Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận môn các mô hình tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.85 KB, 21 trang )

0

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
NỘI DUNG.........................................................................................................3
Chương 1: Lý luận chung về mô hình tăng trưởng kinh tế...........................3
1.1. Các nghiên cứu về mơ hình tăng trưởng......................................................3
1.2. Lý luận về mơ hình tăng trưởng...................................................................4
1.3. Mơ hình tăng trưởng kinh tế Solow..............................................................5
Chương 2: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới...........................6
2.1. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời kỳ cải cách kinh tế......................7
2.2. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong thời
gian tới................................................................................................................11
2.3. Một số đề xuất và kiến nghị, các chính sách để thực hiện mơ hình tăng
trưởng của R. Solow............................................................................................13
KẾT LUẬN........................................................................................................16
Tài liệu tham khảo...............................................................................................17

0



1

LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu của tất cả mọi quốc gia. Tuy nhiên, tăng
trưởng phải dựa trên những nguồn lực nào? Đặc biệt tăng trưởng phải gắn với
phát triển bền vững, công bằng xã hội, an ninh,... ln là một câu hỏi lớn.
Khi nói về tăng trưởng kinh tế, James Tobin cho rằng : "Vấn đề tăng
trưởng hồn tồn khơng có gì mới mẻ, chẳng qua chỉ là chiếc áo mới được
khoác cho một vấn đề muôn thủa, luôn luôn được kinh tế học quan tâm nghiên


cứu, đó là sự lựa chọn giữa hiện tại và tương lai". Còn theo Pramit Chaudhuri,
Economic theory of Growth, 1989; “Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên của sản
lượng hàng hoá và dịch vụ mà sự tăng lên này được duy trì trong thời gian dài”.
Tăng trưởng kinh tế là việc tăng sản lượng quốc gia và sản phẩm bình
quân theo đầu người; là việc mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất, tức là tăng
GDP (Gross Domestic Prduct) hoặc GNP (Gross National Prduct) của một nước
(ngày nay người ta đã thay GNP bằng GNI là tổng thu nhập quốc gia).
Tăng trưởng kinh tế là việc tăng sản lượng quốc gia và sản phẩm bình
quân theo đầu người; là việc mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất, tức là tăng
GDP (Gross Domestic Prduct) hoặc GNP (Gross National Prduct) của một nước
(ngày nay người ta đã thay GNP bằng GNI là tổng thu nhập quốc gia).
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm đối
với mọi quốc gia trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao sẽ tạo tiền đề thuận lợi
cho một nước nâng cao khả năng cạnh tranh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đồng
thời có nguồn lực dồi dào cho việc giải quyết vấn đề phúc lợi cơng cộng như
giáo dục, y tế và xố đói giảm nghèo.
Ở Việt Nam, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn đề cập đến vấn đề tăng trưởng và phát triển
kinh tế với mục tiêu: “ phấn đấu thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” mà điều kiện tiên quyết để thực hiện là phải phấn đấu
tăng trưởng kinh tế nhanh, mạnh và vững chắc, gắn tăng trưởng với tiến bộ,
công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Để có thể nghiên cứu một cách có hệ thống từ lý thuyết đến thực tiễn,
cần phải khảo cứu nhiều mơ hình tăng trưởng kinh tế. Cho đến nay, trên thế giới
có rất nhiều mơ hình tăng trưởng kinh tế, như các mơ hình tăng trưởng cổ điển,
tân cổ điển, mơ hình tăng trưởng hiện đại. Nhưng, ở đây tơi chỉ đề cập đến mơ
hình tăng trưởng kinh tế của R.Solow, dưới góc độ đánh giá các nguồn lực và so



2

sánh, đối chiếu vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Từ đó đề xuất giải pháp chủ
yếu và gợi ý chính sách vĩ mơ để huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, thực hiện thành công sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hố đất nước.
* Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu: Phân tích mơ hình tăng trưởng kinh tế của Solow đối chiếu,
so sánh với một số mơ hình khác.
Đề xuất các khả năng áp dụng mơ hình để đánh giá tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa một số mơ hình tăng trưởng kinh tế.
+ Phân tích, đánh giá, so sánh mơ hình tăng trưởng kinh tế của Solow
với các mơ hình tăng trưởng kinh tế.
+ Luận chứng giải pháp chủ yếu nhằm ứng dụng mơ hình tăng trưởng
kinh tế Solow vào đánh giá tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dưới góc độ vĩ mơ, kết hợp nghiên cứu lý thuyết với
khảo sát, đánh giá thực tiễn. Do đó, ngồi những phương pháp chung còn sử
dụng các phương pháp như sau:
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh tham chiếu, kinh tế ước
lượng.
* Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
2 chương:
Chương 1: Lý luận chung về mơ hình tăng trưởng kinh tế
Chương 2: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới



3

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ
MƠ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. Các nghiên cứu về mơ hình tăng trưởng
Trong lịch sử đã có nhiều tác giả nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế với
các mơ hình lý thuyết kinh điển, như:
Mơ hình giản đơn Harrod - Domar của trường phái Keynes, lần đầu tiên
đã lượng hóa được mối quan hệ của tiết kiệm, tích lũy vốn với tăng trưởng kinh
tế 17 Theo mơ hình "Harrod - Domar" để tăng trưởng, các nền kinh tế phải tiết
kiệm và đầu tư một phần thu nhập của mình. Tiết kiệm và đầu tư càng nhiều thì
tăng trưởng càng nhanh và chính mơ hình này đã trở thành cơ sở của chiến lược
tích lũy vốn nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước sau Chiến tranh Thế
giới lần thứ hai.
Mơ hình tăng trưởng Tân cổ điển (của Solow và Swan, năm 1956). Nếu
như mơ hình Harrod - Domar ngun bản chỉ xét đến vai trị của vốn sản xuất
(thơng qua tiết kiệm và đầu tư) đối với tăng trưởng, thì theo mơ hình Solow tăng
trưởng về mặt sản lượng được phân ra thành: tăng trưởng thông qua tăng các
yếu tố đầu vào (lao động, vốn) và tăng trưởng thông qua tăng năng suất. Mơ
hình này cho rằng, trong dài hạn do khơng thể tăng mãi đầu vào lao động, đồng
thời cũng gặp phải lợi tức cận biên giảm dần nếu tiếp tục tăng thêm vốn vào quá
trình sản xuất, nên một nền kinh tế cần dựa vào tiến bộ công nghệ và hiệu quả
lao động để có thể nâng cao mức sống người dân một cách bền vững. Tuy vậy,
hạn chế lớn nhất của mơ hình Tân cổ điển là giả định tốc độ tăng hiệu quả của
lao động được xác định một cách ngoại sinh.
Mơ hình tăng trưởng nội sinh: Gọi là mơ hình tăng trưởng nội sinh vì các
lý thuyết của trường phái này đã cố gắng "nội sinh hóa" một số biến đầu vào của
tăng trưởng. Các đại biểu như Robert E. Lucas, Romer, Becker, Barro đều cho
rằng vốn con người có tỷ suất sinh lời khơng giảm và sai biệt tăng trưởng giữa

các quốc gia được giải thích rất nhiều bởi sự chênh lệch không chỉ về hiệu quả
đầu tư mà chủ yếu lại thuộc về vốn tri thức và vốn nhân lực. Như vậy, mơ hình
tăng trưởng nội sinh đã quay trở về vai trò của vốn đầu tư, với tư cách là một
thành tố quyết định tăng trưởng, nhưng khái niệm vốn đã được khái quát bao
gồm cả vốn con người hoặc bằng cách khai thác những hiệu ứng năng suất và
công nghệ "bao hàm" trong đầu tư và do đó lý thuyết tăng trưởng nội sinh hầu
như đã loại bỏ giới hạn lợi tức cận biên giảm dần đối với vốn. Trong mơ hình
tăng trưởng nội sinh, tăng năng suất có được từ tích lũy vốn con người hay các
hoạt động phát minh sáng chế là yếu tố tạo nên tăng trưởng dài hạn của thu nhập


4

bình qn đầu người. Do đó, tăng năng suất - "làm việc thông minh hơn" chứ
không phải là "làm việc chăm chỉ hơn" - là yếu tố thiết yếu của tăng trưởng kinh
tế nói chung.
1.2. Lý luận về mơ hình tăng trưởng
Khái quát lại, các nghiên cứu đều cho rằng: mơ hình tăng trưởng kinh tế
được xác định là hình thái, mơ thức sử dụng các nguồn lực sẵn có (tài nguyên,
lao động, vốn, công nghệ) nhằm tăng sản lượng kinh tế.
Mơ hình tăng trưởng kinh tế: Là sự phản ánh khái quát những đặc tính chủ
yếu của phương thức tăng trưởng kinh tế thể hiện các yếu tố tăng trưởng và mối
quan hệ tương hỗ giữa chúng với nhau trong từng điều kiện lịch sử cụ thể nhất
định.
Cho đến nay trên thế giới đã có nhiều mơ hình tăng trưởng kinh tế. Các
mơ hình tăng trưởng kinh tế đều hướng tới lý giải nguồn gốc của tăng trưởng
kinh tế, để từ đó các nhà hoạch định chính sách chọn lựa mơ hình tăng trưởng
kinh tế phù hợp. Cụ thể như:
Mơ hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng: có nhiều lý thuyết và nhiều
khái niệm về mơ hình tăng trưởng theo chiều rộng, song chung quy lại là

phương thức tăng trưởng sử dụng nhiều vốn, công nghệ lạc hậu, với đa số lao
động tay nghề thấp chủ yếu làm gia công, lắp ráp, khai thác và bán rẻ tài nguyên
thô hoặc sơ chế. Hệ quả là chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế không cao,
thu nhập của người lao động thấp, đời sống cịn nhiều khó khăn.
Mơ hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu: có nhiều cách trình bày khác
nhau, chẳng hạn như mơ hình dựa vào tài ngun của D. Ricardo, mơ hình nhị
ngun (mơ hình hai khu vực), mơ hình Harrod-Domar, mơ hình Sung Sang.
Như vậy, có nhiều lý thuyết về mơ hình tăng trưởng kinh tế, mỗi mơ hình
đều có mặt tích cực và hạn chế của nó. Song nhìn trên tổng thể mơ hình Solow
là phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Bởi vì mơ hình tăng trưởng kinh tế Solow
dựa vào tiến bộ khoa học kỹ thuật và nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ làm tăng
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nguồn nhân lực chất lượng cao bao hàm trình độ
chun mơn kỹ thuật cao, tính kỷ luật cao và có sức khỏe tốt. Máy móc thiết bị
hiện đại, cơng nghệ sản xuất cao cấp hay phần mềm tiên tiến,... chỉ có thể phát
huy hiệu quả tối đa nếu được sử dụng bởi nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là
mơ hình tăng trưởng kinh tế phù hợp bối cảnh các nước đang phát triển hiện nay.
Về mơ hình kinh tế gắn kết với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, cơng bằng
xã hội, người ta có thể phân ra các loại mơ hình: “mơ hình nhấn mạnh cơng bằng
xã hội trước và tăng trưởng kinh tế sau”, “mơ hình tăng trưởng kinh tế trước,


5

cơng bằng xã hội sau”, “mơ hình tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã
hội giải quyết đồng thời”.
1.3. Mơ hình tăng trưởng kinh tế Solow
Mơ hình Solow là một mơ hình tăng trưởng ngoại sinh được tạo ra bởi
Trevor Swan và Robert Solow, người từng giành giải thưởng Nobel về Kinh tế.
Mơ hình Solow là một mơ hình kinh tế của tăng trưởng kinh tế dài hạn được đặt
trong khuôn khổ của kinh tế học tân cổ điển. Ở đây khơng xuất hiện nhân tố giá

cả vì chúng tôi chỉ đặc biệt quan tâm đến sản lượng thực tế hoặc thu nhập thực
tế. Nó cố gắng giải thích tăng trưởng kinh tế dài hạn bằng cách xem xét tích lũy
vốn, tăng trưởng lao động hoặc dân số, và sự gia tăng năng suất, thường được
gọi là tiến bộ công nghệ. Sử dụng tất cả các công cụ này, chúng tôi muốn hiểu
được sự khác biệt giữa các quốc gia về mức sản lượng và lượng vốn trên mỗi
công nhân. Chúng tôi sử dụng hàm sản xuất như một cách để thể hiện mối quan
hệ nguyên nhân và kết quả mà Sản lượng thực tế (Y) có về Vốn ( K) và Lao
động (L). Có nghĩa là sản lượng thực tế là một hàm của K và L. Nhưng đó
khơng chỉ là 2 yếu tố. Chúng tơi cũng xem xét yếu tố Tổng năng suất (A); đây là
yếu tố chính cho thấy việc phân bổ tài nguyên của bạn ảnh hưởng đến sản lượng
tiềm năng của bạn như thế nào. Nhiều nhà kinh tế tin rằng lý do tại sao nhiều
quốc gia khơng thịnh vượng về tài chính như các quốc gia khác là do thực tế họ
không phân bổ nguồn lực của họ một cách đúng đắn. Nhiều quốc gia có lượng
tài ngun và cơng cụ dồi dào nhưng không thể sử dụng chúng một cách hiệu
quả để cải thiện nền kinh tế của họ.
Khi chúng ta so sánh các quốc gia khác nhau, ta cho chúng bắt cặp với
nhau để nhìn thấy sự khác biệt trong thu nhập bình quân đầu người và tăng
trưởng. Một số nước phát triển nhanh hơn những nước khác. Các quốc gia ở
châu Á đã phát triển với tốc độ nhanh chóng trong thập kỷ qua cịn được gọi là
"Những chú hổ của Châu Á". Trong khi chúng ta có thể thấy rằng có những
quốc gia trong các khu vực như Châu Phi rất trì trệ trong việc tăng trưởng hoặc
tăng trưởng với tốc độ rất nhỏ. Khi chúng ta đang xem xét sự tăng trưởng, mặc
dù vậy, chúng ta vẫn phải tính đến các biến số khác nhau có thể ảnh hưởng đến
sự tăng trưởng của các quốc gia. Một công cụ giúp chúng ta xem xét điều này là
Mô hình Solow. Mơ hình này lấy các yếu tố đầu vào của vốn, lao động và công
nghệ và cách chúng ảnh hưởng đến tăng trưởng trong khi nắm giữ những thứ
như khấu hao vốn và tăng trưởng dân số với tốc độ không đổi. Tỷ lệ tăng dân số
và tỷ lệ khấu hao vốn là hai thứ rất quan trọng bởi vì vốn (K) đang dần cạn kiệt
và dân số quốc gia ngày càng tăng lên, lượng vốn (K) trên mỗi lao động đang
giảm theo thời gian. Điều này khiến cho sản lượng thực tế của mỗi công nhân

tạo ra bị giảm sút. Trong mơ hình này, mục tiêu theo thời gian là để một quốc gia


6

đạt đến trạng thái ổn định. Trạng thái ổn định là khi tỷ lệ tiết kiệm bằng với tỉ lệ
tăng trưởng dân số và tỷ lệ khấu hao vốn. Các quốc gia có nền kinh tế nhỏ hơn
có xu hướng sở hữu lượng vốn ( K) thấp và có xu hướng cách xa trạng thái cân
bằng trạng thái ổn định. Nhưng, khi bạn thêm vốn ( K), nó sẽ mang lại tỷ lệ lợi
nhuận cao hơn so với một nền kinh tế mạnh hơn như Hoa Kỳ hoặc Nhật Bản.
Sau một thời gian tăng trưởng ổn định, điều này có thể khiến đất nước đi vào
tăng trưởng bền vững, nơi họ đang phát triển ở mức tăng trưởng bền vững như
Hoa Kỳ (2% mỗi năm).
Mơ hình này cho chúng ta thấy việc chúng ta sử dụng các nguồn lực của
mình (Vốn và Lao động) ảnh hưởng như thế nào đến kết quả đầu ra (Y) hoặc
tổng hệ số năng suất. Gia tăng vốn của bạn sẽ dẫn đến xu hướng tích lũy. Chúng
tơi gọi đây là, bạn hãy đốn xem! Tích lũy vốn. Bạn nghĩ sao? Hãy nghĩ về nó
như 1 chiếc bồn tắm. Nếu bạn có một chiếc bồn tắm mà tốc độ nước thốt ra
khơng nhanh bằng tốc độ nước chảy ra từ vòi, bạn sẽ thấy nước sẽ tích tụ sau
một lúc. Tương tự như K ( Vốn), Khi bạn mua K và không thể sử dụng nó nhanh
như khi nó đến, K sẽ tích lũy theo thời gian. Nhưng khi K tích lũy, nó tăng
trưởng với tốc độ giảm dần theo chiều hướng tích cực. Có nghĩa là nó sẽ tích lũy
ngày càng ít hơn theo thời gian với mỗi đơn vị bổ sung vì lợi nhuận theo tỷ lệ
giảm dần.
CHƯƠNG 2: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Trong lý thuyết tăng trưởng, các nhà kinh tế thường chỉ ra hai mơ hình
chính: Tăng trưởng theo chiều rộng và tăng trưởng theo chiều sâu. Nhưng trong
thực tế, khơng tồn tại một mơ hình thuần túy, mà một mơ hình hỗn hợp được
quan sát tại nhiều nước. Những mơ hình hỗn hợp khác nhau ở tỷ lệ đóng góp của

các yếu tố hữu hình và vơ hình. Trong xu hướng hình thành nền kinh tế hậu công
nghiệp tại một số nước phát triển, một mô hình tăng trưởng mới được bàn luận
ngày càng nhiều là mơ hình sáng tạo.
Một trong những hình thái chính của mơ hình tăng trưởng theo chiều rộng
là tăng trưởng thiếu cân đối và không bền vững, đặc trưng cho nền kinh tế trải
qua một số thời kỳ tăng trưởng cao, nhưng tốc độ tăng trưởng bình qn có xu
hướng giảm và dẫn đến tình trạng trì trệ. Khác với tăng trưởng không bền vững,
tăng trưởng bền vững là tăng trưởng cân đối với sự hỗ trợ nhà nước cho phát
triển các lĩnh vực khoa học cơ bản, giáo dục, y tế và bảo vệ mơi trường. Tính
thiếu cân đối và không bền vững của tăng trưởng thường đi liền với nhau.


7

2.1. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời kỳ cải cách kinh tế
Sau khi chương trình cải cách kinh tế (nghĩa là Đổi mới) được khởi động
từ năm 1986, nước ta đã trải qua một thời kỳ tăng trưởng tương đối cao kéo dài
gần 30 năm. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong khoảng thời gian từ năm 19862013 đạt 6,71%. Toàn bộ thời kỳ này được chia thành những thời kỳ nhỏ với các
tốc độ tăng trưởng và đặc điểm kinh tế - xã hội khác nhau. Theo quan điểm của
tác giả, có thể phân biệt 4 thời kỳ: thời kỳ bình ổn kinh tế (1986-1991), thời kỳ
tăng trưởng phục hồi (1991-1997), thời kỳ tăng trưởng hướng về xuất khẩu
(1998-2007), thời kỳ suy giảm tăng trưởng (từ 2008 đến nay) (Bảng 1).
Đặc điểm của thời kỳ này là nền kinh tế nước ta chuyển từ kế hoạch tập
trung sang cơ chế thị trường. Thực trạng kinh tế vĩ mô trong giai đoạn này biểu
hiện những quy luật điển hình của một nền kinh tế chuyển đổi: lạm phát bùng nổ
trong những năm đầu trong quá trình tự do hóa giá cả; nhiều doanh nghiệp nhà
nước ngừng hoạt động hoặc phá sản; sản lượng công nghiệp sụt giảm kéo theo
tăng trưởng kinh tế giảm mạnh; cuộc sống của người dân khó khăn. Trước tình
hình như vậy, chính sách kinh tế của Việt Nam được thực hiện theo kịch bản
“sốc ơn hịa” với nhiệm vụ bình ổn nhanh kinh tế, nhưng không để xảy ra cú sốc

mạnh đối với hoạt động sản xuất.
Bởi vậy, trong gói giải pháp cải cách thị trường, có những biện pháp triệt
để như giải phóng giá hàng hóa, mở cửa nền kinh tế, “cởi trói” các lực lượng sản
xuất và các biện pháp ơn hịa như thay đổi thể chế (cải cách doanh nghiệp nhà
nước, đổi mới cấu trúc thượng tầng, xây dựng các thị trường, đặc biệt là cải tổ
hệ thống tài chính).
Trong thời kỳ này, do cơ cấu kinh tế và nền tảng thể chế của hệ thống kinh
tế cũ chưa thay đổi đáng kể, nông nghiệp và khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ
trọng lớn nhất, hiệu quả kinh tế thấp, xã hội hầu như chưa có tích lũy.
Thời kỳ tăng trưởng phục hồi có đặc điểm là quan hệ kinh tế đối ngoại
gặp khó khăn do khủng hoảng kinh tế xảy ra tại hầu hết các nước xã hội chủ
nghĩa cũ vốn là những đối tác kinh tế chính của nước ta, Mỹ và nhiều nước khác
tiếp tục cấm vận kinh tế Việt Nam.
Nhà nước nhanh chóng chuyển hướng chính sách kinh tế đối ngoại sang
các nước tư bản và đồng thời đẩy mạnh hoạt động kinh tế tư nhân và nước
ngồi, tăng tính tự chủ của doanh nghiệp nhà nước. Tiềm năng sản xuất vốn đã
bị kìm hãm trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch tập trung, nhờ đó được khai thác
mạnh mẽ, góp phần làm gia tăng tổng sản lượng xã hội và hiệu quả kinh tế. Do
trong giai đoạn này, nền kinh tế vừa được mở cửa, thị trường nội địa vẫn đóng
vai trị quyết định.


8

Như vậy, hiệu ứng tích cực từ chính sách cải cách kinh tế cùng với sự gia
tăng nhu cầu trong nước là những nhân tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của
giai đoạn này.
Nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng vào năm 1995 và sau đó, tăng
trưởng có dấu hiệu chững lại. Trong thời kỳ này, nền kinh tế bắt đầu có tích lũy.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực: tỷ trọng cơng nghiệp - xây dựng và

dịch vụ cũng như các khu vực kinh tế tư nhân và nước ngoài tăng. Tăng trưởng
kinh tế cao, nhưng lạm pháp lại có xu hướng giảm.
Trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu sau cuộc khủng
hoảng kinh tế Đông Nam Á (1997-1998), tăng trưởng kinh tế phục hồi nhanh và
từ năm 2002, tốc độ tăng đều qua các năm. Đáng chú ý là trong giai đoạn này,
hiệu ứng tích cực từ những biện pháp cải cách kinh tế được thực hiện trong thập
niên 1990 đã kiệt cạn. Nhưng thay vào đó, trong điều kiện nền kinh tế thế giới
tăng trưởng nóng, xuất khẩu và chính sách kinh tế (chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa) mở rộng, đặc biệt đầu tư cơng trở thành hai động lực chính của
tăng trưởng. Nhờ đó, nền kinh tế tăng trưởng khá cao và đạt mức sản lượng tiềm
năng vào năm 2005 (Ủy ban Kinh tế Quốc hội, 2013).
Tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế
giới xảy ra từ năm 2008 đến nay. Nếu trong những giai đoạn trước đó, nền kinh
tế tăng trưởng cao (8,8% giai đoạn 1992-1997) và 7,1% giai đoạn 1998-2007),
thì trong giai đoạn hiện tại, tốc độ tăng trưởng bình qn chỉ cịn khoảng
6%/năm. Nếu bỏ qua những năm khôi phục kinh tế sau cuộc khủng hoảng kinh
tế Đông Nam Á, cụ thể 1998-2001, thì tốc độ tăng trưởng đạt mức bình quân
7,9% từ năm 2002-2007.
Do chịu sự tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2008, mơ hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế lớn tồn tại
trong suốt thời gian dài:
- Mô hình tăng trưởng cơ bản theo chiều rộng với sự đóng góp chủ yếu
của những yếu tố vật chất có chất lượng thấp từ phía cung và phía cầu.
Hạn chế từ phía cung là sự đóng góp khơng đáng kể của năng suất yếu tố
tổng hợp (TFP) mà các minh chứng điển hình là năng suất lao động thấp, đầu tư
kém hiệu quả, mức độ tiêu hao năng lượng và nguyên vật liệu cao. Số liệu của
Tổ chức Năng suất châu Á (APO) cho thấy đóng góp của TFP vào tăng trưởng
kinh tế của nước ta có xu hướng giảm mạnh, cụ thể từ mức 2,1% giai đoạn
1985-2000 xuống chỉ còn 1,3% giai đoạn 2000-2010 (APO, 2012).



9

Cũng theo số liệu của APO về sản lượng bình quân trên một lao động quy
đổi theo PPP cho thời kỳ 1990-2010, trong 22 nước châu Á khơng thuộc nhóm
nước xuất khẩu dầu mỏ, Việt Nam chỉ thăng hạng từ ví trí 19 lên 17 trong thập
niên 1990, nhưng vị trí này giữ nguyên cho đến năm 2010. Trong khối ASEAN,
chúng ta chỉ đứng trên Lào, Campuchia và Myanmar về năng suất lao động.
Năng suất lao động của công nhân Việt Nam chỉ bằng 5,9% Singapore - nước
đứng đầu nhóm.
Nguyên nhân trực tiếp khiến xếp hạng năng suất lao động của nước ta
chậm cải thiện là tốc độ tăng năng suất lao động có xu hướng giảm. Chỉ số này
tăng 5,2% giai đoạn 1990-1995, nhưng giảm xuống còn 4,7% giai đoạn 19952000, 4,8% giai đoạn 2000-2005 và 4,2% giai đoạn 2005-2010 (APO, 2012).
Trong khi đó, Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước đạt được bước nhảy vọt về
năng suất lao động.
Hạn chế từ phía cầu là chất lượng tổng cầu thấp thể hiện ở thu nhập thực
tính theo đầu người của Việt Nam thấp và tăng trưởng chậm, chênh lệch vật chất
giữa các địa phương và các tầng lớp dân cư ngày càng dãn rộng, mức sống và
chất lượng cuộc sống của bộ phận lớn dân cư còn thấp, hàng hóa xuất khẩu có
giá trị gia tăng khơng cao, sản phẩm công nghệ cao chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong
xuất khẩu, tính sinh thái, tính xã hội và tính sáng tạo của hoạt động kinh tế còn
rất thấp.
Trong những báo cáo thống kê của các tổ chức quốc tế hiện nay, có nhiều
chỉ tiêu khác nhau mà có thể được sử dụng để đánh giá chất lượng tăng trưởng
kinh tế. Chẳng hạn, để đánh giá tính sinh thái, có thể sử dụng chỉ tiêu thải CO2
như chỉ tiêu mang tính đại diện, cịn tính sáng tạo có thể được đánh giá bằng chỉ
tiêu xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao.
Theo Báo cáo thống kê năm 2013 của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ thải CO2
trong công nghiệp chế biến và xây dựng tại nước ta cao hơn nhiều so với mức
bình quân thế giới, cụ thể 33,69% so với 21,22%, cịn tỷ trọng cơng nghệ cao

trong giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến chưa bằng một nửa mức bình
quân thế giới, 8,6% so với 17,7% (WDI 2013).
- Tăng trưởng kinh tế của nước ta không bền vững, một số năm tăng
trưởng cao như 1992-1997, hoặc 2005-2007, nhưng lại đan xen những năm tăng
trưởng thấp như 1998-2001, hoặc 2008-2012. Xu hướng chung của tăng trưởng
là tốc độ tối đa và tốc độ bình quân của các thời kỳ giảm dần.
Tính khơng bền vững của tăng trưởng có ngun nhân nằm trong sự thiếu
cân đối của cấu trúc nền kinh tế. Khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng
cao, lao động và vốn đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng, sản xuất trong nước


10

ngày càng phụ thuộc vào thị trường thế giới. Điều này cho thấy, tăng trưởng
kinh tế của nước ta đang dựa trên nền tảng bao gồm những nhân tố có chất
lượng thấp và vận hành thiếu ổn định.
Chất lượng thể chế thấp đang kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Giữa hệ
thống thể chế và tăng trưởng kinh tế tồn tại một mối quan hệ hữu cơ. Hệ thống
thể chế hiệu quả tác động tích cực tới tăng trưởng vì giảm thiểu được rủi ro từ sự
bất định và tình trạng bất đối xứng thơng tin, đồng thời tăng cường ổn định kinh
tế vĩ mô. Ngược lại, tăng trưởng thấp làm phát sinh tham nhũng và những hành
vi cơ hội khác.
Theo đánh giá của Gradstein (2003), hệ số tương quan giữa thu nhập bình
quân đầu người và chất lượng thể chế nằm trong khoảng 0,7-0,9. Trong Báo cáo
Năng lực Cạnh tranh Toàn cầu 2013-2014, về chỉ tiêu chất lượng của thể chế,
Việt Nam chỉ xếp thứ 98/144 quốc gia.
Rõ ràng, lỗ hổng thể chế của chúng ta là một trong những cản trở chính
của tăng trưởng kinh tế bền vững.
Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm
2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỉ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70%

xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá). Đại bộ phận người
nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng
nề bởi đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể. Tăng
trưởng GDP năm 2020 của Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới
tăng trưởng kinh tế dương.
Việt Nam đang chứng kiến thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã hội.
Dân số Việt Nam đã lên đến 96,5 triệu vào năm 2019 (từ khoảng 60 triệu năm
1986) và dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu dân tới năm 2050. Theo kết quả Tổng
điều tra dân số Việt Nam năm 2019, 55,5% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi
thọ trung bình gần 76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhập tương đương trong
khu vực. Nhưng dân số đang bị già hóa nhanh. Tầng lớp trung lưu đang hình
thành – hiện chiếm 13% dân số và dự kiến sẽ lên đến 26% vào năm 2026.
Chỉ số Vốn nhân lực của Việt Nam là 0.69. Điều đó có nghĩa là một em bé
Việt Nam được sinh ra ở thời điểm hiện nay khi lớn lên sẽ đạt mức năng suất
bằng 69% so với cũng đứa trẻ đó được học tập và chăm sóc sức khỏe đầy đủ.
Đây là mức cao hơn mức trung bình của khu vực Đơng Á - Thái Bình Dương và
các nước có thu nhập trung bình thấp hơn. Mặc dù chỉ số Vốn nhân lực của Việt


11

Nam tăng từ 0,66 lên 0,69 từ năm 2010 đến 2020 Việt Nam, còn tồn tại sự chênh
lệch trong nội bội quốc gia, đặc biệt là đối với nhóm các dân tộc thiểu số.
2.2. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong
thời gian tới
Nền kinh tế nước ta duy trì được tăng trưởng khá cao trong thời kỳ Đổi
mới. Do vậy, trong điều kiện tăng trưởng liên tục, các nguồn lực vật chất, như:
vốn, tài nguyên thiên nhiên và lao động được khai thác gần như triệt để.
Trong điều kiện tăng trưởng theo chiều rộng, năng suất các yếu tố sản

xuất giảm dần trong khi việc mở rộng chúng về lượng vấp phải những giới hạn sự khan hiếm của các nguồn lực vật chất và năng suất biên của chúng chậm cải
thiện trong điều kiện suy thoái giáo dục và khoa học, kỹ thuật hiện nay. Đầu tư
không thể vượt quá năng suất biên của vốn và việc sử dụng lao động, cũng như
khai thác tài nguyên thiên nhiên không tránh được quy luật tất yếu này. Năng
suất biên của các yếu tố sản xuất chỉ tăng trong điều kiện tiến bộ kỹ thuật.
Như vậy, mục tiêu chuyển sang mơ hình tăng trưởng theo chiều sâu là đẩy
nhanh tiến bộ kỹ thuật trong nền kinh tế. Đó là nhiệm vụ vơ cùng khó khăn. Để
góp phần thực hiện nhiệm vụ này, theo tơi, cần thực thi một số giải pháp định
hướng dưới đây.
Thứ nhất, nhiệm vụ trước mắt cần nâng cao hiệu quả sử dụng những
nguồn lực sản xuất hiện có bằng các cách: đảm bảo toàn dụng, tăng năng suất và
tái phân phối chúng.
Đối với nguồn lao động, cần những biện pháp giảm tỷ lệ thất nghiệp và tỷ
lệ thiếu việc làm, tăng năng suất lao động, đảm bảo sự tương quan giữa tiền
lương và năng suất lao động, nâng cao mức sống và chất lượng sống của người
lao động, hạn chế sự phân hóa vật chất, hình thành vững chắc tầng lớp trung lưu.
Đặc biệt, để tăng năng suất lao động, cần phát triển vốn nhân lực thông qua hệ
thống đào tạo đại học và dạy nghề hiệu quả, cung ứng cho xã hội nguồn nhân
lực đáp ứng được các yêu cầu công việc của doanh nghiệp.
Để tăng năng suất vốn, cần nâng cao hệ số đổi mới và làm chậm quá trình
hao mịn thực máy móc và thiết bị. Ngồi ra, đối với nguồn tài nguyên thiên
nhiên, đặc biệt là các nguồn lực không tái sinh, không được khai thác bừa bãi,
mà phải đảm bảo tính cân đối trong sử dụng, đồng thời cần ứng dụng những
cơng nghệ thăm dị và khai thác tiên tiến, thực thi các biện pháp mạnh mẽ nhằm
giảm mức độ tiêu hao nguyên vật liệu trong sản xuất.
Bên cạnh đó, cần tái phân phối các nguồn lực. Đây là nhiệm vụ cho cả
ngắn và dài hạn. Trong ngắn và trung hạn, kiên quyết thực hiện tái cấu trúc đầu


12


tư công và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước theo hướng thu hẹp tối đa nhóm
doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận, cịn đầu tư cơng chỉ nên hướng vào những
ngành xã hội tạo điều kiện chung cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, cần hoạch định một chính sách cơng nghiệp hiệu quả và gắn bó
chặt chẽ, đồng bộ với chính sách đầu tư trong q trình thực hiện. Chính sách
cơng nghiệp là tạo các điểm tăng trưởng nhằm tăng năng lực cạnh tranh quốc tế
của khu vực doanh nghiệp và đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững. Theo kinh
nghiệm quốc tế, nhiều nước phát triển đã đạt được sự phát triển thần kỳ và nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc tế của mình do biết khai thác tiềm năng kinh tế to
lớn của những làn sóng cơng nghệ thay đổi luân phiên theo chu kỳ 50 năm.
Để hoạch định hiệu quả các điểm tăng trưởng, cần dự báo tốt những xu
hướng khoa học, công nghệ lớn. Thế giới đã trải qua năm làn sóng cơng nghệ và
đang bắt đầu làn sóng thứ 6. Dự báo những xu hướng khoa học, công nghệ lớn
là nhằm phát hiện kịp thời các xu hướng phát triển nhất. Theo thống kê quốc tế,
trong thập niên 1980, 50% bằng sáng chế thuộc viễn thông, thông tin; 20%
thuộc vi sinh; 10% thuộc vật liệu mới và hóa học.
Một cơng việc quan trọng nữa là cần dự báo và đánh giá được nhu cầu xã
hội đối với những công nghệ đột phá trong việc giải quyết những vấn đề do thực
tiễn đặt ra. Cuối cùng, phân tích khả năng phát triển những ngành kinh tế dựa
trên các cơng nghệ đang hình thành này bằng tiềm lực vốn thực, vốn nhân lực và
vốn tri thức của chúng ta và hoạch định chính sách đầu tư.
Thứ ba, triển khai xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia (national
innovation system). Hệ thống đổi mới quốc gia là toàn bộ những tổ chức hoạt
động sản xuất và tiêu thụ thương mại kiến thức khoa học, công nghệ trong phạm
vi quốc gia. Những nguyên tắc vận hành của hệ thống đổi mới quốc gia là Nhà
nước phải gánh vác phần lớn kinh phí cho hoạt động nghiên cứu cơ bản, vì đây
là lĩnh vực có rủi ro cao và mức sinh lợi thấp đối với tư bản tư nhân; doanh
nghiệp là động lực chính phát triển hệ thống đổi mới quốc gia trong lĩnh vực
nghiên cứu ứng dụng theo sau nghiên cứu cơ bản;

Thứ tư, cần lựa chọn phương án phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách
tài khóa phù hợp trong mơ hình tăng trưởng hiệu quả. Chính sách tiền tệ mục
tiêu lạm phát là một mơ hình phối hợp chính sách tốt, nhưng để ứng dụng thành
cơng phương án phối hợp này, cần hồn thiện những điều kiện cần thiết. Một
trong các điều kiện bắt buộc là ổn định kinh tế vĩ mô, trước hết phải giảm tỷ lệ
lạm phát xuống thấp hơn 3% tương tự nhiều nước đã thực hiện. Tỷ lệ lạm phát
thấp sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn tài chính giá rẻ để tăng năng lực cạnh
tranh của mình.


13

2.3. Một số đề xuất và kiến nghị, các chính sách để thực hiện mơ hình
tăng trưởng của R. Solow
Nghiên cứu mơ hình tăng trưởng và phát triển kinh tế của R. Solow trong
hoàn cảnh tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là rất cần thiết. Việc vận dung mơ
hình Solow ở mức độ, phạm vi nào phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, đặc biệt là
khả năng thích ứng của nền kinh tế. Hiện nay, có nhiều nhà nghiên cứu, nhất là ở
các Viện nghiên cứu đã lượng hóa được sự đóng góp của các nhân tố trong mơ
hình tăng trưởng của Solow. Tuy nhiên, để có thể áp dụng được các yếu tố đó
(dù ít hay nhiều, sâu hoặc rộng) theo chúng tôi cần chú ý những điểm sau:
Thứ nhất: Để đánh giá được hết các nhân tố trong mơ hình tăng trưởng
của Solow, cần phải tính tốn đầy đủ và chính xác các biến số, đặc biệt là vốn,
lao động và năng suất nhân tố tổng hợp (hiệu quả sử dụng các nhân tố đầu vào,
cải tiến cơng nghệ , trình độ quản lý, chất lượng...). Chỉ có đánh giá chúng đầy
đủ, chính xác, dài hạn thì mới có thể tính tốn được tốc độ, quy mơ, đặc biệt là
chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế.
Xây dựng một chế độ quy định mang tính thống nhất phân định 6 thành
phần kinh tế, chủ thể chuẩn xác thì mới xác định tương đối đầy đủ và chính xác
sự đóng góp của chúng vào tăng trưởng. Tuy nhiên, đây là vấn đề còn tranh cãi,

nhưng nhiều nhà khoa học , nhà quản lý đã đề nghị không nên gọi các thành
phần kinh tế mà là khu vực kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế dân doanh...). Bên
cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới hệ thống thơng tin, chế độ hạch toán, chế độ báo
cáo phù hợp với yêu cầu tính giá trị gia tăng của từng đơn vị cơ sở, từ đó để có
thơng tin đầy đủ khi tính GDP, GNI của các nước cũng như các chỉ số tăng,
giảm của chúng, cũng như các chỉ số tăng hoặc giảm phát, tăng hoặc giảm chỉ số
giá tiêu dùng (CPI).
Thứ hai: Nâng cao tính đồng bộ trong quy hoạch và đầu tư phát triển phù
hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Quy hoạch phát triển và đầu tư vẫn đóng vai trò quan trọng đối với tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Để nâng cao chất lượng quy hoạch thì phải rà sốt
lại và có kế hoạch dài hạn quy hoạch phát triển kinh tế ngành, địa phương trong
một chỉnh thể quy hoạch thống nhất. Gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, gắn thị
trường trong nước với thị trường nước ngoài với phát huy lợi thế của từng vùng,
từng ngành. Tập trung đầu tư, phát triển những sản phẩm công nghiệp có thị
trường tiềm năng của tiêu thụ, có khả năng cạnh tranh cao, các sản phẩm sử
dụng công nghệ cao, các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và
kinh tế nông thôn, nhất là công nghệ chế biến có chất lượng cao và sạch. Chấm
dứt việc quy hoạch và xây dựng tràn lan các khu công nghiệp kém hiệu quả. Đầu


14

tư hướng vào việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư phải mang
lại hiệu quả kinh tế trong hiệu quả kinh tế - xã hội. Đầu tư phải góp phần vào
thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước, trong đó cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội
nhập, tăng năng suất, hiệu quả. Đầu tư phải hướng vào việc hoàn thiện kết cấu
hạ tầng, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, đầu tư cho miền núi, vùng sâu, vùng
xa,... nâng cao hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước, sử dụng có hiệu quả các

nguồn vốn nước ngoài...
Thứ ba: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển giáo dục đào tạo,
khoa học - công nghệ để tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh
tế bền vững.
- Nâng cao chất lượng đào tạo bằng kết quả, chất lượng của đào tạo, chứ
không phải bằng cấp, thời gian học,...
- Đổi mới cơ chế, chính sách, tạo điều kiện cho các ngành nhà khoa học,
nhà giáo.
- Gắn nghiên cứu với sản xuất , chú trọng các nghiên cứu cơ bản.
- Mở rộng các hình thức đào tạo, kết hợp giữa nhà nước - doanh nghiệp người lao động, phải nghiên cứu khoa học, ứng dụng vào đào tạo.
Thứ tư: Đổi mới và nâng cao công tác điều hành quản lý, chỉ đạo mục
tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế cho phù hợp với tiềm năng thực tế.
Tăng trưởng kinh tế không phải mục tiêu tự thân, không phải mục tiêu của
Nhà nước mà là của toàn dân, của từng doanh nghiệp. Do đó, mọi chủ thể kinh
tế , mọi thành phần kinh tế phải nỗ lực và đóng góp cơng sức của mình | cho
tăng trưởng kinh tế , mọi thành phần kinh tế phải nỗ lực và đóng góp cơng sức
của mình cho tăng trưởng kinh tế. Nhưng thành phần kinh tế nhà nước phải là
đầu tàu trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bằng chủ trương, chính sách Nhà
nước kích thích, tạo mọi điều kiện để đảm bảo tăng trưởng và phát triển bền
vững. Do vậy, Nhà nước trước hết cần có các ngành, các bộ, các địa phương đủ
mạnh, huy động có hiệu quả các nguồn lực để đảm bảo tăng trưởng; cần phải
phân cấp mạnh hơn, quản lý chặt hơn bằng pháp luật, cơ chế, chứ khơng phải
bằng mệnh lệnh hành chính, cơ chế xin cho. Gắn quyền lợi và trách nhiệm, hoàn
thiện dần các chính sách để thu hút các nhà đầu tư trong nước và ngồi nước,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thứ năm: Tăng trưởng kinh tế nhưng phải gắn với công bằng xã hội.
Chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng trưởng là cần thiết, là điều kiện cần, nhưng để đảm bảo tăng trưởng kinh tế



15

cần phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Nước ta vừa thốt khỏi chiến
tranh, do đó, cịn có nhiều người nghèo, vùng nghèo, nhiều gia đình chính sách,
do vậy khi xác định có cấu đầu tư, quy hoạch cần tạo ra sự công bằng giữa các
vùng, miền, vẫn đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế (vùng kinh tế trọng điểm)
nhưng vừa có đủ sức cho các vùng khác (vùng khó khăn). Kinh nghiệm của
nhiều quốc gia cho thấy, khơng có tăng trưởng kinh tế thì khơng phát triển kinh
tế được, khơng giải quyết được đói nghèo, các vấn đề xã hội; nhưng nếu chỉ
quan tâm đến tăng trưởng mà không chú ý đến công bằng xã hội, các vấn đề
khác thì khơng thì khơng thể có phát triển bền vững, chất lượng kinh tế cao
được. Do đó, phải có sự điều chỉnh, chiến lược đúng đắn giữa tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Đầu tư có trọng điểm những ngành, lĩnh vực, vùng có khả
năng và điều kiện tăng trưởng cao để là đầu tàu, động lực thúc đẩy các vùng
khác tăng trưởng nhưng cũng đồng thời phải quan tâm đến các vùng khó khăn,
kém phát triển...


16

KẾT LUẬN
Đất nước ta đang đứng trước những vận hội, thời cơ mới nhưng cũng đầy
khó khăn, thách thức, địi hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đẩy mạnh
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường
ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; thực hiện quyết liệt
chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số; tập trung nâng cao năng lực,
tận dụng thời cơ, chuyển hướng và tổ chức lại các hoạt động KTXH; sớm khắc
phục hiệu quả các tác động, ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nhanh chóng
phục hồi và phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Với niềm tin và khát vọng
vươn lên mạnh mẽ của toàn dân tộc; với ý chí, tinh thần quyết tâm cao và sự nỗ

lực của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và
nhân dân cả nước, chúng ta tin tưởng sẽ đạt được mục tiêu chiến lược đến năm
2030 và tầm nhìn đến năm 2045, đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập
cao hướng tới kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; rút ngắn khoảng cách phát
triển với khu vực và thế giới; vững bước trên con đường đổi mới, hội nhập và
phát triển; thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn./.


17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Mơ hình tăng
trưởng, Hà Nội.
2. Võ Văn Đức (2005), Mơ hình tăng trưởng kinh tế của Solow (Sô - lâu)
và khả năng áp dụng vào đánh giá tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030.
5. TS Nguyễn Hữu Sở (2009): Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam. ĐH
Kinh tế - ĐHQG Hà Nội.
6. Một số sách báo, tạp chí và tài liệu tham khảo khác.


18

PHỤ LỤC

Bảng 1: Đặc điểm của các thời kỳ tăng trưởng
Chỉ tiêu

Thời kỳ bình
ổn kinh tế

Tốc độ
Giảm mạnh,
tăng trưởng dao động trong
kinh tế
khoảng 2,8%5,8%

Thời kỳ tăng
trưởng phục
hồi

Thời kỳ tăng
Thời kỳ suy
trưởng hướng về giảm tăng
xuất khẩu
trưởng

Phục hồi và
Tăng bền vững
tăng mạnh trong trong khoảng
khoảng 8,1%- 4,8%-8,5%
9,5%

Suy giảm trong
khoảng 5%-6,8%


Tương
quan giữa
cầu nội địa
và cầu
nước
ngoài*

Chủ yếu nội
Cầu nước ngoài Cầu nước ngoài
địa, tỷ lệ xuất bổ sung cầu nội dần chiếm ưu thế,
khẩu/GDP chỉ địa, tỷ lệ xuất tỷ lệ xuất
đạt 26,3% (năm khẩu/GDP đạt khẩu/GDP tăng
1991)
đến 34,2%
lên 68,4% (năm
(năm 1997)
2007)

Vai trò của cầu
nước ngồi
khơng giảm, tỷ lệ
xuất khẩu/GDP
tăng cao hơn
80% (từ năm
2011)

Hiệu quả
nền kinh
tế**


Thấp do sức ì Tăng nhờ hiệu Hiệu quả giảm dầnHiệu quả chưa
của hệ thống kế ứng cải cách
được cải thiện
hoạch tập trung kinh tế
vẫn còn lớn

Tiết kiệm
và đầu tư

Hầu như khơng Bắt đầu có tích
có tích lũy tronglũy, đầu tư tăng
nước, đầu tư
mạnh nhờ
chiếm 18%
nguồn tiết kiệm
GDP (năm
trong nước và
1991) chủ yếu nước ngoài,
nhờ nguồn vốn chiếm 35%
vay quốc tế
GDP (năm
1997)

Sự thay đổi
cơ cấu sản
xuất theo
ngành

Nông - lâm ngư nghiệp

chiếm tỷ trọng
lớn nhất chiếm
40,5% GDP
(năm 1991)

Tích lũy và đầu tư Tích lũy và đầu
tăng, đầu tư tăng tư đều giảm, tỷ lệ
tới 46,5% GDP đầu tư/GDP còn
(năm 2007)
khoảng 30%
(năm 2012)

Thay đổi theo Nông - lâm - ngư Hầu như không
hướng tăng
nghiệp tiếp tục
thay đổi
công nghiệp - giảm những tốc độ
xây dựng đạt thay đổi chậm lại,
mức 32% GDP tỷ trọng khối
và dịch vụ là ngành này trong
40% GDP, giảm GDP cịn 19%,
nơng, lâm, ngư trong khi cơng
nghiệp xuống nghiệp - xây dựng


19

còn 28% (năm và dịch vụ là 39%
1997)
và 42% (năm

2007)
Sự thay đổi
cơ cấu sản
xuất theo
hình thức
sở hữu

Khu vực kinh tế Các khu vực
nhà nước chiếm kinh tế tư nhân
tỷ trọng lớn
và nước ngoài
nhất mặc dù
tăng nhanh đạt
giảm từ 40% tỷ lệ 60% GDP
(năm 1986)
(năm 1997)
xuống 31%
GDP (năm
1991)

Quá trình thay đổi Tỷ trọng khu vực
chậm lại, khu vực kinh tế tư nhân
kinh tế tư nhân và và nước ngoài
nước ngoài chỉ
tăng nhẹ
tăng tới 64% GDP

Lạm phát

Tăng cao, chỉ số Giảm mạnh, chỉ Tăng dần từ mức Cao hơn so với

CPI trong
số CPI trong
giảm -0,6 (năm giai đoạn 1992 khoảng 66,1%– khoảng 3,6%- 2000) cho đến
2007
875,6% (so với 17,6%
12,6% (năm 2007)
tháng 12 năm
trước)

Nguồn: Tổng cục Thống kê, các năm; *Hội Kinh tế Việt Nam, 2012; **APO,
2012



×