Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Phân tích những nội dung cơ bản của tri thức dân gian Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.63 KB, 28 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia có những nét văn hóa dân gian vơ
cùng đặc trưng, được hình thành và phát triển từ rất lâu đời, bắt
nguồn từ xã hội nguyên thủy. Đến thời kỳ phong kiến tự chủ, cùng
với sự ra đời và phát triển của văn hóa bác học, chuyên nghiệp, cung
đình thì văn hóa dân gian vẫn tồn tại và giữ vai trò quan trọng đối với
sự phát triển của văn hóa cũng như xã hội Việt Nam, đặc biệt là với
quần chúng lao động.
Ngày nay, đất nước đang trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, chúng ta đang trải qua những lo lắng về sự suy thối mơi
trường, đất đai cằn cỗi, nguồn nước cạn kiệt, thêm đói nghèo, dịch
bệnh. Một tương lai ảm đạm được cảnh báo từ các các nhà khoa học,
cơ quan nhà nước, tổ chức phi chính phủ. Hiện thực đó đã giúp cho
chúng ta nhìn lại lịch sử và nhận ra tầm quan trọng của những tri thức
truyền thống, tri thức dân gian, ứng xử dân gian với thế giới quan
trong mối quan hệ hài hồ, thân thiện với mơi trường. Cùng với
những mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc”. Trong bối cảnh chung như vậy, một lần nữa chúng ta thấy
nổi bật vai trị của văn hóa dân gian trong văn hóa dân tộc và trong
đời sống xã hội. Đặc biệt trong đó là những tri thức dân gian và ứng
xử dân gian. Với vai trò đặc biệt quan trọng như vậy, em đã lựa chọn
chủ đề “Phân tích những nội dung cơ bản của tri thức dân gian và
ứng xử dân gian Việt Nam” để nghiên cứu.

1


2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nêu bật được các khái niệm bản sắc văn hóa, tri thức dân gian


và ứng xử dân gian; Phân tích, làm rõ những nội dung của tri thức dân
gian qua một số lĩnh vực cụ thể và nội dung ứng xử dân gian Việt
Nam đối với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu về nội dung của
tri thức dân gian và ứng xử dân gian Việt Nam;
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu những tri thức dân gian Việt
Nam trong lĩnh vực khí hậu – thời tiết, quan hệ gia đình, lao động sản
xuất, xây dựng một xã hội tốt đẹp, y dược, ẩm thực, các nghề thủ
công và ứng xử dân gian với môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội.
4. Kết cấu của Tiểu luận
1. Một số khái niệm
2. Những nội dung của tri thức dân gian trong một số lĩnh vực
3. Ứng xử dân gian đối với môi trường tự nhiên và môi trường
xã hội

2


PHẦN NỘI DUNG
1.
1.1.

Một số khái niệm
Khái niệm bản sắc văn hóa

Hiện nay xuất hiện khá nhiều khái niệm về bản sắc văn hóa
khác nhau. Nhưng để hiểu một cách rõ hơn về ý nghĩa của bản sắc
văn hóa, chúng ta sẽ cắt nghĩa đối với từ “bản sắc” và “văn hóa”.

Trước hết về “bản sắc”, theo Từ điển tiếng Việt [4], “bản sắc”
dùng để chỉ tính chất, màu sắc riêng tạo thành bản chất đặc biệt của
một sự vật tức là nói đến sắc thái, đặc tính, đặc thù riêng của sự vật
đó. Trong thực tiễn, khi nói "bản sắc" thường được nhắc tới khi nói về
cái riêng, cái rất riêng của một sự vật để phân biệt nó với các sự vật
khác trong thế giới khách quan.
Theo từ Hán – Việt, “bản sắc” cịn có một cách tiếp cận khác là
phân tích trên ngữ nghĩa của hai từ “bản” và “sắc”. Theo đó, “bản” là
cái gốc, cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của một sự vật; “sắc” là
sự biểu hiện cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngồi. Cách
tiếp cận thứ hai này có tính hợp lý hơn bởi khái niệm “bản sắc” được
nhận thức trên cả hai mặt: mặt bản chất bên trong và mặt biểu hiện
bên ngoài và giữa hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Trong đó, mặt bên trong phản ánh tính đồng nhất, bản chất của một
lớp đối tượng sự vật nhất định và mặt bên ngoài phản ánh những dấu
hiệu, những sắc thái riêng của sự vật để làm cơ sở phân biệt sự khác
nhau giữa sự vật này với sự vật khác.
Còn về “văn hóa”, theo định nghĩa của GS.Trần Ngọc Thêm
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của

3


mình.”[5]. Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của các
cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử của
mỗi cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị có tính
nhân văn phổ qt, tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của
từng dân tộc.

Như vậy, có thể hiểu: Bản sắc văn hóa là thuật ngữ để chỉ hệ
thống những nét đặc trưng của nền văn hóa của dân tộc nào đó, được
hình thành trong q trình lịch sử phát triển của dân tộc đó, do con
người tạo ra và thể hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa, với các giá
trị đặc trưng mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn,
làm nên bản lĩnh và dấu ấn riêng của mỗi dân tộc, qua đó có thể so
sánh và phân biệt với các bản sắc văn hóa khác, dân tộc khác.
1.2.

Khái niệm tri thức dân gian

Tri thức dân gian (folk knowledge) là hệ thống kiến thức của
một dân tộc hoặc của một cộng đồng tại một khu vực cụ thể nào đó;
nó tồn tại và phát triển trong những hàon cảnh nhất định với sự đóng
góp của mọi thành viên trong cộng đồng và thuộc về di sản văn hóa
truyện miệng. Tri thức dân gian được hình thành trực iếp từ lao động
sản xuất và sinh hoạt văn hóa – xã hội của mọi người dân, được hoàn
thiện dần từ đời này qua đời khác và truyền thụ chủ yếu bàng truyền
miệng, truyền tay tỏng gia đình, thơn bản, hoặc qua dân ca, ca dao,
tục ngữ, truyện kể, sử thi, luật tục, v.v… [1]
Hay theo định nghĩa GS.Ngô Đức Thịnh: “Tri thức dân gian là
hệ thống các tri thức, hiểu biết của quần chúng lao động sinh sống lâu
đời tại một môi trường địa lý nhất định, nó được tích lũy thành những
kinh nghiệm tỏng quá trình ứng xử với tự nhiên và với xã hội, được cả
cộng đồng thừa nhận và được truyền lại cho thế hệ sau qua trí nhớ,

4


truyền miệng trong quá trình thực hành sản xuất và thực hành xã

hội”[6].
Như vậy, có thể thấy tri thức dân gian la hệ thống những kiến
thức đa dạng và phong phú được đúc kết qua hàng ngàn năm lao
động, chiến đấu, sản xuất và tồn tại.
1.3.

Khái niệm ứng xử dân gian

Trước hết là khái niệm “ứng xử”, cin người muốn tồn tại, trước
hết phải dựa vào bản chất tự nhiên nhờ sự tiến hóa của thế giới vật
chất, vì thế nó chịu sự chi phối của tự nhiên và cũng đồng thời tác
động lại tự nhiên nhờ những phản ứng của cơ thế. K .Marx nói: “Giới
tự nhiên là thân thể vô cơ của con người… con người sống dựa vào tự
nhiên. Như thế nghĩa là, tự nhiên là thân thể của con người, để khỏi
chết, con người phải ở trong qua trình giao dịch thường xun với
thân thể đó”. Những phản ứng đáp lại đối với tự nhiên (theo nghĩa là
thế giới vật chất bao quanh mỗi người và theo nghĩa là những con
người khác, những mối quan hệ khác, kể cả những sản phẩm do con
người tạo ra) theo các này hay cách khác có thể coi là ứng xử.[2]
Như vậy, chúng ta có thể chung rằng: Ứng xử dân gian là hệ
thống những phản ứng của những người lao động đối với các hiện
tượng xảy ra để thích nghi được với mơi trường quanh.
2. Những nội dung cơ bản của tri thức dân gian
2.1.

Tri thức dân gian về một số lĩnh vực

2.1.1. Tri thức dân gian về khí hậu - thời tiết
Tri thức dân gian về khí hậu - thời tiết là hệ thống những kiến
thức được nhân dân đúc rút qua kinh nghiệm quan sát các hiện tượng

tự nhiên từ hàng ngàn đời và được truyền đạt, tổng kết lại phần lớn
trong ca dao, tục ngữ. Người Việt ta sinh sống chủ yếu bằng nông

5


nghiệp, khi mà khoa học nghiên cứu về các hiện tượng tự nhiên chưa
được phát triển nên để sản xuất nông nghiệp được thuận lợi, người
nông dân qua kinh nghiệm nhiều đời, có khi cả thế kỷ đã đưa ra được
kinh nghiệm tích lũy về khả năng dự báo thời tiết, nhằm theo đó tranh
thủ thời vụ kịp thời, hoa màu, lương thực phát triển tốt, cho năng suất
cao. Và để cô đọng, dễ nhớ, những đúc kết kinh nghiệm, đôi khi dân
gian tạo nên vần điệu cho tục ngữ để dễ thuộc, dễ nhớ và nhớ lâu.
Người dân đặt thành thành ngữ, tục ngữ, mà phần lớn là trong kho
tàng tục ngữ chứa đựng nhiều kinh nghiệm dân gian hơn cả. Và để
đúc kết được những kiến thức ấy, ngày xưa đã phải quan sát qua các
hiện tượng tự nhiên, động vật, thực vật và một số biểu hiện khác.
Chẳng hạn, qua quan sát các hiện tượng tự nhiên có câu: “Cơn
đàng đơng vừa trơng vừa chạy/ Cơn đàng tây vừa cày vừa ăn”. Câu
trên nói, nếu mây đen kéo lên ở phía Đơng thì cơn giơng kéo đến rất
nhanh do cơn giơng này được hình thành ở biển. Chính vì vậy, trước
hiện tượng ấy, người ta phải khẩn trương coi chừng và có những biện
pháp phịng tránh khẩn trương nên gọi là “vừa trông vừa chạy”.
Ngược lại, nếu có mây ở phía Tây thì sẽ khơng có gì phải lo lắng, do
nếu có mưa thì mưa sẽ đến từ từ và giơng tố sẽ khơng xảy ra. Chính vì
vậy, người dân có thể “vừa cày vừa ăn”, tức là vẫn từ từ bình thường
làm cho xong cơng việc đồng áng của mình. Đó tục ngữ đúc kết kinh
nghiệm quý báu của nhân dân về việc dự báo thời tiết và có những
phương án chủ động nhằm giảm thiểu sự thiệt hại về người và của.
Sinh vật khí hậu học là bộ môn nghiên cứu tương quan giữa

những quá trình vật lý trong khí quyển và sinh vật. Nhân dân ta từ xa
xưa đã làm nhiệm vụ nghiên cứu sinh vật khí hậu, đã tổng kết tài tình
trong ca dao, tục ngữ đã được mơn sinh vật khí hậu học hiện đại

6


khẳng định. Ví dụ: “Kiến đắp thành thì bão/ Kiến ẵm con chạy vào
thì mưa”. Câu nêu một cách chính xác dự báo về mưa, vì kiến là sinh
vật nhỏ bé, có thể cảm nhận sự thay đổi của thời tiết, nên khi sắp có
mưa to, bão lớn chúng thường di chuyển để xây thành làm nơi trú ẩn
và chuẩn bị lương thực. Đây là một trong những kinh nghiệm dự báo
về mưa bão rất đúng của ông cha ta truyền lại, ngày nay chúng ta vẫn
thấy được mỗi khi trời sắp mưa, kiến bị vào nhà rất nhiều.
Ngồi ra cịn các câu như: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa/ Bay
cao thì nắng, bay vừa thì râm”, hoặc “Én bay thấp, mưa ngập bờ ao,
én bay cao, mưa rào lại tạnh”,… Những nhận xét đó được nhân dân
ta rút ra từ các hiện tượng phản ứng tự nhiên đối với động vật.
Thông qua sự quan sát đối với thực vật có câu: “Lúa chiêm lấp
ló đầu bờ/ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”. Đây là một câu tục
ngữ nói về cách nhìn vào trời đất để tạo nên cách trồng lúa của người
nông dân. Khi mà lúa đang sắp trổ bơng, đang trong giai đoạn phát
triển thì khi có sấm có nghĩa là sắp mưa nên những người nông dân
rất mong. Điều này đã được các nhà khoa học cơng nhận, theo hóa
học thì khi trời sấm sẽ tạo ra khí nitơ kết hợp với oxi tạo nên một chất
rất tốt để cho cây lúa phát triển. Hay người H’Mông cho rằng, nếu các
loại hoa nở trong mùa xuân như đào, lê, mận nở đồng đều giữa các
cây thì mùa màng sẽ bội thu. Ngược lại, các cây hoa nở lác đác (nở
hoa từ ngọn trở xuống, cây nở hoa sớm, cây nở muộn) thì mùa màng
năm đó thất bát do mưa nhiều.

Trong thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên,
dân tộc ta đã có một nhận thức tương đối vững vàng về quy luật khí
hậu và thời tiết. Điều đó đã có tác động nhất định trong việc đấu tranh

7


với thiên nhiên và khai thác những mặt thuận lợi của thời tiết – khí
hậu đã phát triển sản xuất và bảo vệ cuộc sống.
2.1.2. Tri thức dân gian về quan hệ gia đình
Tri thức dân gian đã phản ánh một cách sinh động, đa dạng và sâu
sắc của mối quan hệ gia đình. Mối quan hệ giữa các thành viên được
củng cố bằng chế độ tông pháp cùng chế độ gia trưởng. Theo đó, các
mối quan hệ cơ bản bao gồm: quan hệ vợ - chồng, quan hệ cha mẹ - con
cái, quan hệ anh - chị - em được tn theo một tơn ti, trật tự chặt chẽ.
Có thể thấy số lượng các câu ca dao, tục ngữ về quan hệ gia đình
chiếm tỉ lệ cao so với các chủ đề khác như: “Con có cha như nhà có
nóc”, “Chị ngã, em nâng”, “Anh em như thể tay chân/ Rách lành đùm
bọc, dở hay đỡ đần”. Điều đó cho thấy người Việt ta từ xa xưa đã rất coi
trọng vấn đề gia đình và đã thể hiện tình cảm của mình đối với các mối
quan hệ đó, điều đó được truyền đạt lại cho mn đời sau.
Các mối quan hệ trong gia đình Việt Nam khá chằng chịt và chi
phối lẫn nhau: vợ - chồng, cha mẹ - con cái, anh chị - em, ông bà - con
cháu, cha mẹ vợ - con rể, cha mẹ chồng - nàng dâu. Mỗi người thường
đóng hai đến ba vai vế khác nhau và phải luôn điều chỉnh trong các vị
thế đó để tạo sự hài hịa. Tục ngữ, ca dao vừa phản ánh, vừa quy định sự
điều chỉnh này, làm cho các quan hệ gia đình khơng bị gián đoạn ở một
khâu nào.
Phong tục - tập quán người Việt trong mối quan hệ gia đình có
những nét riêng độc đáo, mang tính truyền thống bền vững. Dân chủ,

bình đẳng, khoan hịa và nhân văn là tính chất trội trong các mối quan
hệ trong gia đình người Việt. Mối quan hệ trong gia đình Việt Nam
thể hiện ở “gia đạo”, “gia phong” và “gia lễ” của gia đình. “Gia
đạo” là đạo đức của gia đình như đạo hiếu, đạo ơng bà, đạo cha con,

8


đạo vợ chồng, đạo anh em. Như là cha hiền con hiếu: “Mẹ dạy thì con
khéo, cha dạy thì con khôn”; anh em yêu thương, nhường nhịn nhau:
“Máu chảy, ruột mềm”; vợ chồng yêu thương, hòa thuận và hợp lựa
với nhau: “Chồng sương sớm, vợ sương chiều”, “Thuận vợ thuận
chồng, tát biển Đông cũng cạn”, việc học tập lấy tâm, tri, năng làm
gốc… “Gia phong” là thói nhà, tập quán và giáo dục trong gia tộc,
nền nếp riêng của một gia đình. Với tính ơn hịa, gắn bó với cộng
đồng, hòa đồng với thiên nhiên, cốt lõi của gia phong truyền thống
người Việt luôn hướng tới tinh thần trọng gốc nguồn, khuyến khích
lịng hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, thờ kính, coi trọng tổ tiên, coi
trọng gia đình, thủy chung tình nghĩa. “Gia lễ” là những nghi lễ, tập
tục, cung cách ăn nói, đi đứng, ứng xử trở thành truyền thống, được
cha ông chọn lựa qua nhiều thế hệ, con cháu cần noi theo.
2.1.3. Tri thức dân gian về lao động sản xuất
Người Việt ta sinh sống chủ yếu bằng các nghề nơng nghiệp,
lao động tay chân vì thế ngồi việc thể hiện tri thức về thiên nhiên,
qua tục ngữ, dân gian còn thể hiện những tri thức trong lao động sản
xuất. Tri thức dân gian về lao động sản xuất rất đa dạng, phong phú.
Mỗi dân tộc, mỗi vùng đều có những tri thức khác nhau vì tính chất,
đặc điểm của mỗi vùng là khác nhau.
Về nông cụ cho sản xuất nông nghiệp rất đa dạng, phong phú
như: cuốc, xẻng, mai, thưởng; địn xóc, địn gánh, quang gánh; cày,

bừa; cối xay thóc, cối xay bột, cối giã gạo; néo đập lúa, trục lăn, cối
đá lỗ; thúng, mủng, dần, sàng, nong, nia, xảo, rổ… do chưa có các
máy mọc hiện đại nên người Việt đã sáng tạo ra những công cụ để
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp được thuận lợi hơn.

9


Về đất, người Việt vốn làm canh tác trên đồng ruộng, nương
rẫy nên họ rất coi trọng những tấc đất “Tấc đất tấc vàng”. Ví dụ, ở
người Thái có bảy hệ thống phân loại đất, trong đó có hai mười bảy
tiêu chí cụ thể; ví dụ, đất mùn (đín há), đất khe núi (đin loọng),… họ
sử dụng những tiêu chí này vào việc trồng các loại cây thích hợp với
từng loại đất, nhờ đó mà khơng một tấc đất nào bị bỏ hoang.
Nhiều tộc người trong gia đình dân tộc Việt Nam đều có hệ
thống kiến thức về nước, như bảo vệ đầu nguồn nước, xác định lượng
nước tự chảy, kiến thức tạo bậc thang, hồ chứa nước, v.v…
Việt Nam ở khu vực gần các biển, sơng nên hình thành các kĩ
nghệ đắp đê, xây đập, đào mương đã trở thành những tri thức đáng
trân trọng trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Ở đồng bằng Bắc bộ
có hệ thống những con đê lớn trải dài các bờ sông như sông Hồng,
sông Mã, sông Lam,…, những con đê ngăn mặn kiên cố dọc trên bờ
biển là những di sản vật thể thể hiện những hiểu biết và kiến thức về
kĩ nghệ này. Các dân tộc thiểu số cũng có nhiều tri thức dân gian về
lĩnh vực nay, chẳng hạn, người Chăm đã xây dựng hàng trăm đập
nước, đáng chú ý nhất là đập nước Nha Trinh (thế kỉ XIII) và đập
Marên (thế kỉ XVII). Hai đập nước này hiện vẫn còn bền vững và tưới
nước cho một vùng rộng lớn cho một vùng Ninh Thuận. Trước đây họ
đó bộ máy quản lý và phân phối nước ở các Palây (thơn). Vị vua có
cơng xây đập Marên là Pơ rơmê, được tơn là thần hàng năm có cúng

lễ.
Người Việt cũng tích lũy một kho tàng kinh nghiệm về trồng trọt. Đó
là những kinh nghiệm về chọn giống, thời vụ, chăm sóc lúa và nhiều
loại hoa màu khác như “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”,
“Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền”, “Nhất thì, nhì thục”,…

10


Bộ giống lúa của người Việt Nam rất phong phú, có đến hàng ngàn
giống lúa khác nhau đã tạo ra các loại gạo thơm ngon, nổi tiếng như
gạo thơm thái, gạo Bắc Hương, gạo tám xoăn, gạo Hàm Châu, gạo
thơm lài,…
Đồng bào các dân tộc thiểu số có nhiều kiến thức trong việc
xen canh. Trên một diện tích đất, người H’Mơng có thể xen canh lúa,
dưa, bí, cải, đu đủ, dong riềng. Hệ thống xen canh này khá khoa học,
tận dụng được đặc điển sinh học của từng loại cây, thời vụ gieo trong
và thu hái xen nhau. Trở ngại lớn trong việc canh tác nương rẫy là
hiện tượng suy thối chất màu do xói mịn và rửa trơi. Để khắc phục
tình trạng này, người Thái có kinh nghiệm làm hệ thống bờ cản xói
mịn ln phiên, cịn người của cư dân cao nguyên đá Đồng Văn (Hà
Giang) thì thực hiện kỹ thuật thổ canh hốc đá - Canh tác trên vùng đất
xen lẫn đá, thường dùng đá xếp quanh đất để che chắn, chống xói
mịn, rửa trơi đất, nhiều hốc đá tự nhiên được người dân gùi đất đổ
vào và trở thành hốc canh tác. Nhờ sáng tạo ra hình thức thổ canh hốc
đá và kĩ thuật trồng ngơ trên nương đá, kĩ thuật xen canh các loại cây
hoa màu, mà bà con nơi đây thích nghi được với điều kiện tự nhiên
đặc biệt để ổn định cuộc sống. Đến nay, thổ canh hốc đá vẫn là
phương thức chủ đạo trong hoạt động sản xuất của đồng bào vùng cao
nguyên đá Hà Giang. Trong thổ canh hốc đá, người dân đã sử dụng

các nơng cụ thích hợp với điều kiện canh tác, như: cày, bừa, cuốc
bướm. Cày sử dụng trên nương đá là loại cày do người Mông chế tác,
phù hợp với địa hình đất dốc, nhiều đá. Thân cày chắc khỏe, lưỡi cày
có hình tam giác cân, nhỏ, dầy, mũi hơi tù và nặng, chịu được lực khi
va đập vào đá.

11


Cỏ tranh là loại cỏ dại rất nguy hiểm đối với nông – lâm nghiệp
vùng cao. Hệ thân mềm của nó rất khó bị tiêu diệt bằng phương pháp
triển đốt lửa hoặc phun thuốc trừ cỏ. Theo kinh nghiệm của người
H’Mơng, phương pháp triển cày lật cỏ rất có hiệu nghiệm, tuy có tốn
cơng sức. Người Tày và người Dao lại có phương pháp dùng khoai
lang để diệt cỏ tranh.
Kĩ thuật chăn nuôi truyền thống của người Việt Nam đã tạo ra
những giống gia súc, gia cầm tốt. Đặc biệt là những kiến thức về chọn
giống trâu bò và chăm sóc chăn ni cho bị nhằm ổn định cuộc sống,
phát triển kinh tế gia đình.
Như vậy, những tri thức dân gian về lao động sản xuất đó là
những kiến thức được cha ơng ta đúc kết qua q trình lao động sản
xuất và được truyền lại đến nhiều đời sau. Những tri thức này đến nay
vẫn được ứng dụng ở một số nơi, tuy nhiên khơng cịn phổ biến rộng
rãi.
2.1.4. Tri thức dân gian về xây dựng một xã hội tốt đẹp
Một xã hội tốt đẹp là một xã hội mà ở đó con người chung sống
chan hịa, tình nghĩa, bình đẳng, gia đình hịa thuận, làng xã đồn kết,
hợp nhất. Những đều được ông cha thực hiện và truyền đời nối tiếp
cho con cháu đời sau.
Trước hết là về con người, tri thức dân gian đã đề cao đạo đức

con người trong xã hội, lối sống, cách ứng xử với cộng đồng đó là sự
hiếu thảo “Cơng cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra/Một lịng thờ mẹ kính cha/Cho trịn chữ hiếu mới là
đạo con”. Hay tình anh chị em trong gia đình “Anh như thể tay
chân/Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”, tình làng nghĩa xóm “Đơi

12


bên là kẻ thuộc quen/Trong cơn tối lửa tắt đèn có nhau”, lối sống tiết
kiệm “Năng nhặt chặt bị”.
Gia đình là nền tảng nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người, vì vậy
mà Việt Nam rất coi trọng văn hóa trong gia đình. Những người có
cùng huyết thống gắn bó với nhau tạo thành đơn vị là gia đình và lớn
hơn gia tộc. Các gia tộc Việt Nam thường sống tụ họp thành một làng
hay có các “làng là nơi ở của một họ”, dấu tích đó là hàng loại các tên
làng: Đặng Xã, Ngô Xá, Trần Xá, Nguyễn Xá,… Sức mạnh của gia
tộc thể hiện tinh thần đùm bọc, thương yêu nhau. Người trong họ có
trách nhiệm cưu mang nhau “Sẩy cha cịn chú, sẩy mẹ bú dì”; dựa
nhau về mặt chính trị: “Một người làm quan, cả họ được nhờ”.
Về tổ chức làng xã, người Việt không chỉ gắn bó với nhau trong
quan hệ máu mủ, huyết thống mà những người sống gần nhau cũng có
xu hướng liên kế chặt chẽ với nhau, như trong hoạt động trồng lúa
mang tính thời vụ cần đơng người, hay như cướp bóc cả làng phải hợp
sức. Chính vì vậy mà phát triển tình làng nghĩa xóm, gắn kết chặt chẽ
với nhau tơi mức “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”,
Cách tổ chức nông thôn dựa trên quan hệ ngang hàng theo
không khơng gian, tạo tính dân chủ. Bởi người Việt ln coi trọng
tình làng nghĩa xóm nên ln giúp đỡ nhau, muốn có quan hệ lâu dài
thì giữ thái độ tơn trọng, bình đẳng với nhau.

Một làng, người dân phần lớn đều làm nông nghiệp, nhưng một
số làng một phần dân sinh sống bằng nghề khác, họ liên kết với nhau
tạo thành tổ chức theo nghề nghiệp đó là phường, như: phường gốm
làm sành sứ, phương chài làm nghề đánh cá,… Ngồi ta cịn có các tổ
chức liên kết với nhau bằng các các sở thích, thú vui, đẳng cấp với
quy mô nhỏ hơn là hội như hội tư văn liên kết các quan văn cùng

13


làng, hội văn phả liên kết các nho trong làng không ra làm quan, hội
võ phả, v.v,… đây vừa là nơi thỏa mãn sở thích, vừa là nơi trau dồi,
học hỏi, giao lưu kiến thức nên cũng hình thành tính dân chủ, có trách
nhiệm tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Ở quy mô làng xã, nhân dân đối mặt với trộm cướp thì ơ tầm
quốc gia nhân dân đối mặt với giặc xâm lược vì thế mà đã hình thành
sự đồn kết, yêu nước, tinh thần quật cường chống giặc ngoại xâm
của dân tộc.
2.1.5. Tri thức dân gian về y dược
Kho tàng tri thức dân gian về y dược rất đa dạng và phong phú,
đó là tồn bộ những kinh nghiệm phòng chống bệnh tật, bảo vệ và
nâng cao sức khỏe có tính tập thể và truyền miệng của nhân dân lao
động. Y học dân gian có nguồn gốc ở các vùng dân tộc thiểu số, với
những truyền thống đặc biệt khu vực và quốc gia. Từ nhiều đời, người
Việt đã chủ yếu sử dụng dược thảo để chữa bệnh. Hiệu năng mà y học
đem lại có được nhờ nó chắt lọc được trí tuệ của tồn dân, trong đó có
bí mật ý học gia truyền là nòng cốt. Nội dung chủ yếu khơng ngồi
hai vấn đề lớn có quan hệ hữu cơ với nhau: dưỡng sinh và trị liệu, hay
nói đầy đủ là phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe, kéo
dài tuổi thọ.

Mỗi một dân tộc người trong số 54 dân tộc Việt Nam đều có
những hiểu biết riêng về sử dụng dược thảo để chữa bệnh. nhiều bài
thuốc dân gian của người H’Mông, người Dao đỏ, người Thái, người
Mường,…cho tới ngày nay vẫn được sử dụng rộng rãi và đang được
các nhà nghiên cứu quan tâm vì tính hiệu quả của chúng.
Người Việt Nam có thể tự chữa những căn bệnh thông thường
bằng các loại lá thuốc dễ dàng tìm kiếm "cây nhà lá vườn" như bệnh

14


cảm cúm thì dùng lá xơng, ăn cháo hành; bệnh ho thì dùng vỏ quýt,
quả quất hồng bì, mật ong, v.v… hầu như người nào cũng biết một vài
bài thuốc đơn giản hoặc đơi ba mơn đánh gió, cạo gió, xông, chườm,
tẩm quất, day bấm huyệt..., hầu như bà nội trợ nào cũng biết cách nấu,
cách dùng một số món ăn - bài thuốc theo kinh nghiệm cổ xưa truyền
khẩu... Ðiều đó cho thấy, y học có một vị thế không nhỏ trong đời
sống thường nhật của nhân dân ta, nhất là trong điều kiện kinh tế cịn
nhiều khó khăn.
Nhiều nước trên thế giới cũng đã chú ý phát triển nguồn dược
liệu từ cây cỏ. Ở nước ta từ bao đời nay, cây thuốc là nguồn dược liệu
quan trọng để chữa bệnh cho người dân. Hiện đã phát hiện ra 3,820
loại cây được sử dụng làm thuốc, chủ yếu là ở vùng rừng núi. Các dân
tộc đều có kinh nghiệm chữa bệnh bằng cây cỏ. Chẳng hạn, đồng bào
các dân tộc ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang) đã dùng tới 118 loại cây để
chữa 17 loại bệnh. Từ mụn nhọt, phụ khoa đến tê thấp, an thần.
Kho tàng tri thức dân gian của người H’Mông về trồng khai
thác cây thuốc rất phong phú. Họ tìm ra và chế biến các cây thuốc có
giá trị cao như thảo quả, sa nhân, cam thảo dây,… Mỗi thầy thuốc
H’Mơng có thể sử dụng thường xuyên từ 60 đến 150 loại cây thuốc,

trong đó có nhiều cây quý.
Quan niệm chữa bệnh của y học cổ truyền cũng dựa trên triết lý
âm dương ngũ hành. Người Việt coi việc đau ốm là do mất cân bằng
về hàn nhiệt, hoặc mất cân bằng về âm dương, vì vậy để chữa bệnh ta
thường dùng các loại thảo dược phù hợp để tác động sao cho âm
dương được cân bằng trở lại. Hiện nay có hàng ngàn bài thuốc dân
gian chữa các bệnh thơng thường; Những căn bệnh có tính mãn tính
người ta ưa chuộng dùng cách chữa y học cổ truyền hơn tây y.

15


2.1.6. Tri thức dân gian về ẩm thực
Trong văn hóa Việt Nam, đây là một trong những mảng tri thức
dân gian về sinh hoạt hàng ngày của dân tộc, là loại hình di sản văn
hóa mang tính dân tộc đặc sắc. Ăn uống không đơn thuần chỉ để đáp
ứng nhu cầu cơ bản của con người mà còn trở thành nghệ thuật, bởi
đối với con người Việt Nam ăn không chỉ để no mà cịn cho ngon.
Việt Nam có nền văn minh lúa nước nên nhiều món ăn và
nguyên liệu nấu ăn có nguồn gốc từ lúa gạo và cơm là thức ăn chính
khơng thể thiếu trong các bữa ăn vậy nên khi đến bữa ăn ta thường
gọi là bữa cơm, ăn cơm. Còn đồ nếp thường xuất hiện trong các dịp
lễ, tết. Trong bữa ăn thường ngày của người Việt thường kết hợp với
các món canh, rau như rau muống, canh rau, canh chua, canh cua,
canh cá,…và các loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt lợn, bò, gà,
ngan,

vịt,




sau



các

loại

thủy

saen

như tơm,

cá,

cua, ốc, hến, trai, sị,... Đặc biệt người Việt rất chuộng các loại mắm
như mắm cá, tôm, tép, cáy,… và các loại dưa muối (cải, kiệu, hành,
cà). Còn rượu được sử dụng vào các dịp liên hoan, lễ tết,... ăn trầu,
hút thuốc lào, uống chè trước kia chẳng những là nhu cầu, thói quen
mà con đi vào cả lễ nghi phong tục “Miếng trầu là đầu câu chuyện”.
Một đặc điểm nữa là hệ thống ẩm thực người Việt thiên về phối
trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, các gia vị thường
được sử dụng là tương, ớt, tỏi, gừng, riềng, rau húng,… hoặc sử dụng
những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị như các
món măng, chân cánh gà, phủ tạng động vật,… Và trong bữa cơm
người Việt
Trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt, để có được một món
ăn ngon phải có sự phối hợp của nhiều yếu tố trong đó quan trọng


16


nhất là mùi vị, màu sắc, dinh dưỡng: ngũ chất: bột - nước - khoáng đạm - béo, ngũ vị: chua - cay - ngọt - mặn - đắng và ngũ sắc: trắng xanh - vàng - đỏ - đen. Món ăn theo cách thưởng thức của người Việt
phải có sự phối hợp của các giác quan như thị giác, khứu giác và vị
giác. Một món ăn ngon phải có mùi thơm hấp dẫn, vị ngon đậm đà,
màu sắc hài hịa, đẹp. Về mùi vị, người Việt đã có hẳn một triết lý ẩm
thực, trong mỗi món ăn phải có sự hài hịa âm dương. Hài hịa âm
dương khơng chỉ làm cho mùi vị món ăn hấp dẫn mà cịn làm cho
món ăn được an tồn, đảm bảo về mặt sức khỏe. Theo triết lý âm
dương ngũ hành thì các thức ăn được chia làm năm mức âm dương
khác nhau. Triết lý âm dương trong món ăn của người Việt tuân thủ
nghiêm ngặt quy luật chuyển hóa và bù trừ, loại thức ăn có tính âm
cần kết hợp với lại thúc ăn có tính dương để tạo ra sự hài hịa. Ví dụ,
gừng có vị ấm (dương) dùng phối hợp với các loại thức ăn có tính mát
(âm) bí xanh, bắp cải, cá, thịt bị; ớt có vị cay nóng (thái dương) dùng
để phối hợp với các loại thủy hải sản vừa có tính lạnh (thái âm), vừa
tanh; thịt gà thường ăn với lá chanh, thịt chó thường nấu với riềng,
mẻ, rau răm ăn với trứng vịt lộn,…
Bên cạnh việc tuân thủ việc tuân thủ triết lý âm dương, món ăn
Việt Nam cịn chú trọng đến tính thẩm mĩ. Một món ăn nhiều khi
được trình bày cơng phu, đẹp như một tác phẩm tạo hình. Phương
pháp trang trí món ăn truyền thống của cha ông ta là dùng các loại
rau, củ để kẻ thành hoa, lá và các hình chim, thú rất sinh động để tạo
ra những món ăn với những triết lý và biểu tượng sâu sắc, như món gà
đoàn viên, mực tuyết hoa,…
Tuy nhiên, tùy vào từng đặc điểm của mỗi vùng mà có cách ăn
riêng như: cư dân người Thái ở vùng núi ăn cơm nếp vì ăn ít no lâu,


17


có thể trèo núi khơng nặng bụng, xơi mang theo người lên rẫy dẻo lâu,
ăn không cần canh, chỉ cần tí chẻo là xong. Người ở đồng bằng ăn
cơm tẻ với canh căng bụng; Và Việt Nam nằm vùng nhiệt đới ẩm gió
mùa, con người thường bị bệnh thời tiết (dịch), bệnh do đất đai (ngứa)
và do sinh vật (vi khuẩn),… Do đó, nếu ăn canh hến (lạnh) thì phải
thêm gừng (nóng), ăn mắm (dễ đau bụng vì vi khuẩn) phải có chuối
chác, sung, vả, lộc, mướp đắng,… để diệt vi khuẩn làm cho chắc
bụng; ăn cộng đồng, mọi người cùng ăn chung một mâm, dùng chung
một nồi cơm, bát canh,… và cơ cấu bữa ăn của người Việt là cơm rau (canh) - cá.
Di sản văn hóa ẩm thực dân gian của người Việt Nam rất đa
dạng và phong phú, mỗi một vùng, miền đều có các món đặc sản
riêng, ngồi ra trong bếp của người Việt cịn có các món ăn học hỏi từ
nhiều dân tộc khác nhau và cải biến một cách tài hoa theo phong cách
của mùa. Đó là những món ăn mang vị ngọt, khơ của Trung Quốc, các
món dùng nhiều xả, ớt của Ấn Độ, các món ăn với nhiều bơ sữa của
Pháp,… các món ăn này đều được thích nghi với phong cách ăn của
người Việt là giảm mỡ, kèm nhiều rau, nhiều gia vị,… Và nhiều món
ăn của Việt Nam đã nổi tiếng trên thế giới như món phở, nem rán,
bún, bánh cuốn, giị lụa,… đã lơi cuốn đơng đảo khách du lịch đến với
Việt Nam.
Tóm lại, theo ý kiến của tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã, ẩm thực
Việt Nam gồm có 9 đặc trưng:
- Tính hồ đồng hay đa dạng.
- Tính ít mỡ.
- Tính đậm đà hương vị.
- Tính tổng hoà nhiều chất, nhiều vị.


18


- Tính ngon và lành.
- Tính dùng đũa.
- Tính cộng đồng hay tính tập thể.
- Tính hiếu khách.
- Tính dọn thành mâm.
2.1.7. Tri thức dân gian về các nghề thủ cơng
Do đặc tính nơng nghiệp và quan hệ làng xã Việt Nam, các
ngành nghề thủ công được lựa chọn và dễ phát triển trong quy mô cá
nhân rồi mở rộng thành quy mơ gia đình. Dần dà, các nghề thủ cơng
được truyền bá giữa các gia đình thợ thủ cơng, dần được truyền ra lan
rộng ra phát triển trong cả làng, hay nhiều làng gần nhau theo nguyên
tắc truyền nghề, trở thành những tri thức dân gian phong phú và sinh
động. Được biểu hiện bằng những sản phẩm thủ công với những nét
độc đáo, tinh xảo, hoàn mỹ.
Cũng bắt nguồn từ sinh hoạt hàng ngày, ngoài nhu cầu sử dụng
đồ vật, con người cịn có nhu cầu thẩm mỹ và thưởng thức cái đẹp.
Chính vì vậy mà nhiều vật dụng bình thường như bát đĩa ăn, vải mặc,
nón đội đầu, giường chiếu nằm, v.v… dưới bàn tay khéo léo của
người thợ thủ công, đã trở thành những vật dụng mang tính tạo hình,
thẩm mỹ tinh tế. Những sản phẩm tuyệt vời của người Việt cổ từ ngàn
xa xưa còn lưu lại đến ngày nay, như những đồ trang sức bằng đá, vật
dụng bằng gốm, những chiếc trống đồng Đông Sơn, đã trở thành biểu
tượng của nền văn hóa Việt Nam. Điều này cho thấy vị trí quan trọng
của nghề thủ cơng truyền thống trong kho tàng văn hóa dân tộc.
Các nghề thủ công truyền thống thường được phân loại tùy
thuộc vào chất liệu làm vật dụng và phương pháp chế tác vật dụng đó.
Về chất liệu, có thể thấy các loại khác nhau như đá, đất, đồng, tre,


19


nứa, gỗ, mây, vỏ trai,... Về phương pháp chế tác có thể thấy các cách
đẽo, đục, gọt, đúc, nặn, nung, đan, dệt, vẽ,… Sản phẩm của các nghề
thủ cơng có thể là công cụ lao động, vật liệu xây dựng, đồ dùng, đồ
thờ, đồ trang sức, vũ khí.
Nói đến nghề thủ công truyền thống, dễ thấy được một đặc
điểm là: các bí quyết nghề nghiệp thường được lưu giữ kiểu “cha
truyền con nối”, vừa làm vừa học, vừa nâng cao tay nghề theo kinh
nghiệm, tích lũy ngày một nhiều thêm. Một đặc điểm là những người
làm nghệ thường tập trung thành phường hội, thành làng, thành phố,
mang tính chất ổn định cao qua thời gian kéo dài hàng trăm năm.
Ở nước ta, nghề thủ công tồn tại trong các làng nghề ở hầu
khắp các địa phương. Làng Vạn Phúc (Hà Nội) có nghề dệt lụa, làng
La Xun (Thái Bình) nổi danh với nghề khảm trai, làng ĐỒng Minh
(Hải Phịng) có nghề tạc tượng, làng Ninh Vân (Ninh Bình) có nghề
trạm khắc đá nổi tiếng, làng Kim Bồng (Quảng Nam) có nghề trạm
khắc gỗ cổ truyền, làng Bàu Trúc (Ninh Thuận) nổi tiếng với sản
phẩm gốm Chăm truyền thống, làng Tương Bình Hiệp (Bình Dương)
có nghề sơn mài, làng Tân Quy Đơng (Cần Thơ) có nghề trồng hoa
cây cảnh, làng Xn La (Phú Xuyên, Hà Nội) với nghề nặn tò he độc
nhất vơ nhị,…
Đặc biệt, thủ đơ Hà Nội có khu phố cổ 36 phố phường, nơi hội
tụ các nghề thủ công, vừa sản xuất vừa buôn bán. Tên mỗi phố thường
bắt đầu từ chữ “Hàng” chỉ một ngành nghề thủ cơng nhất định. Đây
chính là những phường nghề có nguồn gốc từ các làng nghề thủ công
truyền thống ở nhiều địa phương đổ lên kinh thành Thăng Long lập
nghiệp. Hàng Đào chuyên về các loại vóc, tơ lụa; Hàng Bạc là nơi tập

trung những thợ kim hoàng tinh xảo; Hàng Trống với nghề vẽ in tranh

20


dân gian nổi tiếng; Hàng Mã với vô số các mặt hàng đồ chơi trẻ em và
đồ hàng Mã,… Ngày nay, nhiều phố vẫn giữ được tên phố cùng nghề
thủ công truyền thống như: Hàng Bạc vẫn sản xuất, chế tác vàng bạc,
phố Hàng Thiếc làm đồ gò, hàn thiếc, phố Hàng Đồng có nghề trạm
khắc đồng…Nhưng cũng có nơi giữ tến cũ như phồ Hàng Buồm,
Hàng Cân, Hàng Quạt hay Hàng Lọng…
Hay ở các tộc người khác như Tày, Thái, Mường, Hmơng, Dao,
Lào, Lự.. ở phía Bắc hay các tộc Chăm, Khơ-me, các dân tộc bản địa
ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên..., nghề trồng bông, nuôi tằm,
ươm tơ dệt vải hay trồng lanh dệt vải cũng rất phát triển, giải quyết về
cơ bản nhu cầu mặc và sử dụng trong đời sống thường ngày cũng như
trong các hoạt động nghi thức, tơn giáo, tín ngưỡng. Cách đây khoảng
vài ba thập kỷ, việc đệt vải trong nhiều tộc người thiểu số phổ biến
trong mọi gia đình và sản phẩm dệt là thước đo phẩm hạnh của người
phụ nữ. Thành ngữ Thái cho biết: “Đàn ông xem nấm nà (ruộng), đàn
bà xem vạt áo” chính là vậy.
Hiện nay, với sự phát triển lớn mạnh của khoa học – công nghệ
đã cho ra vô vàn sản phẩm trên dây chuyền hiện đại, cùng sự thay đổi
thị hiếu của của người tiêu dùng, đã đặt ra một thực trạng đáng lo ngại
hiện nay là khơng ít làng nghề thủ cơng truyền thống đã dần mất đi
hay khơng cịn nhộn nhịp như xưa. Nhiều làng nghề truyền thống đã
chuyển nghề. Xuất hiện những làng nghề mới, những khơng cịn là
thủ cơng truyền thống, mà sản xuất theo phương thức công nghiệp,
làm hàng nhái, chất lượng thấp và gây ô nhiễm môi trường.


21


3.

Ứng xử với môi trường tự nhiên và ứng xử với môi trường

xã hội
3.1. Ứng xử với môi trường tự nhiên
Theo tập bài giảng “Văn hóa dân gian Việt Nam” có nói: “Từ
việc ứng xử với mơi trường tự nhiên trong các hoạt động sẽ giúp con
người nhận thức, hình thành hệ thống giá trị tri thức dân gian. Và
ngược lại, tri thức dân gian giúp người ta biết cách ứng xử với môi
trường tự nhiên, bảo vệ, khai thác và sử dụng các hiệu quả các nguồn
tài nguyên thiên nhiên.,…”. Như mục 2.1 đã phân tích nội dung của
tri thức dân gian nên mục này tiểu luận phân tích về vai trò của tri
thức dân gian trong ứng xử với môi trường tự nhiên.
Con người trước tự nhiên thật nhỏ bé, người Việt ta sinh sống
bằng nghề nông nghiệp vì thế mà phải phụ thuộc vào tự nhiên rất
nhiều. Khi mà khoa học công nghệ hiện đại chưa phát triển thì những
kinh nghiệm về thời tiết quan trọng biết mấy đối với những người lao
động.
Những tri thức dân gian về thời tiết – khí hậu sẽ giúp cho người
lao động dự đoán được những cơn mưa, bão lũ để tránh thiệt hại đến
mùa màng, cơng sức chăm bón. Chẳng hạn như câu: “Cơn đằng Đông
vừa trông vừa trông vừa chạy/Cơn đằng Nam vừa làm vừa chơi” câu
này đã nói một cách chính xác về những dấu hiệu báo mưa giơng, nếu
xuất hiện cơn ở phía Đơng đó là phía biển nên sẽ có các trận mưa gió
lớn và di chuyển rất nhanh sẽ gây thiệt hại nhiều cho người lao động
nên kinh nghiệm này giúp người dân nhận biết được trước tình hình

mà chuẩn bị tránh những thiệt hại lớn, cịn các cơn kéo từ phía Nam là
những con mưa nhỏ, đến chậm cũng có thể sẽ tan biến nên không cần
vội vàng. Hay như câu “Mưa tháng bảy bẻ gãy cành trâm”. Câu nêu

22


lên một cách chính xác biến trình năm lượng mưa ở Bắc bộ, ở đây cực
đại phổ biến vào tháng âm lịch. Đến tháng 10 âm lịch, mưa cực đại
chuyển vào Nam Trung bộ: “Thương anh biết lấy chi đưa; Đơi dịng
nước mắt như mưa tháng mười”. Ngồi ra những tri thức ấy còn là
kinh nghiệm giúp người lao động có được mùa màng bội thu như
“Tháng chạp là tháng trồng khoai/Tháng giêng trồng đậu, tháng hai
trồng cà. Tháng ba cày vỡ ruộng ra/Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy
đồng” đây là những tri thức bổ ích giúp nhân dân lao động dựa vào đó
để trồng các loại cây phù hợp với từng tháng để thu hoạch được năng
suất cao. Hay từ những tri thức dân gian về y dược có thể giúp chữa
khỏi những bệnh do thời tiết gây ra như ho, cảm,…
Những kinh nghiệm này đã được khoa học hiện đại khẳng định.
Như vậy có thể khẳng định tri thức dân gian đã có vai trị to lớn trong
thích ứng mơi trường tự nhiên. Từ những tri thức dân gian, người lao
động có thể vận dụng để điều chỉnh các hoạt động sống nhằm làm
giảm thiểu những tác động tiêu cực của khí hậu, của mơi trường, và
có thể được khai thác và phù hợp để đảm bảo cộng đồng có thể làm
giảm tính dễ tổn thương với biến đổi của khi hậu, những biến đổi tiêu
cực của mơi trường tự nhiên.
Tóm lại, trong thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh với thiên
nhiên, dân tộc ta đã có một nhận thức tương đối vững vàng về quy
luật của tự nhiên, xã hội để phát triển sản xuất, xây dựng và ổn định
cuộc sống.

3.2.

Ứng xử với môi trường xã hội

Tri thức dân gian Việt Nam chứa đựng trong đó vơ vàn những
bài học, những kinh nghiệm về đạo đức, lối sống, cách ứng xử với

23


cộng đồng, xã hội, đề cao sự chuẩn mực về đạo đức, lối sống như cần
cù, chăm chỉ, giản dị, tinh tế, hiếu thảo, yêu thương, chung thủy.
Trong hệ thống tri thức dân gian về ứng xử xã hội có thể thấy
người Việt Nam đặc biệt coi trọng và đề cao con người, coi con người
là trung tâm của vũ tụ, con người quý giá hơn tất cả mọi thứ của cải
vật chất trên đời: “Người ta là hoa của đất”, “Một mặt người hơn
mười mặt của”, “Người sống hơn đống vàng”. Đề cao con người, tri
thức dân gian đề cao sự kính trọng người già, thương yêu con trẻ
“Yêu trẻ trẻ đến nhà/Kính già già để tuổi cho”. Và đề cao người phụ
nữ, mặc dù dưới chế độ phong kiến trước đây, người phụ nữ phải chịu
thiệt thòi trăm bề: “Ba đồng một mớ đàn ông/Đem bỏ vào lồng cho
kiến nó tha/Ba trăm một mụ đàn bà/Đem về mà trải chiếu hoa cho
ngồi”.
Ngoài ra, tri thức dân gian đề cao về tình nghĩa gia đình, anh
em, họ hàng, láng giềng qua ca dao, tục ngữ
Và một nét độc đáo trong văn hóa dân gian Việt Nam là đề cao
việc học tập như: “Người mà khơng học, khác gì đi đêm/ Người
không học như ngọc không mài”; “Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài/
Cũng thành vơ dụng cũng hồi ngọc đi” - ý nói nếu khơng học con
người sẽ trở nên mù mờ, tăm tối, dẫu có là ngọc đi chăng nữa mà

khơng được mài, được giũa thì ngọc ấy cũng chẳng có giá trị gì. Hay
câu ca dao: “Học là học biết giữ giàng/ Biết điều nhân nghĩa biết
đàng hiếu trung” để khuyên mỗi người chúng ta cần phải học tập
những đạo lý, lễ nghĩa làm người. Hoặc câu: “Người khơng học,
khơng có sự hiểu biết/ Trẻ mà khơng học, lớn khơng làm được việc
gì”; “Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học”, đã cho thấy việc học
khơng có bất cứ giới hạn nào, mà học tập vừa là trách nhiệm, vừa là

24


quyền lợi, nó ln địi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm cao của mỗi con
người. Câu tục ngữ: “Luyện mãi thành tài, miệt mài tất giỏi”, ý muốn
nhắc nhở chúng ta phải rèn luyện ý chí , nghị lực để vươn lên trong
cuộc sống. Đồng thời người VIệt Nam cũng đề cao vai trị, vị trí của
người thầy trong xã hội: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, “Khơng thầy đó
mày làm nên” và nhắn nhủ “Muốn sang phải bắt cầu kiều/Muốn cơn
hay chữ thì u lấy thầy”,…
Trong cuộc sống, tri thức văn hóa dân gian ln đề cao đức tính
của con người đó là sự giản dị, tiết kiệm, tránh xa hoa, lãng phí, ln
coi trọng giá trị và vẻ đẹp bên trong. Ví dụ: “Ăn lấy chắc, mặc lấy
bền”, “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Cái nết đánh chết cái đẹp”, “Đói
cho sạch, rách cho thơm”,…
Trong ứng xử giữa con người với con người, tri thức của văn
hóa dân gian ln đề cao sự giao tiếp ý nhị, vừa tơn trọng lẫn nhau,
vừa chan hịa, tình cảm. Vì thế người VIệt Nam giao tiếp trị chuyện
thường rào trước đón sau “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Ngay cả
cách bày tỏ tình cảm yêu đương, nam nữ thanh niên Việt Nam xưa
cũng thật tinh tế và ý nhị: “Bây giờ mận mới hỏi đào/Vườn hồng đã
có ai vào hay chưa?/Mận hỏi thì đào xin thưa/Vườn hồng có lối

nhưng chưa ai vào”. Đó cịn là lối sống có trước, có sau, nhân nghĩa,
thủy chung “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Ta được như hơm nay thì phải
nhớ người đã giúp ta: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”.
Trong cuộc sống, để làm nên công việc hay rọng ra là để thành công
trong sự nghiệp đâu phải lúc nào cũng dễ dàng, nên người xưa đã
khuyên răn “Có cơng mài sát có ngày nên kim”,…
Hệ thống tri thức dân gian từ chỗ góp phần định hướng các giá
trị, chuẩn mực cho mỗi con người trong cộng đồng đã tạo ra một nền

25


×