất, điều tiết nước, phịng chống lụt bão đều là lợi ích của
rừng. Với ý nghĩa rộng lớn như vậy, cần có hướng sử dụng hợp lý nhất đối với rừng để
tối ưu hóa tác động của nó đối với con người và mơi trường. Việc phân loại rừng theo ý
nghĩa kinh tế hay còn gọi là phân loại kinh tế rừng là cơ sở để định hướng sử dụng rừng.
Do hậu quả kinh tế của rừng rất đa dạng và phức tạp, ý tưởng phân chia và cơ sở để phân
chia rừng theo nghĩa kinh tế cũng khác nhau. Theo những người khác, việc phân loại kinh
tế rừng phải dựa trên các mục tiêu thương mại để rừng có tác động kinh tế lớn nhất. Theo
quan điểm này người ta thường phân chia toàn bộ diện tích rừng thành bốn loại:
- Rừng kinh tế;

- Rừng đặc dụng;
- Rừng phòng hộ;
- Rừng nửa phòng hộ.
Theo quan điểm chun mơn hóa việc sản xuất theo vùng có quan điểm lại cho rằng
nên phân rừng theo khu vực kinh tế. Theo cách đó ta có:
- Rừng kinh doanh gỗ lớn;
- Rừng kinh doanh gỗ nhỏ;
- Rừng kinh doanh tre nứa;
- Rừng kinh doanh đặc sản.
Ở Việt Nam, việc phân chia rừng theo ý nghĩa kinh tế cũng đã trải qua nhiều thời kỳ
khác nhau:
- Năm 1961 chia ra 4 loại: rừng đặc dụng, rừng kinh tế, rừng phòng hộ và rừng nửa
phòng hộ;
- Năm 1986: Bộ Lâm nghiệp ban hành quyết định số 1171/QĐ-BLN ngày
30/12/1986 phân chia tồn bộ diện tích rừng thành ba loại chính: rừng đặc dụng, rừng
phòng hộ và rừng sản xuất;
- Luật Lâm nghiệp 2017 tiếp tục hệ thống phân chia ba loại rừng (đặc dụng, phòng
hộ, sản xuất) và quy định chi tiết các loại rừng trong 3 loại rừng nêu trên.
2.1.4 Phân chia rừng theo hình thức sở hữu


Trong bất kỳ cơ cấu kinh tế - xã hội nào, phương thức sở hữu tư liệu sản xuất là yếu
tố quyết định quan hệ sản xuất. Tài nguyên rừng, chẳng hạn như rừng và đất rừng, là tư
liệu sản xuất chính của ngành lâm nghiệp. Chế độ sở hữu tư nhân về rừng và đất lâm
nghiệp tồn tại trong xã hội tư bản, chế độ này hỗ trợ lợi ích của nhà tư bản và do nhà tư
bản quyết định.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tất cả đất đai, kể cả đất rừng, thuộc sở hữu
toàn dân và do nhà nước quản lý. Nhà nước giao đất cho các công ty, nhân dân và các
thành phần kinh tế quản lý, sử dụng theo quy hoạch và pháp luật nhằm bảo đảm sử dụng
đất tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ đất đai và môi trường. Trong trường hợp rừng thường gắn

liền với đất rừng, hệ thống quản lý và sở hữu của Việt Nam đã được cải thiện theo từng
giai đoạn phát triển.
Do địa bàn sản xuất lâm nghiệp rất rộng lớn, mặt khác phát triển nghề rừng phải gắn
liền với phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn miền núi. Hay nói cách khác nghề rừng là
một nghề mang tính chất xã hội cao. Vì vậy từ năm 1982 trong quyết định số 184/HĐBT
và chỉ thị 29/CT/TW, Nhà nước đã chính thức giao quyền sử dụng rừng và đất rừng cho
các thành phần kinh tế khác nhau: Quốc doanh, tập thể và hộ gia đình thơng qua việc đẩy
mạnh công tác giao đất giao rừng.
Nhu cầu chiến lược của việc sử dụng và phân bổ lại lao động được đáp ứng bằng
cách phân cấp quản lý địa phương, thực hiện giao đất lâm nghiệp, lồng ghép và sử dụng
hiệu quả hàng triệu ha rừng và đất trống, đồi núi trọc. thúc đẩy chuyển biến cơ bản kinh
tế - xã hội miền núi, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, gắn
lao động với đất đai, tạo chuyển biến mới trong sản xuất nông - lâm nghiệp, thúc đẩy
chuyển biến cơ bản kinh tế - xã hội miền núi, củng cố quốc phòng. Chuyển dịch cơ cấu
sản xuất lâm nghiệp, gắn lâm nghiệp với nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt là công
nghiệp chế biến và tạo ra nhiệm vụ sở hữu riêng của từng đơn vị sản xuất và cá nhân
được gọi là giao đất, giao rừng. lao động trên một đơn vị diện tích đất, từng bước chuyển
đổi lâm nghiệp từ tình trạng hỗn loạn sang một doanh nghiệp có tổ chức và có kế hoạch.
Đơn vị được giao đất, giao rừng có quyền sở hữu, sử dụng đất, rừng nhưng phải tổ chức


sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch chung trong ranh giới của cấp quản lý cụ thể. Đặc biệt
gần đây, Luật Lâm nghiệp năm 2017 và các văn bản dưới luật được ban hành,.
2.1.5 Phân chia rừng theo phân bố tự nhiên
Mỗi khu rừng có sự phân bố tự nhiên riêng, với địa hình, hồn cảnh lập địa, lồi
cây, dạng hỗn giao và tuổi rừng đều khác nhau. Do đó, các khu rừng phải được tách biệt
dựa trên những sự khác biệt đó để lập kế hoạch đưa ra các chiến lược giảm thiểu tác động
phù hợp và hiệu quả.
- Theo sự phân bố tự nhiên thường phân chia rừng theo: Loài cây, cấp tuổi;
- Theo dạng hỗn giao thường chia thành: Rừng thuần loại, rừng hỗn giao;

- Theo mức độ hỗn giao, thường phân thành: Hỗn giao từng cây, hỗn giao theo cụm,
hỗn giao theo khóm, hỗn giao theo băng, hỗn giao theo đám;
- Theo giá trị các loài cây hỗn giao, thường phân thành: Hỗn giao cùng giá trị, hỗn
giao không cùng giá trị, hỗn giao ưu thế, hỗn giao phù trợ;
- Theo thời gian hỗn giao, phân thành: Hỗn giao cố định, hỗn giao tạm thời.


PHẦN 3: KẾT LUẬN
Màu xanh của trái đất đang nhanh chóng bị thu hẹp lại do kết quả của quá trình
cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa. Tuy nhiên, vẫn cịn rất nhiều loại gỗ khổng lồ được ví
như lá phổi xanh của hành tinh. Rừng, như chúng ta đều biết, đóng một vai trị quan trọng
trong việc bảo vệ môi trường. Chúng ta phải bảo tồn và phát triển các loại gỗ bổ sung để
ngăn chặn sự tàn phá môi trường sống của chúng ta. Liên Hợp Quốc đã chỉ định năm nay
là Năm Quốc tế về Rừng, với mục tiêu khuyến khích tăng trưởng rừng bền vững và ngăn
chặn suy thoái và tàn phá rừng. Liên Hợp Quốc đã chỉ định Ngày Môi trường Thế giới là
“Rừng: giá trị cuộc sống từ thiên nhiên” để hưởng ứng Năm Quốc tế về Rừng, nhằm
nhấn mạnh tầm quan trọng của rừng đối với sự sống và hệ sinh thái, cũng như nâng cao
nhận thức về nạn phá rừng và suy thoái rừng, để mỗi chúng ta hiểu được giá trị của rừng.
Việc phân loại rừng cũng là một trách nhiệm cần thiết trong quản lý tài nguyên rừng của
mỗi quốc gia. Từ xa xưa, việc phân loại rừng ở Việt Nam gắn liền với lịch sử sử dụng và
phát triển rừng.



×