Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận cao cấp chính trị: Nhiệm vụ quản lý, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.3 KB, 22 trang )

1

MỞ ĐẦU
Biển, đảo là phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Biển, đảo
có vai trị quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, các quốc gia, nhất là các quốc
gia có khả năng khoa học cơng nghệ cao, có tiềm lực quân sự mạnh
đều có xu thế vươn ra biển để tìm kiếm, khai thác tài ngun,
khống sản phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Nhiều quốc
gia đang hướng ra biển, coi biển là tương lai, là đặc ân cuối cùng của
thiên nhiên ban tặng cho lồi người, là một trong những mơi trường
sống quan trọng của loài người. “Tiến ra biển trở thành một hướng
phát triển của loài người, một chiến lược lâu dài của nhiều nước trên
thế giới”. Theo đó, thế kỷ XXI là thế kỷ của chiến lược biển.
Đất nước Việt Nam có bờ biển dài khoảng 3.260 km từ Bắc
xuống Nam và vùng biển rộng hơn 1 triệu km 2 với hơn 4.000 hịn
đảo lớn nhỏ và 2 quần đảo Hồng Sa và Trường Sa. Trong 63 tỉnh,
thành phố của Việt Nam có 28 tỉnh, thành phố giáp biển. Từ xa xưa,
biển đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng
của Tổ quốc. Các hải đảo và quần đảo cùng với đất liền tạo ra môi
trường sinh tồn và phát triển đời đời của dân tộc ta; tiềm năng kinh
tế biển của Việt Nam rất lớn, có vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xác định được tầm quan trọng của Biển, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V của Đảng cộng sản Việt Nam cho đến nay, Đảng ta
luôn xác định cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ cơ bản là xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trước những
diễn biến phức tạp của thế giới và khu vực hiện nay thì nhiệm vụ
bảo vệ tổ quốc càng trở thành yếu tố quan trọng cho sự tồn vong
của đất nước. Biển Đông với vị thế chiến lược là ngã tư của đường



2

hàng hải quốc tế, và tiềm năng tự nhiên to lớn, khiến nhiều quốc gia
trong khu vực chú ý và tích cực thực hiện các hành động khai thác
của mình. Sự khuấy động lớn nhất xuất phát từ các tuyên bố chủ
quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo lớn trên biển Đơng là
quần đảo Hồng Sa và Trường Sa cũng như vùng lãnh hải trên biển
Đông là một trong những tuyên bố gây trở ngại nhất trong quan hệ
giữa Trung Quốc và ASEAN, đặc biệt là với Việt Nam và Philippin.
Trong khi đó lịch sử Trung Quốc đã ghi nhận biên giới của Trung
quốc chỉ giới hạn đến đảo Hải Nam.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đơng Nam Á, có vị trí chiến lược
ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, tiềm ẩn
nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, trên biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp,
quyết liệt hơn. Hịa bình, ổn định, tự do an ninh, an tồn hàng hải, hàng khơng trên Biển
Đông đứng trước những thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Do đó cần nắm vững
quan điểm của Đảng trong đấu tranh bảo vệ biển đảo của Việt Nam. Bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải trên biển Đông là vấn đề hết sức quan
trọng, mang tính chiến lược lâu dài và cần được giải quyết bằng các biện pháp hịa bình
trên cơ sở công ước về Luật biển năm 1982 và pháp luật quốc tế. Nhiệm vụ bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển đảo là trách nhiệm của mỗi công dân Việt Nam đối với dân tộc, là
nhân tố quan trọng bảo đảm cho dân tộc ta phát triển bền vững. Vì những vấn đề nêu
trên, học viên viết tiểu luận: “Nhiệm vụ quản lý, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển,
đảo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, cho chuyên đề tự chọn của bộ mơn Giáo dục
Quốc phịng và An ninh, nhằm thể hiện trách nhiệm, ý chí và nguyện vọng cá nhân đối
với vấn đề này.
NỘI DUNG
1 Vị trí, vai trị của biển đảo Việt Nam
1.1Vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế

Biển Đông là vùng biển nằm trong số 10 tuyến đường hàng


3

hải lớn nhất trên thế giới đi qua. Giao thông nhộn nhịp đứng thứ 2
thế giới (sau Địa Trung Hải). Hàng ngày có khoảng 200 đến 300 tàu
từ 5.000 tấn trở lên qua lại (không kể tàu dưới 5.000 tấn) chiếm 1/4
lưu lượng tàu hoạt động trên biển của thế giới. Biển Đông rất quan
trọng đối với nhiều nước trong khu vực xét về vị trí địa - chiến lược,
an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế. Với Mỹ là tuyến hoạt động
chính của Hạm đội 7, có 90% hàng hóa của Mỹ và hàng hóa đồng
minh chuyên chở qua Biển Đông. Với Trung Quốc hàng năm nhập
160 triệu tấn dầu thì 50% dầu nhập và 70% hàng hóa qua Biển
Đông. Với Nhật Bản 70% lượng dầu nhập khẩu và 42% lượng hàng
hóa xuất khẩu chuyên chở qua Biển Đơng.
Biển Đơng cịn là nơi chứa đựng nguồn tài ngun thiên nhiên
biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước
xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật (thủy sản), phi
sinh vật (dầu khí, khống sản). Biển Đơng được coi là một trong
năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục
địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney - Saba,
Sarawak, Malay, Pattani, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa
Sông Châu Giang...Các khu vực có tiềm năng dầu khí cịn lại chưa
khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài của vịnh Bắc Bộ và bờ biển
miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính.
Đối với Việt Nam, vùng biển và ven biển Việt Nam nằm trên
con đường hàng hải và hàng không huyết mạch thơng thương giữa
Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông
với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Điều kiện tự

nhiên của bờ biển Việt Nam là tiềm năng to lớn cho ngành giao
thơng hàng hải Việt Nam. Ngồi sự hình thành mạng lưới cảng biển,
các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối với các vùng


4

sâu trong nội địa cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả
năng chuyển tải hàng hóa nhập khẩu tới mọi miền của Tổ quốc một
cách nhanh chóng và thuận lợi.
Biển Việt Nam có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc biệt là
dầu mỏ khí đốt. Trữ lượng dự báo tại vùng biển và thềm lục địa Việt
Nam khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đồi, trữ lượng khai thác từ 4 đến 5 tỷ
tấn. Trữ lượng khí dự báo khoảng 1.000 tỷ m3. Hiện nay, chúng ta đã
phát hiện hàng chục mỏ dầu khí có trữ lượng khai thác cơng nghiệp,
trong đó đã đưa vào khai thác gần một chục mỏ, hàng năm cung
cấp hàng triệu tấn dầu và hàng tỷ m3 khí phục vụ cho phát triển
kinh tế và dân sinh. Ngồi ra, cịn có các khống sản quan trọng và
có tiềm năng lớn như than, sắt, titan, băng cháy, cát thủy tinh, muối
và các loại vật liệu xây dựng khác. Nguồn lợi hải sản nước ta được
đánh giá vào loại phong phú trong khu vực. Theo các điều tra về
nguồn lợi hải sản, tính đa dạng sinh học trong vùng biển nước ta đã
phát hiện được khoảng 11.000 lồi sinh vật cư trú, trong đó có
6.000 loài động vật đáy, 2.400 loài cá, 653 loài rong biển, 657 loài
động vật phù sa, 537 loài thực vật phù du, 225 lồi tơm biển... Trữ
lượng cá biển ước tính trong khoảng từ 3,1 đến 4,1 triệu tấn, khả
năng khai thác từ 1,4 đến 1,6 triệu tấn. Nguồn lợi hải sản phong phú
đã góp phần đưa ngành thủy sản trở thành một trong những ngành
kinh tế mũi nhọn, mang lại giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 trong các
ngành kinh tế của đất nước.

Nhận thấy tiềm năng to lớn của biển, để khai thác tiềm năng
và lợi thế của biển, đáp ứng địi hỏi khách quan của cơng cuộc xây
dựng đất nước trong thời kỳ mới, Bộ Chính trị Ban chấp hành TW
Đảng khóa VII đã ra Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 06/5/1993 về
« Một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước


5

mắt » và đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã
khẳng định « Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế
biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm ; sớm đưa nước ta trở
thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với đảm
bảo quốc phòng an ninh và hợp tác quốc tế »
1.2 . Về quốc phòng, an ninh
Biển nước ta được ví như mặt tiền, cửa ngõ quốc gia; biển,
đảo, thềm lục địa và đất liền hình thành chiến lũy nhiều lớp,
nhiều tầng, bố trí thành tuyến phịng thủ liên hồn bảo vệ Tổ
quốc, do vậy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển đảo
Việt Nam có vai trị quan trọng, làm tăng chiều sâu phòng thủ
đất nước ra hướng biển. Do đặc điểm lãnh thổ đất liền nước ta có
hình chữ S, trải dài ven biển từ Bắc vào Nam, chiều ngang hẹp,
nên chiều sâu đất nước bị hạn chế. Hầu hết các trung tâm chính
trị, kinh tế xã hội của ta đều nằm trong phạm vi cách bờ biển
không lớn, nên rất dễ bị địch tấn công từ hướng biển. Nếu chiến
tranh xảy ra thì mọi mục tiêu trên đất liền đều nằm trong tầm
hoạt động, bắn phá của vũ khí trang bị công nghệ cao xuất phát
từ hướng biển.
Từ nhiều năm nay, nhất là những năm đầu của thập kỷ 70 của
thể kỷ XX đến nay trên Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp

biển đảo rất quyết liệt và phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố mất ổn
định, tác động đến quốc phịng và an ninh nước ta. Trên Biển Đơng
vùng biển nước ta tiếp giáp với vùng biển 7 nước trong khu vực là:
Trung Quốc (phía Bắc), Campuchia và Thái Lan (Tây Nam), Philippin,
Malaixia, Inđơnêxia, Brunây (phía Đơng, Đơng Nam và Nam). Đặc
biệt gần đây Trung quốc tăng cường hiện diện ở Biển Đông, thực hiện
bồi đắp phi pháp các bãi cạn trên Quần Đảo Hoàng Sa, làm thay đổi


6

thực thể, Trung Quốc tăng cường các đội tàu đánh bắt vi phạm vùng
đặc quyền kinh tế của Philippin, thay đối luật để cho phép Dân quân
biển Trung Quốc được dùng vũ khí khi có va chạm những vấn đề trên
đe dọa đến chủ quyền vùng biển đảo, thềm lục địa của nước ta, gây
ra những nhân tố khó lường, mất ổn định về chủ quyền toàn vẹn lãnh
thổ và an ninh đất nước.
Vươn ra biển, làm giàu từ biển là định hướng đúng đắn phù hợp
trong điều kiện hiện nay. Việt Nam là một quốc gia có biển, một nhân
tố mà thế giới luôn xem như một yếu tố đặc lợi. Chúng ta cần tăng
cường hơn nữa những khả năng quản lý, làm chủ vươn ra biển làm
động lực thúc đẩy các vùng khác trong đất liền phát triển. Chúng ta
phải có quyết tâm cao, tập trung huy động mọi tiềm năng và lợi thế
của biển, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc
phòng - an ninh trên biển để tạo ra môi trường hịa bình, ổn định, tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và ngư dân
các địa phương yên tâm làm ăn trên các vùng biển đảo, nhất là ở
vùng biển xa. Phải xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam và các lực
lượng vững mạnh, theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và đi
thẳng lên hiện đại, đáp ứng tốt với yêu cầu nhiệm vụ để quản lý, đấu

tranh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, thềm lục địa thiêng
liêng của Tổ quốc.
1.3.Về văn hóa, xã hội
Nhận thức được tầm quan trọng của biển đối với cuộc sống
nhân dân, chủ quyền và vị trí chiến lược về quốc phòng - kinh tế xã hội của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đối với đất nước,
việc tổ chức giáo dục truyền thống trong các tầng lớp nhân dân về
chủ quyền đã được chú trọng cả về nội dung và hình thức.
Từ năm 2002, tài liệu tuyên truyền biển đảo Việt Nam được


7

đưa vào nội dung giảng dạy cho học sinh, sinh viên các trường đại
học và cao đẳng. Đây là những nội dung cơ bản nhất về địa lý, tiềm
năng kinh tế, định hướng chiến lược phát triển kinh tế và pháp luật
liên quan đến biển đảo Việt Nam cũng như quá trình đàm phán giải
quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam với các nước láng
giềng.
Song song với phổ biến, tuyên truyền kiến thức biển đảo, các
loại hình văn hóa có nội dung liên quan trực tiếp đến hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa như phim tài liệu, bài viết, các bộ tem về
biển đảo Việt Nam cũng được triển khai. Năm 1998, trong khn
khố chương trình năm Quốc tế đại dương do Liên hợp quốc đề
xướng, hãng phim Tư liệu và khoa học Trung ương đã sản xuất bộ
phim “Lãnh thổ trên biển Đông” giới thiệu về các hoạt động bảo vệ
chủ quyền và quản lý nhà nước trên quần đảo Trường Sa và cuộc
đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa với những
bằng chứng lịch sử và tư liệu thực tế phong phú và sinh động.
Tiếp theo cuộc thi “Em yêu biển đảo Việt Nam ” được tổ chức
năm 1998, năm 2003, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Du

lịch và Trung ương Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tiếp tục
tổ chức chương trình “Vì biển xanh quê hương” phát động phong
trào thi viết, thi ảnh về chủ đề bảo vệ môi trường biển; thanh niên
các tỉnh, thành ven biển tiến hành nhiều đợt ra quân làm sạch bãi
biển, trồng cây chắn sóng và đặc biệt tham gia cuộc thi tìm hiểu về
biển đảo Việt Nam với những nội dung thiết thực, hun đúc thêm ý
chí bảo vệ chủ quyền Tổ quốc trên biển của thanh thiếu niên trong
cả nước.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hàng loạt cơng
trình nghiên cứu có giá trị ứng dụng thiết thực đã được tiến hành và


8

bước đầu cho kết quả như chương trình khaỉ thác điện năng từ ánh
sáng mặt trời, chương trình nghiên cứu và cải tạo các giống cây
thích họp trên đảo... cũng như hàng loạt đề tài nghiến cứu khoa học
cấp Nhà nước đã và đang được triển khai về đánh giá tài nguyên,
môi trường Biển Đông và khu vực hai quần đảo Hồng Sa và Trường
Sa.
2. Biển Đơng trong chiến lược một số cường quốc thế giới và khu vực
2.1. Chiến lược của Mỹ đối với biển Đông
Mỹ là cường quốc hàng đầu của thế giới, nằm bên bờ của Đại Tây Dương và Thái
Bình Dương. Biển Đơng được Mỹ đánh giá là có vị trí quan trọng trong chiến lược an
ninh Thái Bình Dương của họ. Biển Đơng là con đường chiến lược của Mỹ từ Thái Bình
Dương sang Ấn Độ Dương và Trung Đông; là con đường thương mại chính của Mỹ với
khu vực châu Á, nơi Mỹ có nhiều đồng minh chính trị cần phải bảo vệ. Ngày 10-5-1995,
Bộ Ngoại giao Mỹ ra tuyên bố về biển Đông và Trường Sa, trong đó nhấn mạnh có lợi
ích lâu dài trong việc duy trì hịa bình và ổn định, bảo vệ quyền tự do hàng hải ở biển
Đông.

Năm 1992, Mỹ rút các căn cứ quân sự ra khỏi Philippin, nhưng vẫn tìm cách duy trì
sự có mặt về qn sự ở biển Đông. Hạm đội 7 của Mỹ thường xun qua lại biển Đơng;
duy trì đều đặn trinh sát đường khơng để kiểm sốt tình hình biển Đơng và các nước ven
biển Đông. Những năm gần đây, lợi dụng chiêu bài chống khủng bố, Mỹ đã gia tăng sự
có mặt về quân sự, chuẩn bị cơ sở để tăng cường khả năng can thiệp quân sự vào khu vực
này. Hàng năm, hải quân Mỹ đã tiến hành hàng chục cuộc diễn tập song phương và đa
phương với hải quân nhiều nước thành viên cũ của ASEAN ở những quy mơ khác nhau.
Mục đích của các cuộc diễn tập là huấn luyện, lôi kéo các nước vào các hoạt động quân
sự chung để từng bước hình thành tổ chức quân sự khu vực do Mỹ chỉ huy, tạo điều kiện
cho Mỹ tập hợp đồng minh sẵn sàng can thiệp vào các “điểm nóng” của khu vực.
Để theo đuổi tham vọng bá chủ toàn cầu, tranh giành ảnh hưởng, thực hiện bao
vây, kiềm chế Trung Quốc, chính quyền Mỹ tiếp tục triển khai chiến lược “can dự và


9

dính líu” dưới chiêu bài “chống khủng bố”. Mỹ đã chuyển trọng tâm chiến lược sang
châu Á - Thái Bình Dương, tăng cường và mở rộng quan hệ quốc phòng, an ninh với
các nước châu Á - Thái Bình Dương. Từ năm 2002 đến nay, Mỹ đã vận động được
nhiều nước Đông Nam Á đồng ý cho Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự trên lãnh thổ của
họ khi cần thiết. Mỹ đã đặt vấn đề với Thái Lan nâng cấp sân bay Utapao; xây dựng
căn cứ hậu cần nổi ở vịnh Thái Lan.
Gần đây, Mỹ còn tăng cường viện trợ quân sự cho các nước đồng minh có liên
quan đến tranh chấp ở Trường Sa. Đáng chú ý là Philippin có chủ trương dựa vào Mỹ để
giải quyết tranh chấp chủ quyền ở biển Đông. Mỹ và Philippin đã thảo luận khả năng hợp
tác trong vấn đề an ninh biển trên cơ sở lấy quan hệ giữa Mỹ - Nhật - Ơxtrâylia Philippin làm chìa khóa để xây dựng và mở rộng hợp tác an ninh biển ở khu vực. Với
Inđônêxia, Mỹ đã bãi bỏ cấm vận xuất khẩu vũ khí và bình thường hóa quan hệ qn sự
từ tháng 12- 2005.
2.2. Chiến lược của Trung Quốc đối với biển Đông
Trung Quốc là một quốc gia lục địa (diện tích 9.600.000km 2), đồng thời là quốc

gia ven biển lớn (bờ biển dài khoảng 18.000km). Trong chiến lược biển của Trung
Quốc, biển Đông là hướng phát triển chủ yếu hiện nay, là “sống còn”, là bàn đạp để tiến
ra đại dương, là nơi thử nghiệm chính sách vươn lên thành cường quốc hàng đầu thế
giới của Trung Quốc. “Độc chiếm biển Đông” là chủ trương chiến lược kiên định và
nhất quán của Trung Quốc.
Cùng với việc lấn chiếm và mở rộng các hoạt động quân sự, Trung Quốc còn hợp
lý hóa chủ quyền về pháp lý. Ngày 03/9/1987, Quốc hội Trung Quốc thông qua quy
chế tỉnh Hải Nam bao gồm đảo Hải Nam, các quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam). Tháng 3 năm 1992, Quốc hội Trung Quốc khóa 7
thơng qua “Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp của nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa”,
trong đó xác định các quần đảo Đông Sa, Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung
Quốc. Ngày 15-6-1996, Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn Công ước về Luật Biển 1982,
nhưng lại công bố đường cơ sở, mở rộng lãnh hải Trung Quốc từ 370.000km 2 lên 3


10

triệu km2, với nhiều sai trái so với quy định của Công ước. Tháng 5 năm 2011, Trung
Quốc đã gửi lên Ủy ban các vấn đề về biển và thềm lục địa của Liên hiệp quốc tài liệu
và bản đồ, đề nghị công nhận vùng biển trong đường chữ U trên biển Đông do Trung
quốc tự vẽ.
Hiện nay, Trung Quốc đang xây dựng hải quân đại dương. Hải quân Trung Quốc
được đánh giá là lực lượng hải quân lớn nhất, mạnh nhất khu vực, đứng thứ hai thế giới
về quân số và số lượng máy bay của hải quân, thứ ba thế giới về số lượng tàu chiến đấu
lớn và tàu ngầm. Trung Quốc đã ký với Việt Nam Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và
Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ (năm 2000); đã ký với ASEAN Tuyên bố
về Cách ứng xử của các bên trên biển Đơng (DOC) năm 2002, nhưng khi Trung Quốc
cịn thực hiện “Chiến lược hướng Nam” và ý đồ độc chiếm biển Đơng thì vấn đề đấu
tranh trên biển Đơng còn diễn biến phức tạp.
2.3. Chiến lược của Nhật Bản đối với biển Đơng

Nhật Bản là quốc gia đảo, có diện tích 372.000km2, rất nghèo tài nguyên, nhưng số
dân đã vượt q 120 triệu người. Vì lẽ đó, Nhật Bản xác định con người và biển là hai
yếu tố cơ bản để phát triển. Biển Đông là con đường biển có tầm quan trọng sống cịn đối
với nền kinh tế của Nhật Bản. Khoảng 50-70% lượng dầu nhập khẩu và 45% hàng hóa
của Nhật được vận chuyển qua Biển Đơng. Đông Nam Á là thị trường quan trọng của
Nhật Bản và là nơi đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc. Mặt khác, Nhật
Bản muốn tăng cường ảnh hưởng của mình và ngăn chặn, hạn chế tham vọng của Trung
Quốc ở khu vực, bằng cách can dự nhiều hơn vào các sự kiện của thế giới và khu vực. Vì
vậy, Nhật Bản cho rằng: biển Đơng ngày càng có tầm quan trọng sống cịn về cả kinh tế,
an ninh của họ. Nhật Bản đã ra tuyên bố đòi hỏi bảo đảm các con đường biển cách Nhật
Bản 1.000 hải lý (1.850km), bao gồm toàn bộ đường hàng hải trên biển Đông. Về mặt
quân sự, hải quân Nhật đã được đánh giá là một trong những lực lượng hải quân mạnh
nhất khu vực Đông Á. Đồng thời, Nhật vẫn duy trì sự hợp tác với Mỹ trong cam kết
phòng thủ chung. Trên lãnh thổ Nhật đang còn những căn cứ quân sự lớn của Mỹ, giúp
cho Mỹ triển khai các hoạt động qn sự ở Đơng Á nói chung và biển Đơng nói riêng.


11

2.4. Chính sách của một số nước ven biển Đơng
Các nước ven biển Đông đều đánh giá Trung Quốc là nhân tố chủ yếu gây mất ổn
định ở biển Đông. Họ không muốn Trung Quốc lấp “chỗ trống quyền lực” ở biển Đơng,
nên ủng hộ sự có mặt về qn sự của Mỹ ở đây để làm đối trọng với Trung Quốc.
Từ năm 1999 trở lại đây, một số nước cịn dựa vào Mỹ để có những hành động
làm tăng thêm mức độ căng thẳng ở Trường Sa, như lấn chiếm thêm một số điểm, tiến
hành trinh sát các đảo do Việt Nam kiểm soát, tăng cường các hoạt động tuần tiễu, khai
thác hải sản... Hầu hết các nước ven biển Đông đều tăng cường đầu tư cho phát triển hải
qn để bảo vệ lợi ích trên biển của mình. Hàng năm, những nước này vẫn duy trì diễn
tập hải quân song phương và đa phương giữa các nước trong khu vực với nhau và với
các nước ngoài khu vực.

Đối với Việt Nam, các nước ASEAN đều quan tâm phát triển quan hệ về nhiều
mặt; hợp tác với Việt Nam trong việc giữ gìn hịa bình và ổn định trên biển; thống nhất
với Việt Nam về chủ trương giải quyết tranh chấp biển, đảo bằng thương lượng hịa
bình. Họ muốn Việt Nam là vật cản ngăn chặn mối đe dọa bành trướng lãnh thổ của
Trung Quốc ở biển Đông, nhưng thường giữ im lặng trước những hành động của Trung
Quốc mà Việt Nam phản đối.
Thái Lan là đồng minh thân cận nhất của Mỹ ở Đông Nam Á. Khi Trung Quốc
lấn chiếm và gây ra các sự kiện trên biển Đông, quan điểm của Thái Lan là trung lập,
không đưa ra chứng kiến phản đối, trong khi Việt Nam lên án Trung Quốc; đồng thời
vẫn giữ mối quan hệ bình thường trên biển với Việt Nam thể hiện trong việc duy trì
tuần tra chung trên biển giữa hải quân hai nước.
Campuchia trong vịng 5 năm trở lại đây đã có những chuyển biển đáng kể theo
chiều hướng tốt trong mối quan hệ về biển với Việt Nam. Tuy nhiên, trong nước vẫn còn
những thế lực thù địch với Việt Nam, nổi bật là nhóm các nghị sĩ của các đảng đối lập với
Đảng Nhân dân Campuchia vẫn đưa ra những địi hỏi vơ lý về chủ quyền của họ đối với
các cột mốc biên giới trên bộ của ta và không chấp nhận phân chia vùng biển trong vùng
nước lịch sử mà hiệp định giữa hai nước đã ký kết năm 1982, trong các cuộc đàm phán.


12

Quan điểm của Campuchia về các vấn đề trên biển Đông cũng giữ ở mức trung lập, không
ủng hộ ai nhưng cũng không đưa ra lời phản đối ai mỗi khi có sự kiện xảy ra trên biển
Đơng.
3. Quản lý, bảo vệ chủ quyền biển đảo Vỉệt Nam trong
tình hình mới
Trước yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay, Đảng ta nhận thức sâu sắc và thể hiện rõ quan điểm
về phát triển kinh tế độc lập tự chủ, kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền
biển, đảo ừong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, Quan điểm

đó được thể hiện tập trung trong các nghị quyết, chỉ thị như: Nghị
quyết 03/-NQ/TW ngày 6-5-1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) về “Một
số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt”;
Chỉ thị 20-CT/TW ngày 22-9-1997 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về
“Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng CNH, HĐH”; đặc biệt
là “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” trong Nghị quyết TW 4
(khoá X): “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia
mạnh về biển, giàu lên từ biển”(l).
Thời gian qua, sự biến đổi khơn lường của tình hình thế giới,
khu vực và trên biển Đơng khiến nhiệm vụ phịng thủ, bảo vệ đất
nước, nhất là an ninh trên biển trở thành nhiệm vụ nhiều khó khăn,
thách thức. Để hồn thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, điều tiên quyết đặt ra là phải không ngừng củng cố, tăng
cường sức mạnh quốc gia, xãy dựng thế trận quốc phịng tồn dân
trên biển. Trong đó, xây dựng thế trận lòng dân, đảm bảo bảo vệ
vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc là vấn đề
chiến lược, mang tính cấp bách, then chốt.
Vì vậy, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ
sau đây:


13

3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền
biển, đảo
Công tác tuyên truyền về chủ quyền quốc gia trên biển địi hỏi
có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và các địa phương;
phải có sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương tới cơ sở về
nội dung và phương pháp tuyên truyền. Nội dung tuyên truyền phải
đa dạng và phong phú trên các phương tiện thông tin đại chúng

trong nước và quốc tế, lồng ghép chặt chẽ giữa các hoạt động đối
ngoại, chính trị, kinh tế, qn sự, quốc phịng... Qua đó, nhân dân
Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế hiểu và nắm vững các vùng,
khu vực thuộc chủ quyền lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng như chủ
quyền biển Việt Nam được xác lập trên cơ sở các điều khoản quy
định trong Công ước quốc tế về Luật Biển 1982.
Tuyên truyền về các điều khoản và nghĩa vụ cần phải chấp
hành các quy định của luật pháp Việt Nam khi hoạt động hoặc tham
gia giao thông trong phạm vi lãnh hải, các vùng nội thuỷ, vùng đảo,
quần đảo và khu vực đặc quyền kinh tế trên biển Việt Nam làm
chuyển biến ý thức, trách nhiệm của mỗi người... Qua đó phát huy
sức mạnh của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của cả hệ thống
chính trị, kết hợp sức mạnh trong và ngoài nước, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Công tác tuyên truyền phải được tiến hành sâu rộng trong và
ngoài nước, phải gắn kết giữa lịch sử với hiện tại để người dân thấy
được ý nghĩa và tầm quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước; làm cho mỗi công dân Việt Nam thấy
được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với chủ quyền biển, đảo
quốc gia. Từ đó đồn kết, chung sức đồng lịng quyết tâm làm chủ,
bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.


14

3.2. Ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế biển, đảo
và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội trên các vùng ven biển, hải đảo
Biển Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn về kinh tế. Vì
vậy, để khai thác, sử đụng hiệu quả và biến các tiềm năng ấy thành

nguồn lực, động lực đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Đảng
và Nhà nước cần tập trung đầu tư nguồn lực thích đáng cho các
ngành kinh tế mũi nhọn, có thế mạnh ở các vùng ven biển, trên các
đảo và quần đảo như: Khai thác, chế biến dầu khí; hệ thống cảng và
dịch vụ vận tải biển; khai thác, chế biến hải sản, du lịch... Trong đó,
ưu tiên xây dựng các trung tâm dịch vụ, thành lập các tập đoàn kinh
tế mạnh có đủ khả năng vươn xa, kết họp phát triển kinh tế với làm
chủ biển, đảo; tập trung nguồn vốn, khoa học, công nghệ, nguồn lao
động để khai thác có hiệu quả các tiềm năng của biển; ưu tiên phát
triển hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh trên khu
vực quần đảo Trường Sa và các đảo lớn xa bơ, tạo điều kiện thuận lợi
đẩy nhanh tốc độ sản xuất của nhân dân đang sinh sống trên các
đảo và quần đảo.
Quá trình thu hút nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội biển,
đảo đòi hỏi các ngành chức năng và địa phương cần phối họp
nghiên cứu, khảo sát tổng thể, xác định rõ tiềm năng, thế mạnh của
từng vùng, từng khu vực, đánh giá đúng, đủ các yếu tố tự nhiên
cũng như xu thế phát triển.
Phát triển kinh tế biển phải gắn với giải quyết tốt các vấn đề
xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, coi đó
như một vấn đề then chốt trong xây dựng thế trận lòng dân trên
biển.
3.3. Kết hợp chặt chẽ giữa thác đẩy nhanh quá trình


15

dân sự hóa trên biển với xây dựng thế trận quốc phòng - an
ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền
quốc gia trên biển

Dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở để chúng ta khai
thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên trên biển, vừa là tiền đề để
xây dựng, củng cố và phát huy lực lượng tại chỗ phục vụ chiến lược
quốc phòng - an ninh trên biển. Đảng ta đã khẳng định trong Chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020: “Thực hiện q trình dân sự hóa
trên biển, đảo gắn với tổ chức dân cư, tổ chức sản xuất và khai thác
biển. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích mạnh mẽ nhân dân ra
định cư ổn định và làm ăn dài ngày trên biển; thí điểm xây dựng các
khu quốc phòng - kinh tế tại các đảo, quần đảo Trường Sa, vùng biển,
đảo của Tổ quốc”(3). Đây là một chủ trương chiến lược có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của
đất nước. Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước,
cơng tác dân sự hóa trên các vùng biển, đảo, nhất là ở những vùng
biển, đảo chiến lược đã được đẩy mạnh, ảnh hưởng tốt đến sự phát
triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để củng cố và xây dựng
thế trận lòng dân trên biển.
Cùng với q trình dân sự hóa ở các vùng biển, đảo, việc bảo
vệ chủ quyền biển đảo và duy trì lợi ích quốc gia trên biển giai đoạn
hỉện nay cần kết hợp chặt chẽ hơn nữa giữa phát triển kinh tế - xã
hội với tăng cường quốc phòng - an ninh. Việc quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội ở các khu vực ven biển, trên biển và các đảo phải
tuân thủ các yêu cầu đặt ra trong kế hoạch tổng thể của khu vực
phòng thủ địa phương, phải mang tính hệ thống, bảo đảm sự liên
kết chặt chẽ giữa biển, đảo với đất liền; kết hợp chặt chẽ giữa thế
trận “tĩnh” của đảo và bơ với thế “động” của lực lượng tác chiến cơ


16

động trên biển tạo nên thế trận liên hoàn, vững chắc.

Trang bị kỹ thuật phục vụ cho mục đích kinh tế - xã hội phải
phù hợp với hệ thống trang bị kỹ thuật quốc phòng - an ninh trong
hệ thống các cụm lực lượng trên biển, thực hiện kiểm soát, giám
sát, báo động, chi viện, hỗ trợ nhau trong đấu tranh phòng chống
các hoạt động xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia. Các cơ sở hậu
cần, kỹ thuật kinh tế - xã hội ven bờ, trên biển và trên các đảo phải
sẵn sàng huy động cho nhiệm vụ quốc phòng, ưu tiên xây dựng các
đảo tiền tiêu xa bờ có cơng sự kiên cố, trang bị hoả lực mạnh, có
khả năng tác chiến dài ngày.
Bên cạnh đó, cần xây dựng một lực lượng kiểm ngư đủ mạnh
để bảo vệ việc khai thác, đánh bắt hải sản của ngư dân trên biến,
sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn trên biển; đồng thời
kiểm tra, gỉám sát, phát hiện, ngăn chặn các hành động khai thác
hải sản trái phép của nước ngoài trên vùng biển của Việt Nam.
3.4. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị ở các huyện đảo đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc
Hệ thống chính trị ở các huyện đảo vừa là “cầu nối” đưa chủ
trương, chính sách của Đảng đến với quần chúng, vừa là chủ thể trực
tiếp tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các chủ trương của Đảng
trên các địa bàn biển, đảo. Vì vậy, xây dựng hệ thống chính trị ở các
huyện đảo vững mạnh là một giải pháp quan trọng để củng cố thế
trận quốc phịng tồn dân trên biển đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ
quyền biển đảo Tổ quốc hiện nay. Quy trình thực hiện là phải hồn
thiện hệ thống chính trị với các thiết chế đầy đủ, cơ cấu hợp lý và cơ
chế hoạt động hiệu quả, phù hợp với điều kiện hoạt động đặc thù trên
các địa bàn biển, đảo.


17


* Đối với các đơn vị, các ngành, các địa phương
Xây dựng quy chế phối hợp các lực lương: Công an, Qn sự,
Biên phịng, Sở Nơng nghiệp và phát triển nông thôn, địa phương ba
huyện ven biển trong phối hợp giữa phát triển kinh tế, xã hội gắn với
bảo vệ chủ quyền vùng biển và giữ gìn an ninh trật tự trên khu vực
biên giới biển.
Phát động phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ
quốc; xây dựng các tổ tự quản về an ninh trật tự
Tổ chức mạng thông tin liên lạc giữa các lực lượng và ngư dân
để nắm chắc mọi diễn biến tình hình lao động, sản xuất, an ninh
chính trị, trật tự an tồn xã hội trên khu vực đầm bãi và các vùng
biển.
Tăng cường phối hợp kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, kiên quyết
không cho người và phương tiện ra biển nếu không trang bị đầy đủ
thiết bị an toàn.
Các ngành, địa phương có chủ trương, chính sách hỗ trợ cho
các chủ phương tiện, thuyền viên khi gặp nạn, nhất là đối tượng gia
đình chính sách, gia đình có cơng với cách mạng, hộ nghèo và lực
lượng dân quân biển.
Xây dựng lực lượng bộ đội Biên phịng vững mạnh tồn diện,
đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh
vùng biển trong tình hình mới.
Xây dựng lực lượng bộ đội Biên phịng vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, là lực lượng nòng cốt và chuyên trách trong
quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng biển, giưc gìn an ninh trật tự trên
khu vực biên giới biển. Tăng cường giáo dục, huấn luyện nghiệp vụ
pháp luật cho các lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự để nâng
cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu



18

KẾT LUẬN
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của
Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng,
phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay và mai sau. Bảo vệ chủ
quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu và là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quãn ta. Để hồn thành nhiệm vụ thiêng liêng
và cao cả đó, hơn lúc nào hết phải phát huy sức mạnh tổng hợp của
cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nươc, giữ vững độc lập, chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, tồn vẹn vùng biển nói
riêng và tồn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc nói chung, xây dựng một
nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách
nhiệm thiêng liêng của mỗi công dân Việt Nam đối vớỉ lịch sử dân
tộc, là nhân tố quan trọng bảo đảm cho dân tộc ta phát triển bền
vững. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Mục tiêu,
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển,
đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa.. .”. Đó là ý chí sắt đá, quyết tâm khơng gì lay
chuyển được của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chúng ta phải tiến ra biển, bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên


19


biển, khai thác biển làm giầu cho Tổ quốc bằng “sức mạnh tổng hợp
của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự
lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phịng tồn dân với sức
mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ
kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh
tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối
ngoại. Cần phải có sự vào cuộc của cả hệ thống từ các Bộ, Ngành.


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Ban chỉ đạo Nhà nước về Biển đông và các hải đảo, Báo cáo về
triển khai Nghị quyết Bộ Chính trị số 03NQ/TW ngày 6-5-1993 và
chỉ thị số 399 ngày 5-8-ỉ993 về biển của Thủ tưởng Chỉnh phủ, Hà
Nội 1995.
2 Ban chỉ đạo Nhà nước về biển đông và các hải đảo, Đề án tăng
cường quản ỉỷ Nhà nước về an ninh trật tự trên biển, Hà Nội 1995.
3 Ban biên giới Chính phủ, Giáo trình về nâng cao năng lực quản lý
biển, Hà Nội 1998.
4 Bộ Quốc phịng, Giáo trình giáo dục quốc phịng tập II, Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2004.
5 Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Ban chấp hành trung ương
Đảng lần thứ 8, khố IX\ Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2003.
6 Đảng công sản Việt nam, Văn kiện đạỉ hội Đảng toàn quốc Lần
thứ Hà Nội 2003.
7 Học viện Quốc phòng, Bảo vệ biển đảo trong thời kỳ mới, Hà Nội
2003.
8 Viện chiến lược phát triển, Định hướng sơ bộ phát triển kỉnh tế

biển Việt Nam, Hà Nội 1995.
9 Đảng cộng sản Việt nam, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XII Đảng, Hà Nội 2016.
10 Bộ Quốc phòng, Bảo vệ biển, đảo trong thời kỳ mới, Tập huấn
cơng tác Quốc phịng, Hà Nội 2014.


21

MỤC LỤC
MỞ
ĐẦU................................................................................................
1
NỘI
DUNG............................................................................................2
1. Tầm quan trọng của Biển, Đảo Việt
Nam..........................................3
1.1. Về phát triển kinh
tế..........................................................................4
1.2. Về quốc phòng an
ninh......................................................................5
1.3. Về tư tưởng, văn hóa, giáo
dục..........................................................6
2. Một số tranh chấp chủ quyền trên biển Đơng trong
khu vực có liên quan đến Việt
Nam.................................................................................
........7
2.1. Đối với quần đảo Hoàng
Sa...............................................................8
2.2. Đối với quần đảo Trường



22

Sa.............................................................9
3. Quan điểm, nhiệm vụ và bảo vệ an ninh và chủ quyền
biển đảo Việt
Nam.................................................................................
...............................10
3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền
biển, đảo...............11
3.2. Ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế biển đảo và
thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
trên các vùng ven biển, hải
đảo..................................................................................
................................12
3.3. Kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh q trình dân
sự hóa trên biển với xây dựng thế trận quốc phòng - an
ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền
quốc

gia

trên

biển...............................................................13
3.4. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hẹ
thống chính trị ở các huyện đảo đáp ứng yêu cầu bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của Tổ Quốc.....18




×