HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BỘ MƠN GIÁO DỤC QUỐC PHỊNG & AN NINH
TIỂU ḶN MƠN:
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG & AN NINH
CHUYÊN ĐÊ:
NHIỆM VỤ QUẢN LÝ, BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN,
ĐẢO VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Người thực hiện: PHẠM THỊ HÀ
Mã số học viên:
Lớp: CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ KTT -
NĂM
MỞ ĐẦU
Biển, đảo là phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Biển,
đảo có vai trị quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, các quốc gia,
nhất là các quốc gia có khả năng khoa học cơng nghệ cao, có
tiềm lực quân sự mạnh đều có xu thế vươn ra biển để tìm
kiếm, khai thác tài ngun, khống sản phục vụ cho sự
nghiệp phát triển đất nước. Ngày nay, biển được ví như kho
báu, có thể giải quyết được những vấn đề cấp bách mang tính
tồn cầu như: ngun liệu, năng lượng, tài ngun hiếm và
mơi trường. Theo đó, nhiều quốc gia đang hướng ra biển, coi
biển là tương lai, là đặc ân cuối cùng của thiên nhiên ban tặng
cho lồi người, là một trong những mơi trường sống quan
trọng của loài người. “Tiến ra biển trở thành một hướng phát
triển của loài người, một chiến lược lâu dài của nhiều nước
trên thế giới”. Theo đó, thế kỷ XXI là thế kỷ của chiến lược
biển.
Đất nước Việt Nam với hình chữ S, có bờ biển dài khoảng
3.260 km từ Bắc xuống Nam và vùng biển rộng hơn 1 triệu
km2 với hơn 4.000 hòn đảo lớn nhỏ và 2 quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Trong 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam có 28
tỉnh, thành phố giáp biển. Từ xa xưa, biển đảo là một bộ phận
cấu thành phạm vi chủ quyền thiểng liêng của Tổ quốc. Các
hải đảo và quần đảo cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh
tồn và phát triển đời đời của dân tộc ta; tiềm năng kinh tế
biển của Việt Nam rất lớn, có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sớm xác định được tầm quan trọng của Biển, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng cộng sản Việt Nam cho
đến nay, Đảng ta luôn xác định cách mạng Việt Nam có 2
nhiệm vụ cơ bản là xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Trước những diễn biến phức tạp của thế giới và
khu vực hiện nay thì nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc càng trở thành
yếu tố quan trọng cho sự tồn vong của đất nước. Biển Đông
với vị thế chiến lược là ngã tư của đường hàng hải quốc tế, và
tiềm năng tự nhiên to lớn, khiến nhiều quốc gia trong khu vực
chú ý và tích cực thực hiện các hành động khai thác của
mình. Sự khuấy động lớn nhất xuất phát từ các tuyên bố chủ
quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo lớn trên biển
Đông là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như vùng lãnh
hải trên biển Đông là một trong những tuyên bố gây trở ngại
nhất trong quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN, đặc biệt là với
Việt Nam và Philippin. Trong khi đó lịch sử Trung Quốc đã ghi
nhận biên giới của Trung quốc chỉ giới hạn đến đảo Hải Nam.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đơng Nam Á, có vị trí
chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa các
cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, trên biển,
đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hịa bình, ổn định, tự do an
ninh, an tồn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước những thách
thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Đo đó cần nắm vững quan điểm
của Đảng trong đấu tranh bảo vệ biển đảo của Việt Nam. Bảo
vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, lãnh hải
trên biển Đơng là vấn đề hết sức quan trọng, mang tính chiến
lược lâu dài và cần được giải quyết bằng các biện pháp hịa
bình trên cơ sở cơng ước về Luật biển năm 1982 và pháp luật
quốc tế. Nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo là
trách nhiệm của mỗi công dân Việt Nam đối với dân tộc, là
nhân tố quan trọng bảo đảm cho dân tộc ta phát triển bền
vững. Vì những vấn đề nêu trên, học viên viết tiểu luận:
“Nhiệm vụ quản lý, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển,
đảo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, cho chuyên đề tự
chọn của bộ mơn Quốc phịng – An ninh, nhằm thể hiện trách nhiệm, ý chí và
nguyện vọng cá nhân đối với vấn đề này.
.
NỘI DUNG
1.
Vị trí, vai trị của biển đảo Việt Nam
1.1. Vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế
Biển Đơng là vùng biển nằm trong số 10 tuyến đường
hàng hải lớn nhất trên thế giới đi qua. Giao thông nhộn nhịp
đứng thứ 2 thế giới (sau Địa Trung Hải). Hàng ngày có khoảng
200 đến 300 tàu từ 5.000 tấn trở lên qua lại (không kể tàu
dưới 5.000 tấn) chiếm 1/4 lưu lượng tàu hoạt động trên biển
của thế giới. Khu vực Biển Đơng có những eo biển quan trọng
đối với nhiều nước, trong đó eo biển Malacca là eo biển nhộn
nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển Hormuz). Biển Đông rất
quan trọng đối với nhiều nước trong khu vực xét về vị trí địa chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế. Với Mỹ là
tuyến hoạt động chính của Hạm đội 7, có 90% hàng hóa của
Mỹ và hàng hóa đồng minh chuyên chở qua Biển Đông. Với
Trung Quốc hàng năm nhập 160 triệu tấn dầu thì 50% dầu
nhập và 70% hàng hóa qua Biển Đông. Với Nhật Bản 70%
lượng dầu nhập khẩu và 42% lượng hàng hóa xuất khẩu
chun chở qua Biển Đơng.
Biển Đơng còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên
nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế
của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài ngun sinh
vật (thủy sản), phi sinh vật (dầu khí, khống sản). Biển Đông
được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất
thế giới. Các khu vực thềm ỉục địa có tiềm năng dầu khí cao là
các bồn trũng Bruney - Saba, Sarawak, Malay, Pattani, Nam
Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa Sông Châu Giang...Các
khu vực có tiềm năng dầu khí cịn lại chưa khai thác là khu
vực thềm lục địa ngoài của vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền
Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Theo đánh giá của Bộ
Năng lượng Mỹ, lượng dầu dự trữ được kiểm chứng ở Biển
Đông là 7 tỷ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu
thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí
ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng.
Đối với Việt Nam, vùng biển và ven biển Việt Nam nằm
án ngữ trên con đường hàng hải và hàng không huyết mạch
thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa
châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các
nước trong khu vực. Điều kiện tự nhiên của bờ biển Việt Nam
là tiềm năng to lớn cho ngành giao thông hàng hải Việt Nam.
Dọc bờ biển Việt Nam xác định nhiều khu vực xây dựng cảng,
trong đó có một số nơi có thể xây dựng cảng biển nước sâu
như: cảng Cái Lân và một số điểm ở khu vực Vịnh Hạ Long và
Bái Tử Long, Lạch Huyện, Đình Vũ, Cát Hải, Đồ Sơn, Nghi Sơn,
Cửa Lò, Hòn La, Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nang, Dung Quốc,
Vân Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải... Phía Nam, cảng
quy mơ vừa như Hịn Chơng, Phú Quốc... Ngồi sự hình thành
mạng lưới cảng biển, các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven
biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các
tuyến đường xuyên Á) sẽ cho phép vùng biển và ven biển
nước ta có khả năng chuyển tải hàng hóa nhập khẩu tới mọi
miền của Tổ quốc một cách nhanh chóng và thuận lợi.
Biển Việt Nam có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc
biệt là dầu mỏ khí đốt. Trữ lượng dự báo tại vùng biển và
thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đồi, trữ
lượng khai thác từ 4 đến 5 tỷ tấn. Trữ lượng khí dự báo
khoảng 1.000 tỷ m3. Hiện nay, chúng ta đã phát hiện hàng
chục mỏ dầu khí có trữ lượng khai thác cơng nghiệp, trong đó
đã đưa vào khai thác gần một chục mỏ, hàng năm cung cấp
hàng triệu tấn dầu và hàng tỷ m3 khí phục vụ cho phát triển
kinh tế và dân sinh. Ngồi ra, cịn có các khống sản quan
trọng và có tiềm năng lớn như than, sắt, titan, băng cháy, cát
thủy tinh, muối và các loại vật liệu xây dựng khác.
Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong
phú trong khu vực. Theo các điều tra về nguồn lợi hải sản,
tính đa dạng sinh học trong vùng biển nước ta đã phát hiện
được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú, trong đó có 6.000
lồi động vật đáy, 2.400 lồi cá (trong đó có 130 lồi cá có giá
trị kinh tế), 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù sa, 537
loài thực vật phù du, 225 loài tơm biển... Trữ lượng cá biển
ước tính trong khoảng từ 3,1 đến 4,1 triệu tấn, khả năng khai
thác từ 1,4 đến 1,6 triệu tấn. Nguồn lợi hải sản phong phú đã
góp phần đưa ngành thủy sản trở thành một trong những
ngành kinh tế mũi nhọn, mang lại giá trị xuất khẩu đứng thứ 3
trong các ngành kinh tế của đất nước.
Biển Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển du lịch ngành cơng nghiệp khơng khói, hiện đang đóng góp khơng
nhỏ vào nền kinh tế của đất nước. Do đặc điểm kiến tạo khu
vực, các dãy núi đá vôi vươn ra sát bờ biển đã tạo thành
nhiều cảnh quan thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng, nhiều
vịnh, bãi cát trắng, hang động, các bán đảo và các đảo lớn
nhỏ liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên
thế giới như di sản thiên nhiên Hạ Long được UNESCO xếp
hạng. Các thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng như Phong Nha,
Bích Động, Non n ư ớ c . . c á c di tích lịch sử và vãn hóa như: cố
đơ Huế, phố cổ Hội An, Tháp Chàm, Nhà thờ đá Phát
Diệm...phân bố tại vùng ven biển. Tiềm năng du lịch kể trên
rất phù hợp để Việt Nam phát triển và đa dạng các loại hình
du lịch hiện đại như nghỉ ngơi; dưỡng bệnh; tắm biển; du lịch
sinh thái nghiên cứu khoa học vùng ven bờ, hải đảo, ngầm
dưới nước; du lịch thể thao: bơi, lặn sãu, lướt ván, nhảy sóng,
đua thuyền...
Nhận thấy tiềm năng to lớn của biển. Để khai thác tiềm
năng và lợi thế của biển, đáp ứng đòi hỏi khách quan của
công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, Bộ Chính trị
Ban chấp hành TW Đảng khóa VII đã ra Nghị quyết số 03NQ/TW ngày 06/5/1993 về « Một số nhiệm vụ phát triển kinh
tế biển trong những năm trước mắt » và đến Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định « Xây dựng và
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển tồn diện, có
trọng tâm, trọng điểm ; sớm đưa nước ta trở thành quốc gia
mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với đảm bảo quốc
phòng an ninh và hợp tác quốc tế »
1.2 . Về quốc phòng, an ninh
Từ các thời kỳ Vua Hùng dựng nước, nhân dân ta đã tạo
dựng nên truyền thống « giỏi dung thuyền, thạo thủy chiến ».
Nhiều chiến công vang dội trên sông, biển đã được ghi đậm
dấu ấn trong lịch sử dân tộc. Lịch sử dân tộc đã ghi nhận có
tới 2/3 cuộc chiến tranh, kẻ thù đã sử dụng đường biển để tấn
công xâm lược nước ta. Những chiến công hiển hách trên
chiến trường sông biển đã minh chứng: Ba lần đại thắng quân
thù trên sông Bạch Đằng (năm 938, 981 và 1288); chiến
thắng trên phịng tuyến sơng Như Nguyệt 1077; chiến thắng
Rạch Gầm - Xồi Mút năm 1785 và những chiến cơng vang
dội của quân và dân ta trên chiến trường sông biển trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là
những minh chứng ghi đậm dấu ấn không bao giờ mờ phai
trong lịch sử dân tộc.
Ngày nay Biển nước ta được ví như mặt tiền, sân trước,
cửa ngõ quốc gia; biển, đảo, thềm lục địa và đất liền hình
thành phên dậu, chiến lũy nhiều lớp, nhiều tầng, bố trí thành
tuyến phịng thủ liên hồn bảo vệ Tổ quốc, do vậy sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển đảo Việt Nam có vai trị
quan trọng, làm tăng chiều sâu phòng thủ đất nước ra hướng
biển. Do đặc điểm lãnh thổ đất liền nước ta có hình chữ
S,
trải dài ven biển từ Bắc vào Nam, chiều ngang hẹp (nơi rộng
nhất khoảng 600 km, nơi hẹp nhất khoảng 50 km), nên chiều
sâu đất nước bị hạn chế. Hầu hết các trung tâm chính trị, kinh
tể xã hội của ta đều nằm trong phạm vi cách bờ biển không
lớn, nên rất dễ bị địch tấn công từ hướng biển. Nếu chiến
tranh xảy ra thì mọi mục tiêu trên đất liền đều nằm trong tầm
hoạt động, bắn phá của vũ khí trang bị công nghệ cao xuất
phát từ hướng biển. Nếu các quần đảo xa bờ, gần bờ được
củng cố xây dựng căn cứ, vị trí trú đậu, triển khai của lực
lượng Hải quân Việt Nam và sự tham gia của các lực lượng
khác thì biển đảo có vai trị quan trọng làm tăng chiều sâu
phòng thủ hiệu quả cho đất nước.
Từ nhiều năm nay, nhất là những năm đầu của thập kỷ
70 của thể kỷ XX đến nay trên Biển Đông đang tồn tại những
tranh chấp biển đảo rất quyết liệt và phức tạp, tiềm ẩn những
nhân tố mất ổn định, tác động đến quốc phòng và an ninh
nước ta. Trên Biển Đông vùng biển nước ta tiếp giáp với vùng
biển 7 nước trong khu vực là: Trung Quốc (phía Bắc),
Campuchia và Thái Lan (Tây Nam), Philippin, Malaixia,
Inđơnêxia, Brunây (phía Đông, Đông Nam và Nam). Đặc biệt
gần đây Trung quốc tăng cường hiện diện ở Biển Đông, thực
hiện bồi đắp phi pháp các bãi cạn trên Quần Đảo Hoàng Sa,
làm thay đổi thực thể, Trung Quốc tăng cường các đội tàu
đánh bắt vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Philippin, thay
đối luật để cho phép Dân quân biển Trung Quốc được dùng vũ
khí khi có va trạm những vấn đề trên đe dọa đến chủ quyền
vùng biển đảo, thềm lục địa của nước ta, gây ra những nhân
tố khó lường, mất ổn định về chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và
an ninh đất nước.
Vươn ra biển, làm giàu từ biển là định hướng đúng đắn
phù hợp trong điều kiện hiện nay. Việt Nam là một quốc gia
có biển, một nhân tố mà thế giới luôn xem như một yếu tố
đặc lợi. Chúng ta cần tăng cường hơn nữa những khả năng
quản lý, làm chủ vươn ra biển làm động lực thúc đẩy các
vùng khác trong đất liền phát triển. Chúng ta phải có quyết
tâm cao, tập trung huy động mọi tiềm năng và lợi thế của
biển, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố
quốc phòng - an ninh trên biển để tạo ra mơi trường hịa bình,
ổn định, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam và ngư dân các địa phương yên tâm làm ăn trên các
vùng biển đảo, nhất là ở vùng biển xa. Phải xây dựng Hải
quân nhân dân Việt Nam và các lực lượng vững mạnh, theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và đi thẳng lên hiện
đại, đáp ứng tốt với yêu cầu nhiệm vụ để quản lý, đấu tranh,
bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, thềm lục địa thiêng
liêng của Tổ quốc.
1.3.Về văn hóa, xã hội
Nhận thức được tầm quan trọng của biển và đại dương
đối với cuộc sống nhân loại, chủ quyền và vị trí chiến lược về
quốc phịng - kinh tế - xã hội của hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa đối với đất nước, việc tổ chức giáo dục truyền
thống trong các tầng lớp nhân dân về chủ quyền đã được chú
trọng cả về nội dung và hình thức.
Từ năm 2002, tài liệu tuyên truyền biển đảo Việt Nam
được đưa vào nội dung giảng dạy cho học sinh, sinh viên các
trường đại học và cao đẳng. Đây là những nội dung cơ bản
nhất về địa lý, tiềm năng kinh tế, định hướng chiến lược phát
triển kinh tế và pháp luật liên quan đến biển đảo Việt Nam
cũng như quá trình đàm phán giải quyết vấn đề biên giới lãnh
thổ giữa Việt Nam với các nước láng giềng.
Song song với phổ biến, tuyên truyền kiến thức biển
đảo, các loại hình văn hóa có nội dung liên quan trực tiếp đến
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như phim tài liệu, bài
viết, các bộ tem về biển đảo Việt Nam cũng được triển khai.
Năm 1998, trong khn khố chương trình năm Quốc tế đại
dương do Liên hợp quốc đề xướng, hãng phim Tư liệu và khoa
học Trung ương đã sản xuất bộ phim “Lãnh thổ trên biển
Đông” giới thiệu về các hoạt động bảo vệ chủ quyền và quản
lý nhà nước trên quần đảo Trường Sa và cuộc đấu tranh bảo
vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa với những bằng chứng
lịch sử và tư liệu thực tế phong phú và sinh động.
Tiếp theo cuộc thi “Em yêu biển đảo Việt Nam ” được tổ
chức năm 1998, năm 2003, Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Tổng cục Du lịch và Trung ương Đồn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh tiếp tục tổ chức chương trình “Vì biển xanh quê
hương” phát động phong trào thi viết, thi ảnh về chủ đề bảo
vệ môi trường biển; thanh niên các tỉnh, thành ven biển tiến
hành nhiều đợt ra quân làm sạch bãi biển, trồng cây chắn
sóng và đặc biệt tham gia cuộc thi tìm hiểu về biển đảo Việt
Nam với những nội dung thiết thực, hun đúc thêm ý chí bảo
vệ chủ quyền Tổ quốc trên biển của thanh thiếu niên trong cả
nước.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hàng loạt
cơng trình nghiên cứu có giá trị ứng dụng thiết thực đã được
tiến hành và bước đầu cho kết quả như chương trình khaỉ thác
điện năng từ ánh sáng mặt trời, chương trình nghiên cứu và
cải tạo các giống cây thích họp trên đảo... cũng như hàng loạt
đề tài nghiến cứu khoa học cấp Nhà nước đã và đang được
triển khai về đánh giá tài nguyên, môi trường Biển Đông và
khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2. Biển Đông trong chiến lược một số cường quốc thế giới và khu vực
2.1. Chiến lược của Mỹ đối với biển Đông
Mỹ là cường quốc hàng đầu của thế giới, nằm bên bờ của Đại Tây
Dương và Thái Bình Dương. Biển Đơng được Mỹ đánh giá là có vị trí quan
trọng trong chiến lược an ninh Thái Bình Dương của họ. Biển Đông là con
đường chiến lược của Mỹ từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương và Trung
Đơng; là con đường thương mại chính của Mỹ với khu vực châu Á, nơi Mỹ có
nhiều đồng minh chính trị cần phải bảo vệ. Ngày 10-5-1995, Bộ Ngoại giao
Mỹ ra tun bố về biển Đơng và Trường Sa, trong đó nhấn mạnh có lợi ích
lâu dài trong việc duy trì hịa bình và ổn định, bảo vệ quyền tự do hàng hải ở
biển Đông.
Năm 1992, Mỹ rút các căn cứ quân sự ra khỏi Philippin, nhưng vẫn tìm
cách duy trì sự có mặt về qn sự ở biển Đơng. Hạm đội 7 của Mỹ thường
xuyên qua lại biển Đông; duy trì đều đặn trinh sát đường khơng để kiểm sốt
tình hình biển Đơng và các nước ven biển Đơng. Những năm gần đây, lợi
dụng chiêu bài chống khủng bố, Mỹ đã gia tăng sự có mặt về quân sự, chuẩn
bị cơ sở để tăng cường khả năng can thiệp quân sự vào khu vực này. Hàng
năm, hải quân Mỹ đã tiến hành hàng chục cuộc diễn tập song phương và đa
phương với hải quân nhiều nước thành viên cũ của ASEAN ở những quy mơ
khác nhau. Mục đích của các cuộc diễn tập là huấn luyện, lôi kéo các nước
vào các hoạt động quân sự chung để từng bước hình thành tổ chức quân sự
khu vực do Mỹ chỉ huy, tạo điều kiện cho Mỹ tập hợp đồng minh sẵn sàng
can thiệp vào các “điểm nóng” của khu vực.
Để theo đuổi tham vọng bá chủ toàn cầu, tranh giành ảnh hưởng, thực
hiện bao vây, kiềm chế Trung Quốc, chính quyền Mỹ tiếp tục triển khai chiến
lược “can dự và dính líu” dưới chiêu bài “chống khủng bố”. Mỹ đã chuyển
trọng tâm chiến lược sang châu Á - Thái Bình Dương, tăng cường và mở rộng
quan hệ quốc phòng, an ninh với các nước châu Á - Thái Bình Dương. Từ
năm 2002 đến nay, Mỹ đã vận động được nhiều nước Đông Nam Á đồng ý
cho Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự trên lãnh thổ của họ khi cần thiết. Mỹ đã
đặt vấn đề với Thái Lan nâng cấp sân bay Utapao; xây dựng căn cứ hậu cần
nổi ở vịnh Thái Lan.
Gần đây, Mỹ còn tăng cường viện trợ quân sự cho các nước đồng minh
có liên quan đến tranh chấp ở Trường Sa. Đáng chú ý là Philíppin có chủ
trương dựa vào Mỹ để giải quyết tranh chấp chủ quyền ở biển Đơng. Mỹ và
Philíppin đã thảo luận khả năng hợp tác trong vấn đề an ninh biển trên cơ sở
lấy quan hệ giữa Mỹ - Nhật - Ơxtrâylia - Philíppin làm chìa khóa để xây dựng
và mở rộng hợp tác an ninh biển ở khu vực. Với Inđơnêxia, Mỹ đã bãi bỏ cấm
vận xuất khẩu vũ khí và bình thường hóa quan hệ qn sự từ tháng 12- 2005
và hứa ủng hộ Inđônêxia vươn lên giữ vị trí lãnh đạo ASEAN.
2.2. Chiến lược của Trung Quốc đối với biển Đông
Trung Quốc là một quốc gia lục địa (diện tích 9.600.000km 2), đồng thời
là quốc gia ven biển lớn (bờ biển dài khoảng 18.000km). Trong lịch sử, Trung
Quốc quan tâm chủ yếu đến lục địa, từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc bắt đầu
chủ ý đến biển, bắt đầu có những tranh giành biển, đảo với các nước khác. Từ
thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Trung Quốc bắt đầu nghiên cứu và định hình chiến
lược biển quốc gia, nhằm trở thành cường quốc biển khu vực, tiến tới một
cường quốc hàng đầu thế giới trong thế kỷ XXI. Trung Quốc cho rằng: biển là
lối thoát của dân tộc Trung Hoa để sinh tồn và phát triển. Trong chiến lược
biển của Trung Quốc, biển Đông là hướng phát triển chủ yếu hiện nay, là
“sống còn”, là bàn đạp để tiến ra đại dương, là nơi thử nghiệm chính sách
vươn lên thành cường quốc hàng đầu thế giới của Trung Quốc. “Độc chiếm
biển Đông” là chủ trương chiến lược kiên định và nhất quán của Trung Quốc.
Cùng với việc lấn chiếm và mở rộng các hoạt động qn sự, Trung Quốc
cịn hợp lý hóa chủ quyền về pháp lý. Ngày 3-9-1987, Quốc hội Trung Quốc
thông qua quy chế tỉnh Hải Nam bao gồm đảo Hải Nam, các quần đảo Tây Sa
và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Tháng 3 năm 1992,
Quốc hội Trung Quốc khóa 7 thơng qua “Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp của
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, trong đó xác định các quần đảo Đông
Sa, Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc. Ngày 15-6-1996, Quốc hội
Trung Quốc phê chuẩn Công ước về Luật Biển 1982, nhưng lại công bố
đường cơ sở, mở rộng lãnh hải Trung Quốc từ 370.000km 2 lên 3 triệu km2,
với nhiều sai trái so với quy định của Công ước. Tháng 5 năm 2011, Trung
Quốc đã gửi lên Ủy ban các vấn đề về biển và thềm lục địa của Liên hiệp
quốc tài liệu và bản đồ, đề nghị công nhận vùng biển trong đường chữ U trên
biển Đông do Trung quốc tự vẽ.
Hiện nay, Trung Quốc đang xây dựng hải quân đại dương. Hải quân
Trung Quốc được đánh giá là lực lượng hải quân lớn nhất, mạnh nhất khu
vực, mạnh hơn hải quân của tất cả các nước khác quanh biển Đông cộng lại,
đứng thứ hai thế giới về quân số và số lượng máy bay của hải quân, thứ ba thế
giới về số lượng tàu chiến đấu lớn và tàu ngầm. Hạm đội Nam Hải trước đây
là hạm đội yếu nhất, nay đã trở thành hạm đội mạnh nhất trong ba hạm đội
của hải quân Trung Quốc. Mặc dù, Trung Quốc đã ký với Việt Nam Hiệp định
phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ (năm
2000); đã ký với ASEAN Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên trên biển
Đông (DOC) năm 2002, nhưng khi Trung Quốc còn thực hiện “Chiến lược
hướng Nam” và ý đồ độc chiếm biển Đơng thì vấn đề đấu tranh trên biển
Đơng cịn diễn biến phức tạp.
2.3. Chiến lược của Nhật Bản đối với biển Đông
Nhật Bản là quốc gia đảo, có diện tích 372.000km2, rất nghèo tài ngun,
nhưng số dân đã vượt q 120 triệu người. Vì lẽ đó, Nhật Bản xác định con
người và biển là hai yếu tố cơ bản để phát triển. Biển Đông là con đường biển
có tầm quan trọng sống cịn đối với nền kinh tế của Nhật Bản. Khoảng 5070% lượng dầu nhập khẩu và 45% hàng hóa của Nhật được vận chuyển qua
Biển Đông. Đông Nam Á là thị trường quan trọng của Nhật Bản và là nơi
đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc. Mặt khác, Nhật Bản
muốn tăng cường ảnh hưởng của mình và ngăn chặn, hạn chế tham vọng của
Trung Quốc ở khu vực, bằng cách can dự nhiều hơn vào các sự kiện của thế
giới và khu vực. Vì vậy, Nhật Bản cho rằng: biển Đơng ngày càng có tầm
quan trọng sống cịn về cả kinh tế, an ninh của họ. Nhật Bản đã ra tuyên bố
đòi hỏi bảo đảm các con đường biển cách Nhật Bản 1.000 hải lý (1.850km),
bao gồm toàn bộ đường hàng hải trên biển Đông. Về mặt quân sự, hải quân
Nhật đã được đánh giá là một trong những lực lượng hải quân mạnh nhất khu
vực Đông Á. Đồng thời, Nhật vẫn duy trì sự hợp tác với Mỹ trong cam kết
phòng thủ chung. Trên lãnh thổ Nhật đang còn những căn cứ quân sự lớn của
Mỹ, giúp cho Mỹ triển khai các hoạt động quân sự ở Đông Á nói chung và
biển Đơng nói riêng.
2.4. Chính sách của một số nước ven biển Đông
Các nước ven biển Đông đều đánh giá Trung Quốc là nhân tố chủ yếu
gây mất ổn định ở biển Đông. Họ không muốn Trung Quốc lấp “chỗ trống
quyền lực” ở biển Đông, nên ủng hộ sự có mặt về quân sự của Mỹ ở đây để
làm đối trọng với Trung Quốc. Mặt khác, những nước này lại chấp nhận sự
xoa dịu và không muốn làm mất lịng Trung Quốc vì những tính tốn lợi ích
riêng của mỗi nước.
Từ năm 1999 trở lại đây, một số nước cịn dựa vào Mỹ để có những hành
động làm tăng thêm mức độ căng thẳng ở Trường Sa, như lấn chiếm thêm một
số điểm, tiến hành trinh sát các đảo do Việt Nam kiểm soát (việc này trước
đây họ chưa từng làm), tăng cường các hoạt động tuần tiễu, khai thác hải
sản... Hầu hết các nước ven biển Đông đều tăng cường đầu tư cho phát triển
hải quân để bảo vệ lợi ích trên biển của mình. Hàng năm, những nước này vẫn
duy trì diễn tập hải quân song phương và đa phương giữa các nước trong khu
vực với nhau và với các nước ngồi khu vực (Mỹ, Ơxtrâylia, Niu Dilân, Anh,
Pháp, Nhật).
Đối với Việt Nam, các nước ASEAN đều quan tâm phát triển quan hệ về
nhiều mặt; hợp tác với Việt Nam trong việc giữ gìn hịa bình và ổn định trên
biển; thống nhất với Việt Nam về chủ trương giải quyết tranh chấp biển, đảo
bằng thương lượng hịa bình. Họ muốn Việt Nam là vật cản ngăn chặn mối đe
dọa bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc ở biển Đông, nhưng thường giữ im
lặng trước những hành động của Trung Quốc mà Việt Nam phản đối.
Thái Lan là đồng minh thân cận nhất của Mỹ ở Đông Nam Á. Khi Trung
Quốc lấn chiếm và gây ra các sự kiện trên biển Đông, quan điểm của Thái Lan là
trung lập, không đưa ra chứng kiến phản đối, trong khi Việt Nam lên án Trung
Quốc; đồng thời vẫn giữ mối quan hệ bình thường trên biển với Việt Nam thể
hiện trong việc duy trì tuần tra chung trên biển giữa hải quân hai nước.
Campuchia trong vòng 5 năm trở lại đây đã có những chuyển biển đáng
kể theo chiều hướng tốt trong mối quan hệ về biển với Việt Nam. Tuy nhiên,
trong nước vẫn còn những thế lực thù địch với Việt Nam, nổi bật là nhóm các
nghị sĩ của các đảng đối lập với Đảng Nhân dân Campuchia vẫn đưa ra những
địi hỏi vơ lý về chủ quyền của họ đối với các cột mốc biên giới trên bộ của ta
và không chấp nhận phân chia vùng biển trong vùng nước lịch sử mà hiệp
định giữa hai nước đã ký kết năm 1982, trong các cuộc đàm phán. Quan điểm
của Campuchia về các vấn đề trên biển Đông cũng giữ ở mức trung lập,
không ủng hộ ai nhưng cũng không đưa ra lời phản đối ai mỗi khi có sự kiện
xảy ra trên biển Đông.
3. Quản lý, bảo vệ chủ quyền biển đảo Vỉệt Nam
trong tình hình mới
Trước yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta nhận thức sâu sắc và thể hiện
rõ quan điểm về phát triển kinh tế độc lập tự chủ, kinh tế
biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo ừong quá trình phát triển và
hội nhập quốc tế, Quan điểm đó được thể hiện tập trung
trong các nghị quyết, chỉ thị như: Nghị quyết 03/-NQ/TW ngày
6-5-1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) về “Một số nhiệm vụ
phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt”; Chỉ thị
20-CT/TW ngày 22-9-1997 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về
“Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng CNH, HĐH”;
đặc biệt là “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” trong
Nghị quyết TW 4 (khoá X): “Đến năm 2020, phấn đấu đưa
nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển”(l).
Thời gian qua, sự biến đổi khôn lường của tình hình thế
giới, khu vực và trên biển Đơng khiến nhiệm vụ phòng thủ,
bảo vệ đất nước, nhất là an ninh trên biển trở thành nhiệm vụ
nhiều khó khăn, thách thức. Để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, điều tiên quyết đặt ra là phải
không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia, xãy
dựng thế trận quốc phịng tồn dân trên biển. Trong đó, xây
dựng thế trận lòng dân, đảm bảo bảo vệ vững chắc chủ
quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc là vấn đề chiến
lược, mang tính cấp bách, then chốt.
Vì vậy, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số
nhiệm vụ sau đây:
3.1.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền
biển, đảo
Công tác tuyên truyền biển, đảo cần bám sát thực tiễn
tình hình, khơng ngừng đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình
thức, phương pháp tun truyền phù hợp với trình độ nhận
thức của từng đối tượng, đồng thời tận dụng có hiệu quả các
phương tiện kỹ thuật và chú trọng mở rộng phạm vi tuyên
truyền.
Công tác tuyên truyền về chủ quyền quốc gia trên biển
địi hỏi có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và
các địa phương; phải có sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ từ
Trung ương tới cơ sở về nội dung và phương pháp tuyên
truyền. Nội dung tuyên truyền phải đa dạng và phong phú
trên các phương tiện thông tin đại chúng trong nước và quốc
tế, lồng ghép chặt chẽ giữa các hoạt động đối ngoại, chính trị,
kinh tế, qn sự, quốc phịng... Qua đó, nhân dân Việt Nam
cũng như cộng đồng quốc tế hiểu và nắm vững các vùng, khu
vực thuộc chủ quyền lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng như
chủ quyền biển Việt Nam được xác lập trên cơ sở các điều
khoản quy định trong Công ước quốc tế về Luật Biển 1982.
Tuyên truyền về các điều khoản và nghĩa vụ cần phải
chấp hành các quy định của luật pháp Việt Nam khi hoạt
động hoặc tham gia giao thông trong phạm vi lãnh hải, các
vùng nội thuỷ, vùng đảo, quần đảo và khu vực đặc quyền
kinh tế trên biển Việt Nam; về các quan điểm chủ đạo và nhất
quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thực thi quyền
tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo, quần đảo và các
khu vực đặc quyền kinh tế biển. Đặc biệt, chú trọng nãng cao
nhận thức cho các cấp, các ngành, nhất là các cấp, ngành ở
địa phương ven biển, nhận thức rõ tính chất phức tạp của
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối cảnh mở cửa,
hội nhập quốc tế; khẳng định, củng cố niềm tin cho nhân dân
cả nước, cộng đồng quốc tế về chủ quyền của Việt Nam trên
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; làm chuyển biến ý thức,
trách nhiệm của mỗi người... Qua đó phát huy sức mạnh của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của cả hệ thống chính trị,
kết hợp sức mạnh trong và ngoài nước, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Công tác tuyên truyền phải được tiến hành sâu rộng
trong và ngoài nước, phải gắn kết giữa lịch sử với hiện tại để
người dân thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của biển, đảo
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; làm cho mỗi
công dân Việt Nam thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình
đối với chủ quyền biển, đảo quốc gia. Từ đó đồn kết, chung
sức đồng lịng quyết tâm làm chủ, bảo vệ biển, đảo thiêng
liêng của Tổ quốc.
3.2.Ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế biển,
đảo và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội trên các vùng ven biển, hải đảo
Biển Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn về kinh
tế. Vì vậy, để khai thác, sử đụng hiệu quả và biến các tiềm
năng ấy thành nguồn lực, động lực đẩy mạnh sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước cần tập trung đầu tư nguồn
lực thích đáng cho các ngành kinh tế mũi nhọn, có thế mạnh
ở các vùng ven biển, trên các đảo và quần đảo như: Khai
thác, chế biến dầu khí; hệ thống cảng và dịch vụ vận tải biển;
khai thác, chế biến hải sản, du lịch... Trong đó, ưu tiên xây
dựng các trung tâm dịch vụ, thành lập các tập đồn kinh tế
mạnh có đủ khả năng vươn xa, kết họp phát triển kinh tế với
làm chủ biển, đảo; tập trung nguồn vốn, khoa học, cơng
nghệ, nguồn lao động để khai thác có hiệu quả các tiềm năng
của biển; ưu tiên phát triển hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội và
quốc phòng - an ninh trên khu vực quần đảo Trường Sa và các
đảo lớn xa bơ, tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tốc độ sản
xuất của nhân dân đang sinh sống trên các đảo và quần đảo.
Quá trình thu hút nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội
biển, đảo đòi hỏi các ngành chức năng và địa phương cần
phối họp nghiên cứu, khảo sát tổng thể, xác định rõ tiềm
năng, thế mạnh của từng vùng, từng khu vực, đánh giá đúng,
đủ các yếu tố tự nhiên cũng như xu thế phát triển. Việc quy
hoạch phải tính đến sự kế thừa, phát triển, tính liên kết giữa
các vùng và các khu vực; phải gắn bờ, biển, đảo và quần đảo
trong một không gian sinh tồn về kinh tế và quốc phịng. Vì
vậy, nếu khơng khảo sát đầy đủ, đánh giá một cách khoa học
thì kết quả sẽ thấp, thậm chí khơng mang lại hiệu quả mà
cịn phá vỡ tính cân bằng trong q trình phát triển kinh tế
biển.
Phát triển kinh tế biển phải gắn với giải quyết tốt các
vấn đề xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, coi đó như một vấn đề then chốt trong xây dựng
thế trận ỉòng dân trên biển. Lịch sử đã chứng minh, ở bất cứ
thời đại, chế độ nào, nguyện vọng sâu xa của nhân dân vẫn là
đời sống vật chất và tinh thần được đảm bảo, “khoan thư sức
dân” - cách thức tốt nhất để quy tụ lòng dân, làm cơ sở nền
tảng để xây dựng thể trận lịng dân. Vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta thời gian qua rất chú trọng xãy dựng cơ sở hạ tầng,
nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho nhân dân
các vùng ven biển và hải đảo, nhất là ở các vùng biển, đảo
giữ vai trò quan trọng về quốc phòng, an ninh của đất nước.
3.3.Kết hợp chặt chẽ giữa thác đẩy nhanh q trình dân
sự hóa trên biển với xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh
trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền quốc
gia trên biển
Dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở để chúng ta
khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên trên biển, vừa là
tiền đề để xây dựng, củng cố và phát huy lực lượng tại chỗ
phục vụ chiến lược quốc phòng - an ninh trên biển. Đảng ta
đã khẳng định trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020:
“Thực hiện q trình dân sự hóa trên biển, đảo gắn với tổ
chức dân cư, tổ chức sản xuất và khai thác biển. Có chính
sách đặc biệt để khuyến khích mạnh mẽ nhân dân ra định cư
ổn định và làm ăn dài ngày trên biển; thí điểm xây dựng các
khu quốc phòng - kinh tế tại các đảo, quần đảo Trường Sa,
vùng biển, đảo của Tổ quốc”(3). Đây là một chủ trương chiến
lược có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của đất nước. Chủ trương này đã và
đang được hiện thực hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tể
biển đi đơi với bảo đảm quốc phịng, an ninh, bảo vệ vững
chắc chủ quyền của Việt Nam trên biển. Quán triệt đường lối,
chủ trương của Đảng và Nhà nước, công tác dân sự hóa trên
các vùng biển, đảo, nhất là ở những vùng biển, đảo chiến
lược đã được đẩy mạnh, ảnh hưởng tốt đến sự phát triển kinh
tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để củng cố và xây dựng thế
trận lòng dân trên biển. Ở một số đảo có vị trí đặc biệt quan
trọng về an ninh, quốc phịng như: Quần đảo Hồng Sa,
Trường Sa...q trình dân sự hố bước đầu được thực hiện có
hiệu quả, tạo được dư luận tốt đối với quần chúng nhân dân
trong và ngoài nước. Cơ sở hạ tầng trên nhiều đảo ở Trường
Sa được xây dựng ngày càng khang trang. Đời sống của nhân
dân từng bước đi vào ổn định. Nhân dân Trường Sa hồn tồn
tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng.
Cùng với q trình dân sự hóa ở các vùng biển, đảo, việc
bảo vệ chủ quyền biển đảo và duy trì lợi ích quốc gia trên
biển giai đoạn hỉện nay cần kết hợp chặt chẽ hơn nữa giữa
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an
ninh. Việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các khu vực
ven biển, trên biển và các đảo phải tuân thủ các yêu cầu đặt
ra trong kế hoạch tổng thể của khu vực phòng thủ địa
phương, phải mang tính hệ thống, bảo đảm sự liên kết chặt
chẽ giữa biển, đảo với đất liền; kết hợp chặt chẽ giữa thế trận
“tĩnh” của đảo và bơ với thế “động” của lực lượng tác chiến
cơ động trên biển tạo nên thế trận liên hoàn, vững chắc.
Trang bị kỹ thuật phục vụ cho mục đích kinh tế - xã hội
phải phù hợp với hệ thống trang bị kỹ thuật quốc phòng - an
ninh trong hệ thống các cụm lực lượng trên biển, thực hiện
kiểm soát, giám sát, báo động, chi viện, hỗ trợ nhau trong
đấu tranh phòng chống các hoạt động xâm phạm chủ quyền,
lợi ích quốc gia. Các cơ sở hậu cần, kỹ thuật kinh tế - xã hội
ven bờ, trên biển và trên các đảo phải sẵn sàng huy động cho
nhiệm vụ quốc phòng, ưu tiên xây dựng các đảo tiền tiêu xa
bờ có cơng sự kiên cố, trang bị hoả lực mạnh, có khả năng tác
chiến dài ngày. Quá trình thiết kế, xây dựng hạ tầng cơ sở
trên biển, đảo phải mang tính lưỡng dụng cao, khơng chỉ bền
vững trước tác động của môi trường biển mà cịn phải bền
vững khi chuyển sang phục vụ mục đích quốc phịng - an
ninh.
Bên cạnh đó, cần xây dựng một lực lượng kiểm ngư đủ
mạnh để bảo vệ việc khai thác, đánh bắt hải sản của ngư dân
trên biến, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn trên
biển; đồng thời kiểm tra, gỉám sát, phát hiện, ngăn chặn các
hành động khai thác hải sản trái phép của nước ngoài trên
vùng biển của Việt Nam. Các địa phương ven biển, huyện đảo
phải có lực lượng dân quân tự vệ vừa tham gia sản xuất, khai
thác hải sản, vừa làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trên
biển, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành động
xâm phạm lại ích, chủ quyền quốc gia.
3.4. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị ở các huyện đảo đáp ứng yêu
cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
Hệ thống chính trị ở các huyện đảo, nhất là những huyện
đảo xa bờ - vừa là “cầu nối” đưa chủ trương, chính sách của
Đảng đến với quần chúng, vừa là chủ thể trực tiếp tổ chức
lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các chủ trương của Đảng trên
các địa bàn biển, đảo. Vì vậy, xãy dựng hệ thống chính trị ở
các huyện đảo vững mạnh là một giải pháp quan trọng để
củng cố thế trận quốc phịng tồn dân trên biển đáp ứng yêu
cầu bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc hiện nay. Quy trình
thực hiện là phải hồn thiện hệ thống chính trị với các thiết
ché đầy đủ, cơ cấu hợp lý và cơ chế hoạt động hiệu quả, phù
hợp với điều kiện hoạt động đặc thù trên các địa bàn biển,
đảo. Trong đó phát huy vai trị và chức năng hoạt động của
các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là tổ chức đảng;
thực hỉện tốt các chính sách xã hội đối với các huyện đảo xa
bờ và các địa bàn trọng điểm, chiến lược; coi trọng giải quyết
tốt mối quan hệ và sự phối hơp hoạt động giữa các tổ chức
trong hệ thống chính trị ở mỗi huyện đảo và giữa các huyện
đảo với nhau, tạo ra thế trận liên hồn trên biển để có thể
nhanh chóng tập hợp và sử dụng hiệu quả sức mạnh của các
lực lượng tại chỗ phục vụ cho quốc phòng - an ninh trên biển.
* Đối với các đơn vị, các ngành, các địa phương
Xây dựng quy chế phối hợp các lực lương: Cơng an, Qn
sự, Biên phịng, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, địa
phương ba huyện ven biển trong phối hợp giữa phát triển kinh
tế, xã hội gắn với bảo vệ chủ quyền vùng biển và giữ gìn an
ninh trật tự trên khu vực biên giới biển.
Phát động phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an
ninh Tổ quốc; xâu dựng các tổ tự quản về an ninh trật tự, tổ
tàu thuyền an toàn gắn với tổ tàu thuyền liên kết trên biển,
nhất là các tàu hoạt động ở vùng biển xa bờ nhằm tăng khả
năng hỗ trợ, bảo vệ, giúp đỡ nhau trong sản xuất, trong đối
phó với các tình huống thiên tai, tai nạn và tham gia bảo vệ
chủ quyền vùng biển.
Tổ chức mạng thông tin liên lạc giữa các lực lượng và
ngư dân để nắm chắc mọi diễn biến tình hình lao động, sản
xuất, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên khu vực
đầm bãi và các vùng biển.
Hướng dẫn sắp xếp lại cơ cấu sản xuất theo quy hoạch,
đảm bảo hợp lý, ổn định và phát triển bền vững
Các địa phương thống nhất với bộ đội Biên phịng tỉnh duy trì
hoạt đơng của các tổ tự quản về an ninh trật tự; tích cực hỗ
trợ cho ngư dân vay vốn phát triển các đội tàu đánh bắt xã bờ
theo Nghị định 67/NĐ-CP của Chính phủ để từng bước giảm
dần số lượng phương tiện nhỏ khai thác ven bờ kém hiệu quả.
Hỗ trợ và yên cầu ngư dân trang bị máy thông tin hai
chiều đảm bảo liên lạc giữa các phương tiện trên biển với
nhau và với đất liền.
Tăng cường phối hợp kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, kiên
quyết không cho người và phương tiện ra biển nếu khơng
trang bị đầy đủ thiết bị an tồn.
Các ngành, địa phương có chủ trương, chính sách hỗ trợ
cho các chủ phương tiện, thuyền viên khi gặp nạn, nhất là đối
tượng gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng, hộ
nghèo và lực lượng dân quân biển.
Đầu tư xây dựng, nâng cấp các cảng cá, khu dịch vụ hậu
cần nghề cá và khu neo đậu tránh bão cho tàu thuyền theo
quy hoạch.
Xây dựng lực lượng bộ đội Biên phịng vững mạnh tồn
diện, đáp ứng với u cầu, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ
quyền, an ninh vùng biển trong tình hình mới.
Xây dựng lực lượng bộ đội Biên phịng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, là lực lượng nòng cốt và chuyên
trách trong quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng biển, giưc gìn an
ninh trật tự trên khu vực biên giới biển. Tăng cường giáo dục,
huấn luyện nghiệp vụ pháp luật cho các lực lượng tham gia
bảo vệ an ninh, trật tự để nâng cao chất lượng tổng hợp và
sức mạnh chiến đấu
KẾT LUẬN
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng
của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay và mai sau. Bảo
vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu và là trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quãn ta. Để hoàn thành
nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, hơn lúc nào hết phải phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính