MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sau 35 năm thực hiện công cuộc
đổi mới của nhân dân ta, đã và đang có những bước đi vững chắc và đầy triển
vọng. Cùng với các thành tựu đã đạt được về kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội,
đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện đại, đã tác động
sâu sắc tới hệ thống giá trị, thang giá trị và GDGT, trong đó có giáo dục
GTNN. Vì thế, cần phải giáo dục giá trị cho con người Việt Nam trong thời kỳ
mới, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên, sinh viên, học viên. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “xây dựng và hoàn thiện giá trị,
nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hố dân tộc
trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế, bồi dưỡng các
giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống,
lối sống, năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam” [7,
tr.106].
Là lực lượng nòng cốt, tin cậy của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn cách
mạng hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung và đội ngũ cán bộ quân đội
nói riêng, cần phải được xây dựng vững mạnh tồn diện trên tất cả các mặt chính
trị, tư tưởng và chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới. Sẽ là những sĩ quan chỉ huy binh chủng
hợp thành trong tương lai, học viên Trường SQLQ2, cùng với học viên các Trường
sĩ quan trong qn đội chính là lực lượng đơng đảo kế cận, bổ sung trực tiếp cho đội
ngũ cán bộ quân đội. Vì vậy giáo dục GTNN quân sự cho họ ngay từ khi ngồi trên
ghế nhà trường, là một bảo đảm quan trọng đối với sự trưởng thành của mỗi cá
nhân khi ra trường, cũng như đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội theo hướng cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Giáo dục GTNN có vai trị vơ cùng quan trọng trong cuộc sống của con
người. Nó là cái con người dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho
1
hoạt động của mình. Do đó, khi con người tìm được một nghề phù hợp với
trình độ chun mơn, sở thích của họ, thì họ sẽ có khả năng cống hiến tốt nhất
cả trí lực và thể lực cho nghề nghiệp đã chọn. Trái lại, khi con người khơng có
điều kiện lựa chọn, hoặc sai lầm khi chọn nghề, không những bản thân họ phải
“trả giá”, mà cơ quan, đơn vị của họ cũng phải chịu thiệt thòi nhất định. Do
vậy, xác định đúng ngành nghề, tìm được cơng việc thật sự có giá trị, khơng
những có lợi cho cá nhân, mà cịn đem lại lợi ích rất lớn cho ngành nghề nói
riêng và xã hội nói chung.
Đối với Trường SQLQ2- Trung tâm đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu
câp phân đội ở khu vực phía Nam trong những năm vừa qua đại đa số học viên
đã có ý thức nghề nghiệp rõ ràng, có lịng say mê, gắn bó với nghề; có sức
khoẻ, và thể lực tốt, họ mong muốn được trở thành học viên của nhà trường.
Tuy nhiên, là những hạ sĩ quan, chiến sĩ, học sinh mới tốt nghiệp phổ thông
trung học thi vào trường, bên cạnh những đặc điểm tâm - sinh lý còn đang phát
triển, thì trình độ hiểu biết, kinh nghiệm, vốn sống, phẩm chất ý chí nghề nghiệp
của họ cịn hạn chế, phiến diện, chưa thật rõ ràng. Thực tế cho thấy, một số học
viên không xác định được GTNN quân sự của mình, họ thi vào trường với nhiều
lý do khác nhau như: do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn khơng có điều kiện
học đại học ở ngồi; do sức ép của gia đình, theo bạn bè; khơng phải xin việc sau
khi ra trường… họ không thấy được ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn của nghề
nghiệp quân sự là bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân. Vì vậy, trong
quá trình đào tạo những học viên này chưa thật sự tích cực, tự giác, tu dưỡng
học tập, rèn luyện; chưa thật sự yêu nghề, gắn bó với nghề. Thực tế hiện nay,
hệ giá trị có những biến đổi theo hướng tích cực, năng động do yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, những tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường đã ảnh hưởng sâu sắc tới hệ giá trị, thang giá trị nghề nghiệp… làm
cho học viên dễ có thái độ và hành vi sai lệch, nhất là xu hướng ưu tiên lựa
chọn các giá trị vật chất hơn các giá trị tinh thần; giá trị cá nhân hơn giá trị
2
tập thể, xã hội. Do đó, thơng qua q trình giáo dục đào tạo tại trường việc
giáo dục GTNN quân sự cho họ là vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay.
Vấn đề giá trị, GDGT đã có nhiều cơng trình nghiên cứu cả về mặt lý
luận và thực tiễn ở những góc độ và phương diện khác nhau. Tuy nhiên, dưới
góc độ khoa học giáo dục, việc nghiên cứu giáo dục GTNN cho học viên ở
nhà trường quân sự vẫn là vấn đề mới mẻ. Đặc biệt, cho tới nay chưa có một
cơng trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống giáo dục GTNN quân
sự cho học viên Trường SQLQ2 hiện nay.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn và thực hiện đề tài “Giáo dục giá
trị nghề nghiệp quân sự cho học viên Trường Sĩ quan Lục quân 2 hiện nay” là
vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn đang đạt ra.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi về giá trị và giáo dục giá trị
Giá trị nghề nghiệp là cơ sở đánh giá thái độ, hành vi đúng, sai của con
người. Các giá trị nghề nghiệp, nhất là các giá trị chung, phổ biến được coi như
phương tiện cơ bản để tạo nên sự liên kết, hợp tác mọi thành viên trong nhóm,
cộng đồng. Trong lịch sử nghiên cứu về giá trị và GDGT có nhiều cơng trình
nghiên cứu dưới góc độ Giáo dục học và Tâm lý học. Từ tài liệu thu thập được,
tác giả hệ thống lại trên một số hướng nghiên cứu chính sau đây:
Từ năm 1968 - 1974, Viện nghiên cứu thanh niên ở Đức đã tiến hành
nghiên cứu 1000 học sinh phổ thông và 2000 sinh viên đại học để tìm hiểu
định hướng và giáo dục giá trị [50, tr.20].
Trong những năm 1977 - 1978, Trung tâm nghiên cứu khoa học về
thanh niên ở Bungari đã nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên,
trong đó có đề cập đến giá trị, đặc biệt là sự khác biệt trong thang giá trị của
thanh niên so với thế hệ cha ông [50, tr.20].
Năm 1985, Viện nghiên cứu thế giới của Nhật Bản đã chú trọng nghiên
3
cứu thanh niên ở 11 quốc gia lứa tuổi từ 18 – 24 tuổi. Tiếp theo đó, Viện khảo
sát xã hội Châu Âu nghiên cứu trên thanh niên ở 10 nước Châu Âu. Cả hai
cuộc điều tra này đều đề cập đến vấn đề “định hướng và giáo dục giá trị của
thanh niên nhằm giúp họ chuẩn bị bước vào cuộc sống” [50, tr.20].
Năm 1986 - 1987, UNESCO đã đề nghị Câu lạc bộ Rome tiến hành
điều tra quốc tế về giá trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỷ
XXI trong tình hình có nhiều biến đổi đang ảnh hưởng đến xã hội vào những
năm cuối thế kỷ XX [52, tr.20].
Từ năm 1995 Liên Hiệp Quốc đã bắt đầu dự án quốc tế về Chương trình
giáo dục những giá trị sống. Mục đích của cuộc nghiên cứu phục vụ cho giáo
dục giá trị trong hệ thống giáo dục các nước, nhất là giáo dục giá trị đạo đức
để chuẩn bị cho con người bước vào thế kỷ XXI. Các tác giả đã khẳng định
rằng, sự thay đổi của thế giới đã dẫn đến sự khủng hoảng, hay nói cách khác là
sự thay đổi căn bản về giá trị rộng khắp, đa dạng như một hiện tượng toàn
cầu .Ở Thái Lan, sự phát triển các giá trị con người được coi là nhân tố cơ bản
đối với sự phát triển quốc gia. Do vậy, cần phải nghiên cứu kỹ để xác định các
giá trị cơ bản để giáo dục, vì xã hội ln phát triển, các giá trị cũng biến động
và phát triển theo. Từ quan niệm đó, các nhà nghiên cứu Thái Lan xác định 5
giá trị cơ bản là: Tự lực chuyên cần; tiết kiệm; kỷ luật, pháp luật và trật tự;
trung thành với tôn giáo; u hồng đế, u nước và tơn giáo. Chính phủ huy
động Bộ Giáo dục chịu trách nhiệm đưa 5 giá trị cơ bản vào cuộc sống.
Nhật Bản, trong cuốn “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo” của nhà sư phạm
Tsunéabero Makiguchi xuất bản từ năm 1930, đã thể hiện tư tưởng cải cách giáo
dục chống lại nền giáo dục gia trưởng, bảo thủ đương thời. Theo ông, con người
vốn có bản chất sáng tạo, tạo ra giá trị cho cuộc sống, do đó “giáo dục phải
hướng dẫn chúng ta tới mục tiêu đó” và các hoạt động giáo dục phải nhằm thúc
đẩy quá trình tạo giá trị, giáo dục phải nhận thức rõ các thành tố của giá trị, các
bậc thang của giá trị, gồm cái thiện, cái ích và cái đẹp, do vậy 3 loại giá trị tiêu
biểu phải hướng tới là giá trị kinh tế, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ.
4
Philippin, cuốn “Giáo dục giá trị cho con người philippin”1988, người
ta đã nhấn mạnh mục tiêu giáo dục giá trị là phát triển người Philippin
thành con người tồn diện, có ý thức dân tộc, có tinh thần quốc tế, để thực
hiện mục tiêu đó, Bộ giáo dục - Văn hố - Thể thao qui định những giá trị
cốt lõi đưa vào giáo dục trong nhà trường đó là: Thể lực, tinh thần, tri thức,
đạo đức, trách nhiệm xã hội, hiệu quả kinh tế, tinh thần dân tộc và chủ nghĩa
yêu nước[ 50, tr. 34 - 39].
Indonexia, coi giáo dục là nhân tố quyết định để duy trì sự thống nhất
của Quốc gia. Mục tiêu của giáo dục là phát triển con người toàn diện, bao
gồm 5 vấn đề: 1. Phát triển những chuẩn mực và giá trị; 2. Phát triển khả năng
trí tuệ; 3. Phát triển kiến thức và kỹ năng; 4. Phát triển sự giao tiếp; 5. Phát
triển ý thức, thái độ hành vi bảo vệ môi trường và sinh thái[50, tr. 41].
* Tình hình nghiên cứu trong nước về giá trị và
giáo dục giá trị nghề nghiệp
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân tiêu biểu của các giá trị dân tộc Việt Nam,
những tư tưởng của người có ý nghĩa giá trị và GDGT to lớn đối với mỗi người dân
Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Người khẳng định: Khơng có gì q hơn
độc lập tự do, độc lập tự do chính là là giá trị cao quí nhất của mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc, của mọi nhà, mọi người. Khi bàn về phẩm chất của người cán bộ quân
đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra các giá trị:
“Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Cần, kiệm, liêm, chính
Trung với nước, hiếu với dân” [29, tr. 246 - 247].
Đây là những giá trị cốt lõi mà người cán bộ quân đội cần phải phấn
đấu, tu dưỡng rèn luyện ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện hoàn cảnh để
thực sự là “người đầy tớ của nhân dân”. Đối với nhân cách người cán bộ,
chiến sĩ trong quân đội, Người nhấn mạnh hai giá trị căn bản là đức và tài, đây
là hai mặt cơ bản của một nhân cách, có quan hệ hữu cơ với nhau. Trong đó,
5
đạo đức cách mạng là gốc, là cái cốt lõi của nhân cách. Những giá trị đó được
Hồ Chí Minh đúc kết trong bài nói chiêu đãi mừng quân đội ta 20 tuổi ngày
22 tháng 12 năm 1964 là: “ Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn
sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng” [30, tr. 350]. Lời khen ngợi đó đã khái quát bản chất, truyền
thống của quân đội ta và là những giá trị, GDGT nhân cách của người cán bộ,
chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trần Văn Giàu với tác phẩm “giá trị tinh thần truyền thống dân tộc Việt
Nam” (1980). Từ góc độ lịch sử và đạo đức học, tác giả phân tích sâu sắc
những giá trị tinh thần truyền thống của lịch sử dân tộc Việt Nam để chiến
thắng mọi kẻ thù xâm lược. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một bảng truyền
thống của dân tộc Việt Nam là: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan,
thương người, vì nghĩa” [17,tr.13].
Phạm Minh Hạc là người đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về giá trị,
định hướng phát triển giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Trong đó
tiêu biểu là tác phẩm “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa”, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 2001. Trong
cuốn sách này, tác giả đã khái quát những định hướng chiến lược phát triển
toàn diện con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Bao gồm các định hướng về xây dựng đạo đức, về phát triển trí tuệ, về
phát triển thẩm mỹ, về phát triển thể chất, về phát triển năng lực nghề nghiệp
của con người. Trong phần kết luận, tác giả đã khẳng định đó là những giá trị
của con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Cơng trình “ giá trị, định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá
trị” (1995) là một nhánh của đề tài KX07-04 do Nguyễn Quang Uẩn làm
chủ nhiệm. Với cách tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách, đề tài đã
nghiên cứu những giá trị chung như: giá trị nhân cách, GTNN, GT truyền
thống và hiện đại của nhóm học sinh, sinh viên, thanh niên nông thôn, công
6
nhân viên chức, cán bộ khoa học kỹ thuật, lực lượng vũ trang và các doanh
nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Nguyễn
Quang Uẩn đã tiến hành khảo sát bằng cách đưa ra 25 GTNN và đề nghị
người được khảo sát lựa chọn 10 giá trị quan trọng nhất. Kết quả cho thấy,
yêu cầu chọn 10 giá trị thì 9 GTNN đã được trên 50% số người lựa chọn trong
số 25 giá trị và được xếp theo thứ bậc từ cao xuống thấp như sau:
Nghề có thu nhập cao
Nghề phù hợp với sức khỏe, trình độ
Nghề phù hợp với hứng thú, sở thích
Nghề có điều kiện chăm lo gia đình
Nghề có điều kiện phát triển năng lực
Nghề được xã hội coi trọng
Nghề đảm bảo an tâm suốt đời
Nghề có thể giúp ích cho nhiều người
Nghề có điều kiện tiếp tục học lên [52].
Từ năm 1991-1995 có các đề tài thuộc chương trình KX-07 “Con người
Việt Nam- mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội”, đã đề cấp đến
vấn đề giá trị và ĐHGT như: đề tài “Tìm hiểu ĐHGT của thanh niên Việt nam
trong điều kiệnkinh tế thị trường”(1994) thuộc đề tài KX07-10, do tiến sĩ Thái
Duy Tuyên làm chủ nhiệm. Các tác giả khẳng định, ĐHGT của thanh niên Việt
Nam nói riêng và tồn xã hội nói chung đang có sự biến đổi mạnh mẽ từ năm
1996 đến nay, bên cạnh những giá trị truyền thống như: lòng yêu nước, tinh thần
nhân nghĩa, nhân đạo, cần cù trong lao động...thì xuất hiện những giá trị mới
như: tính năng động, tính tích cực học tập, chấp nhận cạnh tranh, tính hiệu quả
thiết thực...Đồng thời cũng xuất hiện xu hướng chạy theo lợi ích cá nhân, coi nhẹ
lợi ích tập thể, phai nhạt lý tưởng. Từ đó các tác giả đưa ra các giải pháp điều
chỉnh, giáo dục ĐHGT cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay.
Trong quân đội thời gian qua cũng có nhiều bài viết và cơng trình
7
nghiên cứu liên quan đến vấn đề giá trị và GDGT như đề tài: “Xây dựng đội
ngũ sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới”,
do Văn Cương làm chủ nhiệm. Đề tài “Tác động của những biến đổi kinh tế
xã hội đến nhận thức chính trị, tư tưởng của cán bộ quân đội và một số vấn đề
đổi mới công tác tư tưởng, tổ chức trong quân đội hiện nay” (1994), do Trần
Xuân Trường làm chủ nhiệm... Đáng chú ý là đề tài “Định hướng giá trị nhân
cách đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam” (2002), do Lại Ngọc
Hải chủ nhiệm, trong đề tài này các tác giả đã khái quát những đặc trưng trong
giáo dục, ĐHGT nhân cách của đội ngũ sĩ quan trẻ hiện nay, phân tích thực trạng,
chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng, dự báo xu hướng vận động của quá trình ĐHGT,
giáo dục giá trị nhân cách của đội ngũ sĩ quan trẻ trong những năm tới. Trên cơ sở
đó, nêu lên những quan điểm, yêu cầu và giải pháp ĐHGT, GDGT nhân cách
đúng đắn cho đội ngũ sĩ quan trẻ trong giai đoạn hiện nay.
Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Bà Hùng “Giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho học viên sư phạm trong nhà trường quân sự hiện nay” đã luận giải
những vấn đề về hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và phát triển đạo đức
nghề nghiệp của người giáo viên trong nhà trường quân sự hiện nay. Đó là những
vấn đề làm cơ sở cho việc nghiên cứu về giáo dục giá trị nghề nghiệp quân sự cho
học viên sĩ quan lục qn.
Ngồi ra cịn một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ cũng đã tiếp
cận đến vấn đề này ở những góc độ, phương diện khác nhau liên quan đến
giá trị và giáo dục GTNN của sinh viên, học viên các trường quân sự.
Nhìn chung, trong những năm qua các cơng trình nghiên cứu về giá trị
và GDGT của con người Việt Nam khá phong phú. Đặc biệt khi tiếp cận vấn
đề này, các đề tài thường xem thanh niên ( chủ thể của quá trình xã hội tiếp theo)
là nhóm khách thể quan trọng trong q trình nghiên cứu. Tính đa dạng của kết
quả nghiên cứu cho thấy bức tranh về GDGT của con người Việt Nam hiện nay
khá sôi động và luôn biến đổi cùng với sự phát triển của xã hội, nhất là từ sau thực
hiện đường lối đổi mới (1986) cho đến nay. Về hướng nghiên cứu, các đề tài chủ
yếu tiếp cận trên bình diện xã hội học, văn hố hoặc tiếp cận liên ngành. Hướng
8
nghiên cứu GDGT trên phương diện Giáo dục học còn ít cơng trình đề cập. Đặc
biệt, nghiên cứu giáo dục GTNN quân sự của HV trong các trường quân sự nói
chung và giáo dục GTNN quân sự của học viên Trường SQLQ2 nói riêng, đến
nay chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách chuyên sâu và có hệ thống. Do
đó, nghiên cứu giáo dục GTNN quân sự cho học viên trong điều kiện đặc thù của
hoạt động quân sự, là một vấn đề quan trọng và cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục GTNN quân
sự cho học viên Trường SQLQ2 hiện nay, trên cơ sở đó, đề xuất những
biện pháp cơ bản để giáo dục GTNN quân sự cho học viên trong q trình
đào tạo, góp phần thực hiện tốt mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về giáo dục GTNN quân sự cho học viên
Trường SQLQ 2 hiện nay
- Phân tích, đánh giá đăc điểm, thực trạng giáo dục GTNN quân sự cho
học viên Trường SQLQ2 hiện nay
- Đề xuất những biện pháp giáo dục GTNN quân sự cho học viên
Trường SQLQ2 hiện nay
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục phẩm chất, nhân cách cho học viên Trường SQLQ2
* Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục giá trị nghề nghiệp quân sự cho học viên Trường SQLQ2
* Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp giáo dục GTNN quân sự cho học
viên đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu có trình độ bậc đại học ở Trường SQLQ2
- Đối tượng khảo sát: học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu có
trình độ bậc đại học ở Tiểu đoàn 1, 3 Trường SQLQ2
9
- Các số liệu điều tra, khảo sát tính từ năm 2012 – 2015
5. Giả thuyết khoa học
GTNN quân sự của học viên Trường SQLQ2 hiện nay được hình thành,
phát triển phụ thuộc vào sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, mà trực tiếp
và chủ yếu là do quá trình giáo dục nhân cách và tự giáo dục của họ. Nếu
Nhà trường thực hiện tốt việc xây dựng bộ chuẩn giá trị nghề nghiệp quân
sự, chuẩn hóa nội dung giáo dục nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm,
niềm tin cho học viên, đồng thời phối hợp các tổ chức, các lực lượng để làm
tốt việc xây dựng mơi trường giáo dục và định kì kiểm tra, đánh giá chặt chẽ
kết quả, chất lượng, tìm ra các biện pháp phù hợp thì hiệu quả giáo dục
GTNN quân sự cho học viên được nâng cao, góp phần thực hiện tốt mục
tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở PP luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng
sảnViệt Nam. Đồng thời dựa trên các quan điểm PPL nghiên cứu khoa học
giáo dục, như quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc, quan điểm lịch sử-lôgic,
quan điểm thực tiễn.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của giáo dục
học Mác xít để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, trong đó tập
trung vào một số phương pháp chủ yếu sau:
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các tài liệu về lý luận giáo dục của
các tác giả trong và ngoài nước, các nghị quyết đổi mới về công tác giáo
dục và đào tạo của Đảng, Quân đội, các văn bản báo cáo tổng kết về công
tác giáo dục và đà tạo ở Trường Sĩ quan Lục quân 2. Từ đó xây dựng cơ sở
10
lý luận của đề tài.
- Các phương pháp nghiên cứu thưc tiễn
Phương pháp tổng kết thực tiễn: Phân tích, tổng kết kết quả giáo dục đào
tạo của Trường Sĩ quan Lục quân 2 để rút ra những vấn đề liên quan đến luận văn.
Phương pháp quan sát: Quan sát các hình thức giáo dục giá trị nghề
nghiệp quân sự cho học viên ở một số đơn vị của trường SQLQ2.
Phương pháp điều tra: Điều tra bằng phiếu hỏi đối với cán bộ quản lý,
giảng viên, học viên của Trường SQLQ2.
Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: xin ý kiến chuyên gia, các nhà
khoa học về một số nội dung lý luận và thực tiễn có liên quan đến luận văn.
Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp toán học để tổng
hợp kết quả và xử lý số liệu bằng cơng thức spearman trong q trình nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Lần đầu tiên luận văn đi vào nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý
luận và thực tiễn giáo dục GTNN quân sự cho học viên Trường SQLQ2 hiện nay,
đồng thời đề ra những biện pháp giáo dục cơ bản góp phần giúp học viên hiểu rõ
GTNN và giáo dục GTNN quân sự cho họ cả trong hiện tại và tương lai.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để giáo dục GTNN quân
sự cho học viên các trường quân sự hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương (9 tiết), kết luận, kiến nghị
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ NGHỀ NGHIỆP QUÂN SỰ
CHO HỌC VIÊN TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2 HIỆN NAY
1.1. Lý luận về giá trị nghề nghiệp quân sự của học
viên Sĩ quan Lục quân 2
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
* Giá trị
Bằng những góc độ và phượng diện tiếp cận khác nhau, mà các nhà Giáo
dục học, xã hội học và tâm lí học đưa ra các định nghĩa khác nhau về giá trị.
J.H.Fichter nhà xã hội học Mỹ đã coi “Tất cả những cái có ích, đáng
ham chuộng hoặc đáng kính phục đối với cá nhân hoặc xã hội đều có một
giá trị” [16, tr.12].
Trong từ điển bách khoa tồn thư của Liên Xơ, do M.M.Rozentan chủ biên,
Nguyễn Thế Hùng dịch đã định nghĩa: “giá trị- những định nghĩa về mặt xã hội của
khách thể trong thế giới xung quanh, nhằm nêu bật tác dụng tích cực hoặc tiêu cực
của khách thể ấy đối với con người và xã hội (cái lợi, thiện và ác, cái đẹp, cái xấu
nằm trong những hiện tượng của đời sống xã hội hoặc tự nhiên” [45, tr. 37].
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Giá trị làcái làm cho một vật có ích lợi, có ý
nghĩa, là đáng q về một mặt nào đó; cái làm cho một vật trở nên đáng ao ước hay
đáng giá [47 tr. 517 - 518].
Phạm Minh Hạc cho rằng: “ giá trị là tính có ý nghĩa tích cực, tốt đẹp
đáng q, có ích của các đối tượng đối với chủ thể” [20, tr.1].
Trần Trọng Thuỷ quan niệm,“giá trị là một hiện tượng xã hội điển
hình, biểu thị các sự vật, hiện tượng, các thuộc tính và quan hệ của hiện thực,
các tư tưởng chuẩn mực, mục đích lí tưởng, các hiện tượng của tự nhiên và xã
hội được con người tạo ra hoặc không được con người tạo ra nhưng đều phục
vụ cho sự tiến bộ của xã hội và phát triển cá nhân con người”[39, tr.1].
Theo Lê Đức Phúc quan niệm: “giá trị là cái có ý nghĩa đối với xã hội,
12
tập thể và cá nhân, phản ánh mối quan hệ chủ thể - khách thể được đánh giá
xuất phát từ điều kiện xã hội lịch sử, xã hội thực tế và phụ thuộc vào trình độ
phát triển nhân cách. Khi đã được nhận thức, đánh giá lựa chọn, giá trị trở nên
động lực thức đẩy con người theo một xu hướng nhất định” (36, tr.13].
Qua nghiên cứu các định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu GT trên một
số nội dung sau:
- Giá trị ln mang tính khách quan - nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại
hay mất đi của giá trị nào đó khơng phụ thuộc vào ý thức của con người, mà
nó phụ thuộc vào sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi một nhu cầu nào đó của
con người. Hay nói cách khác, giá trị chỉ có thể tồn tại trong mối quan hệ
với nhu cầu của con người.
- Giá trị được tạo nên bởi thực tế của lịch sử - xã hội và thực tiễn là
tiêu chuẩn của mọi giá trị. Là cái có ý nghĩa với chủ thể, được xem như là
phương tiện thoả mãn nhu cầu, lợi ích của con người và xã hội .
- Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, tình cảm, thái độ
và yếu tố hành vi của chủ thể trong mối liên hệ với sự vật hiện tượng mang
giá trị, thể hiện sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể.
Hiện nay có nhiều cách phân loại về giá trị, tuỳ theo mục đích tiếp cận,
các tác giả dựa trên những tiêu chuẩn, căn cứ nhất định để phân loại các giá trị.
Thông thường, cách phân loại khá phổ biến là người ta chia giá trị thành hai
loại cơ bản là: giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Trong giá trị vật chất, người
ta thường nói tới giá trị sử dụng và giá trị kinh tế, nghĩa là phân biệt cái có ích
và cái bán được trên thị trường. Trong các giá trị tinh thần, người ta thường đề
cập đến các loại giá trị sau: giá trị khoa học hay còn gọi là giá trị nhận thức (cái
chân lí), giá trị chính trị (cái chính quyền, cái cách mạng…), các giá trị pháp
luật ( cái hợp pháp…), giá trị đạo đức ( cái thiện, cái ác), giá trị thẩm mỹ, giá trị
tôn giáo ( sự linh thiêng, thánh thiện…)
M. Rokeach Phân loại giá trị theo cấu trúc có: giá trị mục đích và
13
phương tiện. Các giá trị mục đích gồm: Thế giới hồ bình; an ninh quốc gia;
tự do; bình đẳng; cuộc sống đầy ý nghĩa; tình bạn chân thành; thơng minh
sáng suốt; tôn trọng người khác; được người khác tôn trọng; cuộc sống sung
túc; sự cứu vớt linh hồn; trưởng thành. Các giá trị phương tiện gồm: trách
nhiệm; trong sạch; danh dự; lịng tin; thanh lịch; tư tưởng thống đạt; hợp tác;
dũng cảm; khoan dung; kỷ luật tự giác; tế nhị; hiểu biết rộng.
Việc phân loại giá trị hết sức đa dạng và phong phú. Căn cứ vào mục
đích, nội dung và phạm vi nghiên cứu của luận văn. Chúng tôi chủ yếu dựa
vào phương pháp phân loại của các nhà khoa học để nghiên cứu giáo dục
GTNN quân sự cho học viên Trường SQLQ2 hiện nay.
Một tổ hợp các giá trị khác nhau được sắp xếp, hệ thống lại theo những
nguyên tắc nhất định, thành một tập hợp mang tính toàn vẹn, hệ thống, thực
hiện các chức năng đặc thù trong việc đánh giá của con người theo những
phương thức vận hành nhất định của giá trị được gọi là hệ giá trị. Một tổ hợp
giá trị, một hệ thống giá trị được sắp xếp theo một trật tự ưu tiên nhất định gọi
là thang giá trị. Trong hệ thống giá trị được sắp xếp theo một trật tự nhất
định, một thứ tự ưu tiên có những giá trị giữ vị trí là những giá trị cốt lõi,
chuẩn mực chung cho nhiều người , chiếm vị trí ở bậc cao hay vị trí then chốt
được coi là chuẩn giá trị.
Từ những lí giải trên, có thể hiểu khái niệm giá trị như sau: giá trị là
toàn bộ những cái đáng q, cần thiết, có ích, có ý nghĩa và thoả mãn những
nhu cầu vật chất, tinh thần của con người, giai cấp, tập thể và xã hội trong
một giai đoạn lịch sử nhất định.
* Giá trị nghề nghiệp
Giá trị không tự có mà do lao động tạo ra và gắn với hoạt động nghề
nghiệp của con người. Có nhiều định nghĩa về nghề nghiệp. Theo E.A.Klimov:
Nghề nghiệp là lĩnh vực sử dụng sức lao động, vật chất và tinh thần của con
người một cách có giới hạn cần thiết cho xã hội (do sự phân cơng lao động ),
nó tạo ra khả năng cho con người sử dụng lao động của mình để thu lấy những
14
phương tiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nghề là công việc chuyên làm theo sự phân
công lao động xã hội” [48 tr. 654]. Nó giúp con người sử dụng sức lao động (vật
chất và tinh thần) để tạo ra những sản phẩm cần thiết cho xã hội, nhờ đó con
người có thể thoả mãn những nhu cầu cho sự tồn tại, phát triển của mình.
Các định nghĩa trên khẳng định: nghề nghiệp là một lĩnh vực mang giá
trị, làm thoả mãn những nhu cầu nhất định trong đời sống. Cùng với sự phát
triển của xã hội, nghề nghiệp cũng xuất hiện như một tất yếu khách quan. Mỗi
nghề nghiệp đều có vai trò nhất định đối với sự phát triển của xã hội, với các
cá nhân làm nghề. Khi nghề nghiệp đó càng phục vụ đắc lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước thì nó càng có giá trị cao. Như vậy, giá trị của
nghề không chỉ do qui luật khách quan đem lại, mà còn do chính những con
người làm chủ thể của nghề nghiệp đó tạo ra.
Từ quan điểm về giá trị và nghề nghiệp như trên, chúng ta có thể hiểu:
GTNN là tồn bộ những cái cần thiết, có ích đảm bảo cho sự tồn tại, phát
triển của nghề nghiệp do chúng có thể thoả mãn những nhu cầu, lợi ích nhất
định của con người và đáp ứng yêu cầu của xã hội đặt ra.
* Giá trị nghề nghiệp quân sự của học viên Trường Sĩ quan Lục quân 2
Nghề nghiệp quân sự, là một lĩnh vực hoạt động mà chủ thể là đội ngũ
sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp - những người hoạt động lâu dài, gắn
bó cả cuộc đời và sự nghiệp của mình trong quân đội. Họ là những người
được đào tạo về chun mơn qn sự, có đủ kiến thức và phẩm chất, năng
lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nghề nghiệp quân sự là một lĩnh
vực lao động đặc biệt, đòi hỏi ở mỗi người sĩ quan phải có ý thức chính trị
-xã hội rất cao, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc cho cuộc sống hồ bình của nhân dân.
Giá trị nghề nghiệp quân sự chính là sự thừa nhận, đánh giá của xã
hội đối với vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của qn đội trong sự nghiệp
15
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những giá trị đó, được khẳng định một cách rõ
ràng và chắc chắn, thông qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc Việt
Nam, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Ngày nay, vị trí,
vai trị của Qn đội nhân dân Việt Nam đặc biệt được coi trọng, qn đội
ln làm trịn trách nhiệm, là cơng cụ bạo lực cách mạng, chỗ dựa tin cậy
của Đảng và nhân dân, quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà
chiến đấu, xứng đáng là đội quân cách mạng bách chiến, bách thắng. GT ấy
của Quân đội nhân dân Việt Nam có được, trước hết là kết quả từ sự chăm lo, bồi
dưỡng của Đảng và Bác Hồ kính u, cùng với q trình khơng ngừng phấn đấu
hồn thiện về mọi mặt của quân đội, đặc biệt là sự vững vàng về chính trị với
niềm tin mãnh liệt vào lí tưởng cộng sản, vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, của
đất nước. Chính điều đó, đã tạo nên những giá trị to lớn cho Quân đội nhân dân
Việt Nam nói chung và nghề nghiệp quân sự nói riêng.
Từ những lí giải ở trên, chúng ta có thể hiểu: GTNN quân sự của học
viên Sĩ quan Lục quân là tổng hịa các phẩm chất cần thiết và có ích được
hình thành trong quá trình học tập, rèn luyện tại Nhà trường, đảm bảo cho
sự phát triển nghề nghiệp quân sự của người sĩ quan tương lai, đáp ứng yêu
cầu chuẩn mực do Quân đội và xã hội đặt ra.
1.1.2. Cấu trúc giá trị nghề nghiệp quân sự của học viên Sĩ quan Lục quân
Hoạt động quân sự là một loại hình hoạt động mang tính chất đăc thù, do
tính đa dạng của nhu cầu cũng như sự đáp ứng trên nhiều khía cạnh, góc độ
tính chất của một nghề đối với các nhu cầu mà giá trị của nghề được thể hiện
trong toàn bộ các nhân tố liên quan tới tính hiện thực vốn có của nghề đó. Cho
nên bất cứ sự vật hiện tượng nào thuộc các nhân tố cấu thành, bảo đảm sự tồn
tại và phát triển của GTNN quân sự cũng có thể được xem là có giá trị (dù là
vật thể hay phi vật thể, là hình ảnh trực quan hay khái niệm, là hoạt động hay
tĩnh tại) miễn là nó được con người thừa nhận và cần thiết đến nó như một nhu
cầu, cho rằng nó có một ý nghĩa, một vị trí quan trọng nhất định trong đời sống
16
của họ. Hiện nay, cấu trúc giá trị nghề nghiệp nói chung và đặc biệt là cấu trúc
giá trị nghề nghiệp quân sự của học viên Sĩ quan Lục quân nói riêng cịn nhiều
quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát chung cấu trúc GTNN quân
sự của học viên Sĩ quan Lục quân trên những khía cạnh sau đây:
Một là: Nhận thức, tình cảm về nghề nghiệp quân sự.
- Am hiểu về nghề nghiệp quân sự: Giá trị nghề nghiệp quân sự của học viên
được thể hiện trước hết ở trình độ nhận thức am hiểu về nghề nghiệp quân sự.
Bao gồm sự am hiểu về học thuyết quân sự cách mạng nói chung, quan điểm
của Đảng và Nhà nước về chiến tranh nhân dân, về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế
độ. Đặc biệt đối với người học viên sĩ quan Lục quân phải có sự hiểu biết về
nghề nghiệp qn sự. Đó là sự tinh thơng về kỹ thuật, chiến thuật, về phương án
tác chiến và các loại vũ khí, trang thiết bị quân sự hiện có của quân đội.
- Yêu nghề, say mê với hoạt hoạt động nghề: Muốn đạt tới sự phát triển cao
về nghề nghiệp qn sự thì người học viên phải có lịng u nghề, say mê với
hoạt động nghề. Chỉ có yêu nghề, say mê với nghề mới thúc đẩy học viên có
động cơ, thái độ tìm tịi, học hỏi sáng tạo trong nghề. Yêu nghề được thể hiện
ra bằng tinh thần tích cực, đam mê trong học tập, rèn luyện, phấn đấu vươn lên
chiếm lĩnh các chuẩn mực, các yêu cầu của Nhà trường đặt ra.
Hai là: Thái độ đối với nghề nghiệp quân sự.
- Có ý thức về những yêu cầu của nghề nghiệp quân sự. Ý thức là sự phát
triển ở trình độ cao của nhận thức và tình cảm. Khi có trình độ nhận thức và tình
cảm đến một mức độ nhất định thì sẽ chuyển hóa thành ý thức. Ý thức được thể
hiện ra bằng thái độ tự giác quán triệt các yêu cầu của nhà trường và của giảng
viên, biến các yêu cầu vốn là khách quan thành yêu cầu của chính bản thân học
viên. Trên cơ sở những yêu cầu của Nhà trường và của giảng viên, mỗi học viên
phải tự đặt ra yêu cầu phấn đấu, rèn luyện của bản thân về nghề nghiệp quân sự.
- Quyết tâm rèn luyện, chiếm lĩnh nghề, đạt tới đỉnh cao trong hoạt động
nghề nghiệp quân sự. Khi đã ý thức được yêu cầu. chuyển hóa các yêu cầu
17
khách quan thành yêu cầu chủ quan, mỗi học viên phải đề xuất được chương
trình, kế hoạch hành động của bản thân để thực hiện các yêu cầu đó. Phải có
quyết tâm khổ luyện trong học tập, rèn luyện, chấp nhận mọi khó khăn, gian
khổ, khơng dừng lại trong mọi tình huống, mọi điều kiện để chiếm lĩnh bằng
được đỉnh cao về nghề nghiệp quân sự.
Ba là: Bản lĩnh quân sự và bản lĩnh chính trị vững vàng
- Bản lĩnh quân sự của người Sĩ quan Lục quân tương lai: nắm và thực
hiện tốt đường lối quân sự của đảng, trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng
chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ
nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng. Bản lĩnh đó được thể hiện ở thái độ: Thắng không kiêu, bại không nản,
trước cái sống và cái chết vì Tổ quốc khơng đắn đo, do dự. Bản lĩnh quân sự
của người Sĩ quan Lục quân được thể hiện ở niềm tin về kỹ thuật, chiến thuật,
tin về bản thân và đồng đội trong chiến đấu, trong hiệp đồng tác chiến. Đặc
biệt, bản lĩnh quân sự của học viên Sĩ quan Lục quân được thể hiện ở ý chí
quyết chiến quyết thắng trong mọi tình huống. Tức là dám đánh và chắc thắng
trong các loại hình chiến tranh nếu xảy ra trong tương lai.
- Bản lĩnh chính trị của người học viên Sĩ quan Lục quân: học viên sĩ quan
Lục qn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Bản lĩnh đó được thể hiện ở sự
kiên định mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh
thổ. Đặc biệt đối với sĩ quan Lục quân là người trực tiếp chỉ huy chiến đấu trên
chiến trường, trong các tình huống tác chiến độc lập địi hỏi phải ln lấy chính
trị làm gốc. Nghĩa là mọi hoạt động quân sự phải hướng vào thực hiện đường
lối chính trị của Đảng.
1.2. Lý luận về giáo dục giá trị nghề nghiệp quân sự cho học viên
Sĩ quan Lục quân 2
1.2.1. Khái niệm giáo dục giá trị nghề nghiệp quân sự
Để ý thức được GTNN cần phải có sự giáo dục và định hướng về GTNN.
18
Trong nhà trường quân sự: “Giáo dục giá trị cho học viên Nhà trường quân sự
là hoạt động có mục đích, có tổ chức của Nhà giáo dục nhằm chuyển hóa để
học viên nhận thức đúng, đủ về giá trị và hệ thống giá trị, từ đó có nhu cầu,
động cơ trong học tập, rèn luyện, phấn đấu đạt tới các giá trị phù hợp với nhân
cách người sĩ quan cách mạng và thang giá trị xã hội” [34. tr. 22], còn định
hướng về giáo dục giá trị nghề nghiệp chính là thái độ lựa chọn của học viên
đối với các giá trị của nghề nghiệp quân sự. Định hướng giáo dục GTNN
khơng chỉ diễn ra trong q trình lựa chọn, xác định nghề nghiệp phù hợp với
năng lực, trí tuệ và thể lực của học viên, mà còn diễn ra trong quá trình học
tập, rèn luyện, giáo dục đào tạo tại nhà trường để củng cố vững chắc nghề
nghiệp quân sự đã lựa chọn của họ. Mối quan hệ giữa giáo dục GTNN và định
hướng giáo dục GTNN là hai khái niệm rất gần nhau. Nó có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, thực chất của định hướng giáo dục GTNN chính là vấn đề tự
giáo dục của chủ thể học viên, nó nằm ngay trong vấn đề giáo dục GTNN
qn sự. Vì vậy hai vấn đề này nó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, khơng
tách rời nhau trong quá trình giáo dục GTNN quân sự cho học viên.
Từ cách tiếp cận trên, có thể hiểu khái niệm trung tâm:
Giáo dục GTNN quân sự cho học viên Trường Sĩ quan Lục quân 2 là quá
trình tác động có mục đích, có tổ chức của các lực lượng giáo dục đến học viên
và tập thể học viên, thông qua các loại hình hoạt động học tập, rèn luyện trong
Nhà trường, nhằm định hướng, chuyển hóa những giá trị của Quân đội và xã hội
thành các phẩm chât nghề nghiệp quân sự của người sĩ quan trong tương lai.
Giáo dục GTNN quân sự cho học viên sĩ quan là một nội dung, nhiệm vụ
của quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp). Về bản chất, đây là một quá trình có
mục đích, có tổ chức, có chương trình kế hoạch, được diễn ra trong một không
gian và thời gian xác định. Giáo dục GTNN giúp học viên nhận thức đúng, đủ
các giá trị xã hội, GTNN quân sự và tích cực, chủ động học tập, rèn luyện, phấn
đấu để đạt được chúng trong quá trình hoạt động của mình.
Chủ thể giáo dục GTNN quân sự cho học viên sĩ quan Lục quân là các
19
nhà giáo dục chuyên nghiệp trong nhà trường Sĩ quan Lục quân. Đó là những cá
nhân và tập thể cán bộ, giảng viên trong nhà trường. Các chủ thể này tác động
lên học viên và tập thể học viên thông qua các loại hình hoạt động học tập và rèn
luyện trong nhà trường với các phương thức tác động đa dạng.
Đối tượng được giáo dục là học viên và tập thể học viên. học viên Sĩ
quan Lục quân là những người có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, sức khoẻ,
trình độ theo qui định của Bộ Quốc phịng, có nguyện vọng học tập, rèn luyện
để trở thành sĩ quan phục vụ lâu dài trong quân đội, qua thi tuyển, cử tuyển,
theo qui định của Bộ Giáo dục đào tạo và Bộ Quốc phòng đã trúng tuyển vào
học tập tại nhà trường. Hiện nay học viên bao gồm nhiều đối tượng, theo các
loại hình đào tạo khác nhau, nhưng đơng nhất, quan trọng nhất và chiếm phần
lớn các hoạt động của nhà trường, là học viên đào tạo để trở thành sĩ quan chỉ
huy tham mưu Lục quân cấp phân đội bậc đại học hệ 4 năm.
Phương thức giáo dục GTNN quân sự, được thực hiện thông qua các
mối quan hệ xã hội, thông qua hoạt động thực tiễn và sự hiểu biết của chính bản
thân học viên. Giáo dục GTNN quân sự cho học viên phải được diễn ra liên tục
trong suốt quá trình đào tạo, chịu sự ảnh hưởng của mơi trường kinh tế, chính
trị, xã hội; ảnh hưởng của gia đình, bạn bè…khi bước chân vào trường, người
học ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về nghề nghiệp qn sự mà mình theo
học, từ đó có ý thức, hứng thú, say mê với nghề; có nhu cầu chiếm lĩnh kiến
thức, năng lực trong hoạt động nghề nghiệp. Thơng qua đó, GTNN qn sự
ngày càng được củng cố vững chắc và hồn thiện hơn. Như vậy chúng tơi cho
rằng: Giáo dục GTNN quân sự cho học viên Trường SQLQ khơng chỉ diễn ra
trong q trình lựa chọn, xác định NN phù hợp với năng lực, trí tuệ và thể lực
của học viên, mà còn diễn ra trong suốt quá trình học tập, rèn luyện, giáo dục
đào tạo tại nhà trường để củng cố vững chắc nghề nghiệp quân sự đã lựa chọn
của họ.
1.2.2. Mục tiêu và nội dung giáo dục giá trị nghề nghiệp quân sự cho
học viên Sĩ quan Lục quân 2 hiện nay
20
* Mục tiêu giáo dục giá trị nghề nghiệp quân sự cho học viên
Lý luận giáo dục quân nhân đã chỉ rõ: “Quá trình giáo dục được bắt đầu
từ việc xây dựng mục tiêu giáo dục. Mục tiêu giáo dục chính là mơ hình dự
kiến kết quả phải đạt được sau quá trình giáo dục, đồng thời là tiêu chuẩn
đánh giá chất lượng giáo dục của Nhà giáo dục và tự giáo dục của quân nhân”
(34,tr. 29). Như vậy, việc xác định mục tiêu ngay từ đầu là một yếu tố quan
trọng, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả của việc giáo dục
GTNN quân sự. Bởi vì, nếu khơng có mục tiêu, Nhà giáo dục sẽ khơng biết
hướng việc giáo dục vào đâu, dẫn đến quá trình giáo dục sẽ trở nên tự phát
trước sự biến đổi của thực tiễn. Mục tiêu sẽ giúp cho Nhà giáo dục đi đúng
phương hướng, biết khắc phục những khó khăn nhằm đạt được mục tiêu đã đề
ra. Mặt khác, mục tiêu còn chỉ dẫn cho Nhà giáo dục thực hiện nhiệm vụ của
mình chính xác, đạt hiệu quả cao phù hợp với yêu cầu của quân đội và xã hội.
Đối với nhà trường việc xác định đúng mục tiêu giáo dục được xem là cầu nối
từ vị trí hiện tại đến đích của việc giáo dục GTNN quân sự, giúp cho việc giáo
dục diễn ra theo kết quả dự kiến.
Để giáo dục GTNN quân sự cho học viên có chất lượng và hiệu quả cao,
góp phần đáp ứng yêu cầu đào tạo, cần phải xác định mục tiêu phù hợp, kịp
thời phổ biến, quán triệt mục tiêu và tổ chức thực hiện mục tiêu có hiệu quả,
đảm bảo cho người học có nhận thức đầy đủ và tích cực phấn đấu đạt tới các
GTNN quân sự cần thiết khi tốt nghiệp ra trường về đơn vị công tác. Mục tiêu
của giáo dục GTNN quân sự là phải làm cho hệ thống giá trị, GTNN mà xã hội
mong đợi chuyển hóa thành hệ GTNN quân sự trong mỗi học viên, làm cho
nhân cách của họ có giá trị cao trong xã hội, đáp ứng yêu cầu mà xã hội, quân
đội đòi hỏi ở hiện tại và tương lai. Muốn vậy, trong quá trình giáo dục GTNN
quân sự cho học viên, Nhà trường cần quán triệt đầy đủ mục tiêu giáo dục, phát
triển con người của Đảng, quân đội để lựa chọn giá trị, GTNN phù hợp, đáp ứng
yêu cầu đào tạo người sĩ quan quân đội trong tình hình mới. Đồng thời phải kết
21
hợp chặt chẽ giữa giáo dục, định hướng các giá trị vật chất với giá trị tinh thần;
giá trị truyền thống với giá trị mới, hiện đại đang hình thành. Lựa chọn giá trị,
GTNN quân sự để giáo dục phải đảm bảo sự phù hợp với điều kiện, tính chất,
đặc điểm hoạt động quân sự và nhân cách người sĩ quan cách mạng.
Mục tiêu của giáo dục giá trị nghề nghiệp có các mức độ sau:
Về nhận thức: học viên nhận thức được kiến thức, nghề nghiệp mà họ
được đào tạo là hết sức cần thiết, có ý nghĩa thiết thực với họ để phát triển cũng
như ứng dụng trong cuộc sống và hoạt động nghề nghiệp... học viên hiểu được
nghề nghiệp của mình khơng những có giá trị chính trị - xã hội, tinh thần, đạo
đức mà cịn có các giá trị kinh tế - xã hội khác như: sự đãi ngộ xã hội, khả năng
đáp ứng cho cuộc sống bản thân và gia đình so với nhiều nghề khác... Đồng
thời học viên phải nhận thức đúng và đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của
những kiến thức, nghề nghiệp quân sự mà họ đang được đào tạo đối với sự tồn
tại, phát triển của người sĩ quan Lục qn.
Về tình cảm: học viên phải có tình cảm trân trọng, yêu quí, ủng hộ và bảo
vệ các GTNN quân sự; tích cực, cầu thị trong q trình lĩnh hội các giá trị ấy; có
hứng thú, say mê hướng tới hoàn thiện nhân cách theo các GTNN quân sự được
đào tạo.
Về ý chí: học viên có ý thức tự giác tham gia đầy đủ, hiệu quả các
hoạt động học tập, rèn luyện trên cơ sở động cơ đúng đắn, tích cực; nhiệt
tình, trách nhiệm cao khi tham gia các hoạt động thể hiện GTNN; kiên
quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện trái với GTNN được đào tạo.
Về bản lĩnh chính trị, qn sự: học viên có bản lĩnh chính trị, quân
sự vững vàng, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
kiên quyết bảo vệ đảng, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chế độ và sự tồn vẹn lãnh
thổ trong mọi tình huống.
* Nội dung giáo dục giá trị nghề nghiệp quân sự cho học viên
Chính là trang bị hệ thống các kiến thức, các chuẩn mực,GTNN quân
sự cần đạt được. Thực chất của nội dung giáo dục GTNN quân sự là quán triệt
22
và cụ thể hoá mục tiêu giáo dục GTNN quân sự vào nội dung giáo dục, bảo
đảm cho nội dung giáo dục GTNN quân sự luôn nhất quán với mục tiêu đã
xác định. Vì vậy, để thực hiện tốt vấn đề này, đội ngũ Nhà giáo dục và cán bộ
quản lý học viên phải quán triệt sâu sắc mục tiêu giáo dục GTNN quân sự và
quy định về khối lượng kiến thức, chuẩn mực GTNN quân sự cần trang bị cho
học viên theo từng năm học và từng giai đoạn.
Nội dung giáo dục GTNN quân sự cho học viên rất đa dạng, phong
phú. Có những nội dung hướng vào thực hiện mục tiêu giáo dục về nhận thức,
có những nội dung hướng vào thực hiện mục tiêu giáo dục về tình cảm, thái
độ, ý chí, có những nội dung hướng vào giáo dục về bản lĩnh quân sự và
chính trị cho học viên. Tuy nhiên, trong thực tiễn GTNN quân sự của học viên
được hình thành từ tổng hịa của các nội dung giáo dục đó. Vì vậy, để giáo
dục hình thành GTNN quân sự cho học viên cần phải tập trung vào các nội
dung chủ yếu sau:
Giáo dục cho học viên những giá trị chung, phổ quát của nhân loại, bao
gồm: hồ bình; tự do; sức khoẻ; việc làm; cơng lý; học vấn; gia đình; an ninh;
niềm tin; nghề nghiệp; sống có mục đích [ 34, tr. 84].
Giáo dục cho học viên những giá trị về chính trị, tư tưởng và đạo đức:
giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu lý tưởng
Cộng sản, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước làm cơ sở nâng cao giác ngộ chính trị, củng cố niềm tin vững chắc vào
thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội.
Giáo dục cho học viên những giá trị đúng đắn về đường lối của Đảng,
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, phương hướng xây
dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, yêu cầu nhiệm vụ huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu của Nhà trường và Quân đội . Trên cơ sở đó giúp cho
mỗi học viên nhận thức rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hồ bình” của
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam trên
mọi bình diện và cách phòng chống, đấu tranh giữ vững trận địa tư tưởng.
23
Giáo dục những giá trị đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch lành
mạnh, giản dị, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” và những giá trị chuẩn mực đạo
đức, tác phong của người sĩ quan tương lai trong chấp hành đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy định của đơn vị.
Giáo dục những giá trị về chuyên môn, nghiệp vụ: giáo dục những giá trị về
kiến thức, trình độ kỹ thuật, chiến thuật chuyên ngành mà học viên được đào tạo.
Giáo dục những giá trị về năng lực quản lý, chỉ huy đơn vị và tiến hành
cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong mọi điều kiện hoàn cảnh gắn với
cương vị chức trách.
Giáo dục cho học viên những giá trị đúng đắn trong thực hiện nhiệm vụ
học tập, rèn luyện, thực hiện các chế độ chính quy, các quy định về quản lý và
rèn luyện theo nhiệm vụ mà mục tiêu, yêu cầu đào tạo đặt ra; giáo dục, rèn
luyện học viên phấn đấu trở thành người đảng viên đảng cộng sản Việt Nam.
Các nội dung trên cần được tiến hành thường xuyên, chặt chẽ theo
chức năng của từng lực lượng, thông qua các chủ thể như: các cơ quan, tổ
chức trong Nhà trường, Nhà giáo dục ở các khoa giáo viên và đội ngũ cán bộ
quản lý học viên các cấp.
1.2.3. Phương pháp, hình thức giáo dục giá trị nghề nghiệp quân sự
cho học viên Sĩ quan Lục quân 2 hiện nay
Phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục có vai trò rất quan trọng. Để đạt
được mục tiêu, nội dung giáo dục GTNN quân sự cho học viên sĩ quan, Nhà
giáo dục và đội ngũ cán bộ quản lí học viên phải tìm ra các phương pháp, hình
thức tổ chức giáo dục phù hợp, tối ưu nhằm nâng cao nhận thức, bồi dưỡng niềm
tin đối với GTNN quân sự cho học viên. Theo đó, phương pháp, hình thức tổ
chức giáo dục GTNN quân sự bao gồm toàn bộ những cách thức tổ chức và
phương pháp tác động của Nhà giáo dục, là sự thể hiện thống nhất hữu cơ và sự
tác động qua lại giữa Nhà giáo dục và đối tượng giáo dục, trong đó Nhà giáo dục
giữ vai trị điều khiển chỉ đạo, Đối tượng giáo dục giữ vai trò tự chỉ đạo. Theo lý
24
luận giáo dục nhân cách hiện nay, phương pháp giáo dục GTNN quân sự cho
học viên sĩ quan Lục quân cần tập trung vào các nhóm phương pháp như sau:
Nhóm các phương pháp tác động vào nhận thức: Mục đích chủ yếu
của nhóm phương pháp tác động vào nhận thức của học viên là nhằm xây
dựng ở người học ý thức tự giác, thái độ, tình cảm, niềm tin vững chắc vào
những GTNN quân sự. Nhóm phương pháp này gồm các phương pháp cơ
bản như: Phương pháp thuyết phục; Phương pháp nêu gương; Phương pháp
đối thoại, tranh luận.
Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động qn sự: Mục đích của nhóm
phương pháp này là phát triển những năng lực cá nhân của người học, hình
thành phương pháp và những kinh nghiệm sáng tạo trong hoạt động quân sự.
Việc tổ chức một cách khoa học các hoạt động trong cuộc sống, học tập, rèn
luyện ở nhà trường Lục quân được coi là cách thức, biện pháp để thực hiện có
hiệu quả mục đích của q trình giáo dục GTNN qn sự cho học viên. Nhóm
phương pháp này bao gồm có các phương pháp cơ bản như: Phương pháp rèn
luyện; Phương pháp đòi hỏi sư phạm; Phương pháp tạo tình huống giáo dục.
Nhóm phương pháp kích thích và điều chỉnh hành vi: Nhóm phương
pháp kích thích và điều chỉnh hành vi có vai trò hỗ trợ, củng cố và phát triển
kết quả của hai nhóm phương pháp trên, có mục đích nhằm kích thích, điều
chỉnh, củng cố nhận thức, thái độ và hành vi của học viên phù hợp với quy
luật hình thành, phát triển GTNN qn sự. Nhóm phương pháp kích thích và
điều chỉnh hành vi gồm các phương pháp cụ thể như: Phương pháp thi đua;
Phương pháp động viên, khen thưởng; Phương pháp bắt buộc, xử phạt
Các hình thức tổ chức giáo dục gồm: giáo dục chung (tổ chức giáo
dục theo chuyên đề, chủ đề, chế độ sinh hoạt tập thể), giáo dục riêng (gặp
gỡ riêng để tâm sự, tìm hiểu hoàn cảnh của cá nhân học viên; tổ chức đối
thoại, chuyện trò, giải đáp thắc mắc đối với từng học viên hoặc động viên
khích lệ họ), tổ chức giao lưu giáo dục (tổ chức cho học viên gặp gỡ, giao
25