Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ chất lượng công tác tuyên truyền cổ động ở học viện hậu cần hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.33 KB, 106 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ 11
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỔ
ĐỘNG Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN
1.1. Những vấn đề cơ bản về chất lượng công tác tuyên truyền 11
cổ động ở Học viện Hậu cần
1.2. Thực trạng và kinh nghiệm nâng cao chất lượng công tác

2

tuyên truyền cổ động ở Học viện Hậu cần
Chương 2. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT

9
5

LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỔ ĐỘNG

1

Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN HIỆN NAY
2.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng

5

công tác tuyên truyền cổ động ở Học viện Hậu cần hiện nay
2.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền



1
5

cổ động ở Học viện Hậu cần hiện nay
KẾT LUẬN

7
8

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

5
8

PHỤ LỤC

7
9
2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Công tác TTCĐ là một bộ phận quan trọng trong hệ thống công tác tư
tưởng của Đảng, góp phần nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị, hình thành niềm
tin, định hướng giá trị, xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, từ đó
thúc đẩy và phát huy tính tích cực của con người. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng hơn 80 năm qua, Đảng ta luôn coi trọng công tác tư tưởng, nhất là cơng tác

TTCĐ - coi đó “Là vũ khí sắc bén, là bộ phận xung kích trong cuộc đấu tranh
cách mạng”. Hiện nay, công tác TTCĐ vẫn luôn là công cụ sắc bén trong công tác
tư tưởng của Đảng, góp phần nâng cao ý thức giác ngộ chính trị cho quần chúng,
tạo ra sự đồng thuận cao đối với những quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, động viên sức mạnh của toàn dân tộc
thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra.
Trong sự nghiệp xây dựng qn đội, cơng tác TTCĐ đã góp phần tun
truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan
điểm của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ của quân đội, xây dựng cho
mỗi quân nhân thế giới quan, niềm tin cộng sản, nâng cao tính tích cực, động viên
cán bộ, chiến sĩ phấn đấu hồn thành tốt nhiệm vụ, chức trách được giao.
Cơng tác TTCĐ ở HVHC là một hình thức của cơng tác tư tưởng, nằm
trong tổng thể hoạt động CTĐ, CTCT của Học viện có vị trí, vai trị quan
trọng trong việc nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức
cách mạng, động viên và cổ vũ cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP,
HSQ - BS trong đơn vị hồn thành tốt nhiệm vụ chính trị của Học viện một
cách tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám
đốc, Phịng Chính trị, cơng tác TTCĐ ở HVHC đã bám sát nhiệm vụ giáo dục,
đào tạo và nghiên cứu khoa học hậu cần quân sự, có nhiều nội dung, hình
thức, biện pháp hoạt động thiết thực, động viên cổ vũ phong trào thi đua
dạy tốt, học tốt, công tác tốt, đi sâu vào các mặt hoạt động cụ thể của từng
cấp, từng đơn vị, với từng đối tượng; xây dựng, củng cố, kiện toàn về tổ
3


chức, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và nghiên cứu
khoa học hậu cần quân sự cũng như xây dựng Học viện vững mạnh toàn diện.
Tuy nhiên, cơng tác TTCĐ ở HVHC cịn bộc lộ khơng ít những bất cập,
hạn chế cả về nhận thức, trách nhiệm của chủ thể, lực lượng tham gia, nội dung,

hình thức, biện pháp tiến hành, cũng như cơ sở vật chất, kinh phí bảo đảm...có
một bộ phận cán bộ, đảng viên, học viên ngại làm cơng tác TTCĐ, có lúc, có
nơi, có đơn vị cịn có biểu hiện “khốn trắng” cơng tác TTCĐ cho đội ngũ cán
bộ chính trị gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác TTCĐ cũng như
trong thực hiện nhiệm vụ ở Học viện.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế”, Chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong quân đội giai đoạn 2011 - 2020,
xây dựng HVHC cách mạng, chính quy, khoa học, hoàn thành thắng lợi mọi
nhiệm vụ, trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học hậu cần,
tài chính qn sự có uy tín của qn đội ngoài việc đổi mới, nâng cao chất
lượng dạy và học, phải coi trọng chất lượng công tác TTCĐ ở HVHC.
Do đó, “Chất lượng cơng tác tun truyền cổ động ở Học viện Hậu
cần hiện nay” là vấn đề mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Bàn về TTCĐ đã có một số cơng trình nghiên cứu như luận văn, luận án,
báo cáo tổng kết, bài hội thảo, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
quân đội, các nhà nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí đề cập, khai thác, tiếp cận
dưới những góc độ khác nhau, những năm gần đây tiêu biểu có các cơng trình sau:
* Nhóm các cơng trình khoa học nghiên cứu về công tác TTCĐ ở các
đơn vị trong quân đội hiện nay
Nghiên cứu về phương pháp công tác TTCĐ ở đơn vị cơ sở, có đề tài:
“Đổi mới công tác tuyên truyền miệng ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt
Nam giai đoạn hiện nay”, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị năm 2008 của Vũ Minh Thực. Luận
4


án đã phân tích khá sâu sắc quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về cơng tác tuyên truyền

miệng, chỉ ra đặc điểm, vai trò và sự cần thiết phải đổi mới công tác tuyên
truyền miệng ở đơn vị cơ sở. Theo tác giả, đổi mới công tác tuyên truyền
miệng ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay là quá
trình đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, hồn thiện nội dung, cải
tiến, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp tổ chức hoạt động và phát huy
sức mạnh tổng hợp của các lực lượng và phương tiện tiến hành công tác tuyên
truyền miệng, trên cơ sở nắm vững tình hình nhiệm vụ mới, kịp thời phát
hiện, giải quyết mâu thuẫn và khắc phục những bất hợp lý, yếu kém, trì trệ
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng, đáp ứng
ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện mới.
Khai thác về cơng tác tun truyền có đề tài: “Cơng tác tun truyền
điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua Quyết thắng ở Trường sĩ quan
Lục quân 2 hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính
trị năm 2011 của Trần Ngọc Liên. Tác giả đã đưa ra khái niệm, chỉ rõ thực
trạng, nguyên nhân, một số bài học kinh nghiệm tiến hành công tác tuyên
truyền điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua Quyết thắng ở Trường sĩ
quan Lục quân 2. Xác định yêu cầu và đề xuất một số giải pháp cơ bản đẩy
mạnh cơng tác tun truyền điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua Quyết
thắng ở Trường sĩ quan Lục quân 2.
Bàn về tăng cường công tác tuyên truyền biển, đảo có đề tài: “Tăng
cường cơng tác tun truyền biển, đảo của Quân chủng Hải quân hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị năm 2012 của
Nguyễn Túy. Tác giả đưa ra quan niệm: Tăng cường công tác tuyên truyền
biển, đảo của Quân chủng Hải quân là tổng hợp các chủ trương, biện pháp,
cách thức, do các chủ thể, lực lượng tiến hành, tác động toàn diện vào các
mặt, các khâu của công tác tuyên truyền biển, đảo của Quân chủng Hải quân
làm cho công tác này được tiến hành sâu rộng hơn, hiệu quả cao hơn, góp
phần thiết thực nâng cao nhận thức, trách nhiệm của nhân dân, cán bộ, chiến
5



sĩ lực lượng vũ trang và bộ đội Hải quân trong bảo vệ vững chắc chủ quyền
biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Trên cơ sở đó tác giả đó tác giả vạch ra
các nguyên tắc của hoạt động tuyên truyền biển, đảo ở Quân chủng Hải quân,
tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng, rút ra một số kinh nghiệm trong
tuyên truyền biển, đảo và chỉ ra các giải pháp nhằm tăng cường công tác
tuyên truyền biển, đảo của Quân chủng Hải quân hiện nay.
Nghiên cứu công tác TTCĐ trong môi trường hoạt động kỹ thuật quân sự
mang tính đặc thù ở đơn vị cơ sở có đề tài: “Đổi mới công tác tuyên truyền cổ
động trong các trung, lữ đồn cơng binh Qn đội nhân dân Việt Nam hiện
nay”, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam,
Học viện Chính trị năm 2013 của Hồ Duy Vĩnh. Tác giả đã xây dựng quan
niệm đổi mới cơng tác TTCĐ ở các trung, lữ đồn Công binh Quân đội Nhân
dân Việt Nam. Nghiên cứu rút ra một số kinh nghiệm đổi mới công tác TTCĐ
ở các trung, lữ đồn Cơng binh Qn đội Nhân dân Việt Nam. Đề xuất 5 giải
pháp cơ bản đổi mới cơng tác TTCĐ ở các trung, lữ đồn Cơng binh Quân đội
Nhân dân Việt Nam hiện nay: Đổi mới tư duy nâng cao nhận thức của các tổ
chức, các lực lượng tiến hành công tác TTCĐ ở các trung, lữ đồn Cơng binh
Qn đội nhân dân Việt Nam; Đổi mới nội dung TTCĐ ở các trung, lữ đồn
Cơng binh. Đa dạng hóa, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương
pháp tuyên truyền cổ động, tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới phương tiện kỹ
thuật phục vụ công tác tuyên truyền cổ động; Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo,
bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên ở các
trung, lữ đoàn Công binh hiện nay; Phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ
chức, các lực lượng đổi mới công tác tun truyền cổ động ở các trung, lữ
đồn Cơng binh Quân đội nhân dân Việt Nam.
Nghiên cứu về kỹ năng TTCĐ có đề tài: “Bồi dưỡng kỹ năng tuyên
truyền cổ động cho học viên đào tạo chính trị viên ở Trường sĩ quan Chính trị
hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền
Nhà nước, Học viện Chính trị năm 2014 của Vũ Mạnh Cường. Luận văn đã

làm rõ những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng kỹ năng công tác TTCĐ cho
6


học viên đào tạo chính trị viên ở Trường sĩ quan Chính trị ; phân tích, đánh
giá đúng thực trạng, nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm bồi
dưỡng kỹ năng công tác TTCĐ cho học viên đào tạo chính trị viên ở
Trường sĩ quan Chính trị; xác định chính xác những nhân tố tác động; đề
ra yêu cầu và những giải pháp bồi dưỡng kỹ năng TTCĐ cho học viên đào
tạo chính trị viên ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay.
Sách chuyên khảo, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2014 bàn về: Nâng
cao chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động ở đơn vị cơ sở trong quân đội
hiện nay, do Đại tá, Tiến sĩ Vũ Minh Thực biên soạn, đã đưa ra: khái niệm về
chất lượng, nâng cao chất lượng TTCĐ ở đơn vị cơ sở trong quân đội. Tác giả
cũng chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm công tác
TTCĐ ở các đơn vị cơ sở trong quân đội. Đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng
cao chất lượng công tác TTCĐ ở đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay.
Giáo trình CTĐ, CTCT, tập 2, dùng cho đào tạo cán bộ cấp phân đội, Nxb
Quân đội nhân dân, H. 2008. Ở chương 23 bàn về: Công tác tuyên truyền cổ
động ở đại đội, từ trang 106 - 130 do Đại tá, Tiến sĩ Nguyễn Văn Dưỡng biên
soạn, đã đề cập: Vị trí, vai trị, nhiệm vụ cơng tác TTCĐ ở đại đội, những hình
thức hoạt động chủ yếu của công tác TTCĐ ở đại đội và hoạt động của chính trị
viên trong tổ chức TTCĐ ở đại đội. Theo giáo trình, cơng tác TTCĐ được hiểu là
mũi nhọn xung kích, một cơng cụ sắc bén trên mặt trận tư tưởng của Đảng để
giáo dục cán bộ chiến sỹ, vận động quần chúng nhân dân nâng cao sự hiểu biết,
bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, đấu tranh có hiệu quả với
những quan điểm thù địch, tư tưởng lạc hậu, tiêu cực, bảo vệ và phát triển lý
luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Các cơng trình khoa học trên đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về công tác TTCĐ trong quân đội, bước đầu đề cập đến công tác

TTCĐ trên một số lĩnh vực và loại hình đơn vị cụ thể. Qua đó, đã cung cấp
nhiều luận cứ khoa học giúp cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp tiến hành tốt công
tác TTCĐ; đồng thời, không ngừng đổi mới nhận thức, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác này ở các đơn vị trong quân đội hiện nay.
7


* Nhóm các cơng trình bài báo khoa học
Tạp chí Tuyên giáo số 9 - 2011 có bài của tác giả Nguyễn Thanh
Hồng: Cần Thơ nâng cao hiệu quả cơng tác tuyên truyền cổ động. Trong bài
viết này, tác giả cho rằng TTCĐ là một trong những hoạt động quan trọng của
công tác tư tưởng, thông qua hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, truyên
truyền viên. Từ thực trạng công tác TTCĐ ở thành phố Cần Thơ, tác giả đã
đưa ra một số giải pháp để công tác TTCĐ đạt hiệu quả cao. Ở đây, tác giả đã
đề cập toàn diện đến các yếu tố cơ bản cấu thành công tác TTCĐ, nhưng trong
khuôn khổ của một bài báo, tác giả chưa đề cập cụ thể làm gì và làm như thế nào
để đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các yếu tố đó.
Bàn về hiệu quả cơng tác TTCĐ, tác giả Nguyễn Văn Chương có bài:
Hiệu quả công tác tuyên truyền miệng ở Điện Biên. Tạp chí Tuyên giáo số 4 2011. Theo tác giả, việc sử dụng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên là
một trong những phương thức quan trọng có hiệu quả bậc nhất để đưa đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của tỉnh đến
với tồn xã hội. Ở đây có thể thấy tác giả đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò
của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên mà chưa đề cập đến các lực lượng
khác của công tác TTCĐ.
Bàn về kinh nghiệm cơng tác TTCĐ, tác giả Nguyễn Thị Kiều có bài:
Một số kinh nghiệm trong công tác tuyên truyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hịa,
Tạp chí Tun giáo số 4 - 2011. Tác giả đã đưa ra một số bài học kinh nghiệm
trong công tác tuyên truyền biển, đảo ở Khánh Hịa. Ở đây có thể thấy, tác giả
đã có quan niệm đúng về nguyên tắc lãnh đạo, quản lý và tổ chức lực lượng
tiến hành công tác TTCĐ. Cũng với chủ đề này, tác giả Thu Hiền trong bài:

Công tác tun giáo ở Đảng bộ Tập đồn dầu khí Việt Nam, Tạp chí Tuyên
giáo số 1 - 2012. Theo tác giả để tiến hành cơng tác TTCĐ có kết quả phải
tính đến đặc thù về tổ chức và hoạt động của mỗi đơn vị. Để công tác tuyên
truyền ở Đảng bộ Tập đồn Dầu khí Việt Nam đạt được những thành tựu mới,
tác giả cho rằng cần phải lấy đồng tâm, hiệp lực làm tiền đề, lấy đổi mới mọi mặt
và xây dựng lực lượng chuyên nghiệp, đầu tư kỹ thuật mạnh làm phương tiện.
8


Bàn về giải pháp nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, tác giả
Phan Xuân Trường có bài: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền ở Gia Lai, Tạp chí Tuyên giáo số 1 - 2012. Tác giả đã đưa ra các
giải pháp để đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở tỉnh Gia Lai. Trong bài viết
này, tác giả chỉ đề cập đến giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền mà
chưa đề cập đến các giải pháp về công tác cổ động, như là những yếu tố, điều
kiện để nâng cao chất lượng TTCĐ.
Tạp chí Tuyên giáo số 1 - 2016 có bài của tác giả Hoàng Minh: Tuyên
giáo Bắc Giang tăng cường hướng về cơ sở. Trong bài viết này, tác giả đưa ra
nhận xét về thực trạng công tác tuyên giáo ở Bắc Giang thời gian qua, từ đó
đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tuyên giáo trong thời gian tới.
Nhưng trong khuôn khổ của một bài báo, tác giả chưa đề cập cụ thể làm như thế
nào để thực hiện các nhiệm vụ tuyên giáo đã nêu.
Từ nhiều góc độ tiếp cận, các cơng trình trên đã đề cập với những mức độ
khác nhau của công tác TTCĐ. Song chưa có cơng trình nào đề cập phân tích một
cách tồn diện, đầy đủ và có hệ thống vấn đề: “Chất lượng công tác tuyên truyền
cổ động ở Học viện Hậu cần hiện nay”. Vì vậy tác giả chọn đề tài này để nghiên
cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn chất lượng công tác

TTCĐ ở HVHC; đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng công tác TTCĐ ở
HVHC hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải những vấn đề lý luận về chất lượng công tác TTCĐ ở HVHC hiện nay.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao chất lượng công tác TTCĐ ở HVHC.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công
tác TTCĐ ở HVHC hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
9


Chất lượng công tác TTCĐ ở HVHC.
* Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động công tác TTCĐ và chất lượng công tác TTCĐ ở HVHC hiện
nay. Các tài liệu, số liệu sử dụng cho nghiên cứu của luận văn được giới hạn
từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của đề tài
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác tư tưởng, công tác
TTCĐ trong quân đội.
* Cơ sở thực tiễn của đề tài
Là tồn bộ thực tiễn hoạt động cơng tác TTCĐ ở HVHC những năm qua.
Các báo cáo tổng kết CTĐ, CTCT; báo cáo tổng kết năm học của Học viện; các tài
liệu, số liệu tác giả thu thập trong quá trình điều tra, khảo sát thực tế ở HVHC.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành và liên ngành,

trong đó chú trọng phương pháp kết hợp logic và lịch sử, phân tích và tổng
hợp, điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh và phương pháp
xin ý kiến chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa
học giúp cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp ở HVHC nghiên cứu vận dụng vào quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành các hoạt động nâng cao chất lượng công tác
TTCĐ ở HVHC hiện nay.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, học tập bộ môn CTĐ, CTCT trong các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỔ ĐỘNG Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN

1.1. Những vấn đề cơ bản về chất lượng công tác tuyên truyền cổ động ở
Học viện Hậu cần
1.1.1. Học viện Hậu cần và công tác tuyên truyền cổ
động ở Học viện Hậu cần
* Học viện Hậu cần
Học viện Hậu cần đứng chân trên hai địa bàn của Thủ đô Hà Nội (quận
Long Biên và thị xã Sơn Tây), được thành lập trên cơ sở sáp nhập HVHC và
Trường sĩ quan Hậu cần - Tổng cục Hậu cần (theo Quyết định số 257/QĐ QP ngày 16 - 3 - 1996 của Bộ Quốc phòng). Là trung tâm đào tạo sĩ quan hậu
cần cả cấp phân đội và cấp chiến thuật, chiến dịch, có trình độ đại học, sau đại
học và đào tạo nhân viên kỹ thuật hậu cần cho tồn qn. Tổ chức biên chế

của HVHC theo mơ hình của một Học viện quân sự trong hệ thống đào tạo
đại học của Quốc gia. Bộ máy tổ chức của Học viện được củng cố kiện toàn
đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý và chất lượng ngày càng cao đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Tổ chức đảng ở HVHC được tổ chức theo quy định của Điều lệ Đảng,
chỉ thị của QUTƯ và Hướng dẫn của Tổng cục Chính trị. Đảng ủy Học viện
là tổ chức đảng trên cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng được thành lập ở các phòng
(ban), các khoa chuyên ngành, các Hệ và các tiểu đoàn quản lý học viên. Tổ
chức đảng của HVHC được tổ chức theo hệ thống dọc từ Đảng ủy Học viện
đến chi bộ, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nhiệm vụ chính trị trung tâm của Học viện là giáo dục - đào tạo và
nghiên cứu khoa học Hậu cần quân sự bao gồm: đào tạo sĩ quan hậu cần cấp
phân đội bậc đại học; sĩ quan hậu cần cấp trung, sư đồn có trình độ đại học;
đào tạo bồi dưỡng cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu; đào tạo cao học (Hậu
cần - Tài chính) và nghiên cứu sinh khoa học Hậu cần quân sự, đào tạo cán bộ
11


hậu cần cho Quân đội nhân dân Lào và Quân đội Hoàng gia Cămpuchia; đào
tạo sĩ quan dự bị (khi được Bộ Quốc phòng giao) và đào tạo trung cấp hậu cần
toàn quân; đào tạo hoàn thiện cao đẳng Hậu cần quân sự; đào tạo sĩ quan hậu
cần phân đội 3 năm theo chức vụ cho Quân đội Lào và Quân đội Hoàng gia
Cămpuchia; đào tạo trung cấp nấu ăn ngắn hạn cho các Quân khu, Quân đoàn,
Quân binh chủng và trung cấp chuyên nghiệp dài hạn chuyên ngành Quân nhu,
Xăng dầu cho Bộ Công an theo nhiệm vụ Bộ Quốc phịng giao; đào tạo cho sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gồm các chương trình: đào tạo cao học,
đại học dân sự với 02 chuyên ngành (tài chính ngân hàng - kế toán); đào tạo kỹ
sư xây dựng chuyên ngành xây dựng dân dụng: đào tạo chuyển cấp trung cấp
lên đại học 02 chuyên ngành Kế toán và Tài chính ngân hàng; đào tạo trung cấp
lên chuyên nghiệp dân sự chính quy với 02 chun ngành Kế tốn sản xuất,

Xây dựng dân dụng và cơng nghiệp.
Ngồi ra Học viện còn tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ rèn luyện kỷ
luật, xây dựng nếp sống chính quy; xây dựng cơ bản; quản lý và sử dụng có hiệu
quả các loại vũ khí trang bị kỹ thuật quân sự, tăng gia lao động sản xuất, tham
gia công tác vận động quần chúng và xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững
mạnh; phối hợp với địa phương giữ gìn an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an tồn
xã hội địa bàn đóng qn, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.
Từ những đặc điểm nêu trên địi hỏi cơng tác TTCĐ ở HVHC hiện nay
phải đi sâu nghiên cứu nắm vững yêu cầu nhiệm vụ, tổ chức biên chế của Học
viện, nắm chắc đối tượng, thấy được những thuận lợi, khó khăn để lựa chọn
nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành cơng tác TTCĐ, góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng ở Học viện.
* Quan niệm về công tác tuyên truyền cổ động ở HVHC
Tuyên truyền
Tiếng Latinh (Propaganda) là truyền đạt một quan điểm nào đó vào
nhận thức, thái độ của cá nhân, tập thể, tầng lớp giai cấp nào đó trong xã hội.
Theo Đại từ điển tiếng Việt “Tuyên truyền là giải thích rộng rãi để thuyết
phục vận động mọi người làm theo” [65, tr.1753]. Hồ Chí Minh khi bàn về
12


tuyên truyền viết: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân
nhớ, dân theo, dân làm” [49, tr.162].
Sách “Nguyên lý công tác tư tưởng” định nghĩa: “Tuyên truyền là một
hình thái của cơng tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối
chiến lược, sách lược của một giai cấp trong quần chúng, xây dựng cho quần
chúng thế giới quan phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, bồi dưỡng
tình cảm, củng cố niềm tin và tập hợp cổ vũ quần chúng hoạt động theo thế
giới quan và niềm tin ấy” [26, tr.38-39]. Dưới các góc độ đề cập khác nhau,
nhưng thuật ngữ tuyên truyền có điểm chung thống nhất là:

Tuyên truyền là sự truyền bá, phổ biến, giải thích của chủ thể về một tư tưởng,
học thuyết, một sự vật, hiện tượng nào đó đối với đối tượng được tuyên truyền.
Mục đích của tuyên truyền là tác động đến suy nghĩ, tư tưởng của người
khác và định hướng hành động của họ theo một khuynh hướng nhất định.
Tuyên truyền phải kích thích tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của đối tượng, làm cho đối tượng thống nhất nhận thức và hành động theo
mục đích đề ra, phù hợp với lợi ích của chủ thể tuyên truyền.
Cổ động
Tiếng Latinh (aghitaxia), có nghĩa là tiến hành, vận động, thúc đẩy. Theo gốc
từ Hán - Việt, “cổ” là cái trống, “động” là hoạt động. Người xưa thường dùng tiếng
trống để làm tín hiệu thúc dục xung trận chiến đấu hoặc chống lụt, chống bão, chữa
cháy. Theo Đại từ điển tiếng Việt “Cổ động là tuyên truyền vận động bằng nhiều
hình thức như: khuyên nhủ, dùng sách, báo, tranh, ảnh, phim, kịch...nhằm lôi cuốn
số đông người tham gia vào hoạt động xã hội chính trị nào đó” [65, tr.127].
Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam xác định: “Cổ động là truyền bá một tư
tưởng (bằng hình ảnh cổ vũ) hoặc đưa ra một hình mẫu (bằng hình ảnh hoặc tấm
gương cụ thể về người thật, việc thật...) cho nhiều người, nhằm động viên hướng dẫn,
thúc đẩy hành động theo những mục tiêu nhất định” [64, tr.571]. Như vậy cổ động là
hoạt động quảng bá, diễn thuyết, vận động bằng lời nói, phương tiện, hình ảnh trực
quan của chủ thể để chuyển tải, làm sáng tỏ những vấn đề cụ thể của đời sống hiện
thực, tạo nên những ấn tượng mạnh tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm đối
13


tượng tuyên truyền, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia tích cực vào những hoạt
động xã hội, chính trị theo mục đích chủ thể tuyên truyền xác định.
Mối quan hệ giữa tun truyền và cổ động
Tuy có tính độc lập tương đối, nhưng trong thực tế tuyên truyền và cổ
động là hai hoạt động có quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, tuyên truyền
tạo ra cơ sở nhận thức, cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, định hướng nhận

thức, tư tưởng chính trị, xu hướng tình cảm giúp cho cổ động được tiến hành
thuận lợi, đúng hướng; tuyên truyền càng sâu rộng, càng thường xuyên, liên tục
và kỹ lưỡng thì giúp cho cổ động thu được kết quả càng nhanh và đạt hiệu quả
cao. Ngược lại, cổ động là hoạt động tác động vào cảm xúc, tình cảm, là khâu
trực tiếp quyết định việc chuyển hóa kết quả của công tác tuyên truyền đã được
cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS nhận thức thành hành
động thực tiễn, trực tiếp góp phần vào tiếp tục củng cố nhận thức, niềm tin, ý chí
của cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS. Vì vậy, tuyên
truyền và cổ động là hai mặt của một hoạt động, gọi chung là công tác TTCĐ.
Với cách tiếp cận trên có thể quan niệm:
Cơng tác TTCĐ ở HVHC là một hình thức cơ bản, chủ yếu
của cơng tác tư tưởng, một nội dung của CTĐ,CTCT, đặt dưới
sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng; sự chỉ đạo, hướng
dẫn thường xuyên của chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy,
Phịng Chính trị; sự tham gia tiến hành của đội ngũ cán bộ,
đảng viên và các tổ chức quần chúng, Hội đồng quân nhân để
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội, nhiệm vụ Học viện,
những kiến thức về văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghệ thuật
quân sự, các giá trị truyền thống, đấu tranh chống các quan
điểm, tư tưởng thù địch, các hiện tượng sai trái nhằm nâng
cao nhận thức, bản lĩnh chính trị, xây dựng niềm tin cộng sản,
cổ vũ, động viên, phát huy tinh thần trách nhiệm của các tổ
14


chức, các lực lượng và mọi cán bộ, giảng viên, học viên,
QNCN, CNVQP, HSQ - BS thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được
giao.

Mục đích cơng tác TTCĐ, là giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị - tư
tưởng cho cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS, xây dựng
thế giới quan, niềm tin cộng sản chủ nghĩa, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu; cổ vũ, động viên mọi quân nhân
vươn lên hoàn thiện phẩm chất nhân cách người quân nhân cách mạng, nỗ lực
phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.
Chủ thể công tác TTCĐ, chủ thể lãnh đạo công tác TTCĐ ở HVHC là hệ thống
cấp ủy, tổ chức đảng. Chủ thể trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn tiến hành các hoạt động
TTCĐ là đội ngũ chính ủy, chính trị viên, Phịng Chính trị, cán bộ chỉ huy các cấp.
Lực lượng tham gia công tác TTCĐ, là mọi cán bộ, đảng viên, các tổ
chức quần chúng và Hội đồng quân nhân ở HVHC.
Đối tượng của công tác TTCĐ, là mọi tổ chức, mọi cán bộ, đảng viên,
giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS ở HVHC.
Nội dung công tác TTCĐ, rất rộng lớn, bao gồm: đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tình hình nhiệm vụ cách mạng,
nhiệm vụ của quân đội, của Học viện; truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền
thống cách mạng vẻ vang của Đảng, quân đội, Học viện; những kiến thức cơ bản
về văn hoá - xã hội, khoa học cơng nghệ...; tình hình mọi mặt của đời sống xã
hội; tình hình thế giới, khu vực; âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù
địch đối với cách mạng Việt Nam...
Hình thức của cơng tác TTCĐ, rất phong phú, đa dạng, gắn với các đối
tượng, trong các nhiệm vụ, các hoạt động của đơn vị. Như: thông báo chính trị;
hội nghị quân nhân; phổ biến kiến thức; tuyên truyền miệng, tuyên truyền cá biệt;
tổ chức nghe thời sự, đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, xem phim, video; các
buổi mít tinh; diễn đàn, diễu hành, rước đuốc truyền thống, nói chuyện, kể chuyện
truyền thống; bảng tin, khẩu hiệu, tranh cổ động, tranh châm biếm; triển lãm nhỏ,
15


tham quan…Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ

hiện đại, đặc biệt là công nghệ thơng tin đã làm cho chất lượng các hình thức công
tác TTCĐ được nâng lên đáng kể, làm tăng tính hấp dẫn của cơng tác TTCĐ.
Phương pháp cơng tác TTCĐ, sử dụng phương pháp tuyên truyền
miệng, phương pháp cổ động trực quan, phương pháp kết hợp hài hòa tuyên
truyền miệng với cổ động trực quan.
Phương tiện tiến hành công tác TTCĐ, bao gồm: Văn kiện của Đảng, sách
báo, ghi âm, loa đài, hội trường, vơ tuyến truyền hình, đài phát thanh, radio, văn hóa
- văn nghệ, panơ, ápphích, máy chiếu, hệ thống băng cờ, khẩu hiệu...
* Vai trò của công tác TTCĐ ở HVHC
Là hoạt động quan trọng của Đảng trong giáo dục, vận động quần
chúng, công tác TTCĐ như một mũi nhọn xung kích trên mặt trận tư tưởng
của Đảng. Với hình thức, phương pháp đa dạng, sinh động, vai trị của cơng
tác TTCĐ ở HVHC thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, cơng tác TTCĐ góp phần trực tiếp phổ biến lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nhiệm vụ của cách mạng, của
quân đội, Học viện cho cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP,
HSQ - BS.
Tuyên truyền, giải thích, quán triệt về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; những
kiến thức mới về quốc phòng, an ninh, khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam; khoa
học công nghệ quân sự trong nước và thế giới là vấn đề có tính ngun tắc của cơng
tác tư tưởng nói chung và cơng tác TTCĐ nói riêng. Thơng qua các nội dung, hình
thức, phương pháp tiến hành, cơng tác TTCĐ trực tiếp giáo dục động viên kịp thời,
linh hoạt phổ biến, giải thích nhanh chóng đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, các sự kiện hàng ngày của đời sống xã hội tới cán bộ, giảng viên, học viên,
QNCN, CNVQP, HSQ - BS để nâng cao tính tích cực, tự giác, sáng tạo trong công tác,
học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chun mơn nghiệp vụ, phẩm
chất đạo đức, bảo đảm cho sự thiết lập chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng, giữa quân
16



nhân với quân nhân. V.I. Lênin khẳng định: “Chỉ có tiến hành cơng tác tun truyền cổ
động mới có thể thiết lập mối quan hệ giữa Đảng và giai cấp công nhân” [37, tr.345].
Thứ hai, công tác TTCĐ trực tiếp góp phần thúc đẩy phong trào hành động cách
mạng, tinh thần tích cực, chủ động, tự giác trong học tập, rèn luyện của cán bộ, giảng
viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS ở HVHC.
Các cuộc vận động, phong trào thi đua có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng
góp phần xây dựng, hồn thiện nhân cách con người, thúc đẩy đơn vị hoàn thành
thắng lợi các nhiệm vụ. Thơng qua nội dung, hình thức, phương pháp TTCĐ phong
phú, thiết thực, sinh động, hấp dẫn, công tác TTCĐ giúp cho cán bộ, giảng viên,
học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS quán triệt sâu sắc mục tiêu, yêu cầu phong
trào học tập, rèn luyện; động viên mọi quân nhân, tích cực, chủ động, tự giác tham
gia phong trào thi đua, các cuộc vận động trong đơn vị và quân đội; tuyên truyền,
phổ biến, thúc đẩy bộ đội học tập, làm theo các điển hình tiên tiến; cổ vũ, động viên
bộ đội tích cực, chủ động, sáng tạo phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật; xây dựng
nên tinh thần đoàn kết, tính đồng đội, sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các bộ phận, khắc
phục tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm, tự do vô kỷ luật, bệnh cá nhân chủ nghĩa…
Thứ ba, cơng tác TTCĐ trực tiếp góp phần xây dựng mơi trường văn
hố lành mạnh, xây dựng Học viện vững mạnh tồn diện.
Bằng những nội dung, hình thức, phương pháp phong phú, đa dạng công
tác TTCĐ trực tiếp tuyên truyền, phổ biến các tiêu chuẩn xây dựng con người
Việt Nam mới XHCN; các chuẩn giá trị nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”; tiêu chuẩn
đơn vị có mơi trường văn hóa tốt, đẹp, lành mạnh, phong phú; vai trò, tầm quan
trọng của ý thức tổ chức, kỷ luật...góp phần bồi dưỡng cho cán bộ, giảng viên,
học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS văn hóa giao tiếp, ứng xử theo yêu cầu
phẩm chất, năng lực của bộ đội hậu cần; lôi cuốn mọi người hướng nỗ lực vào
xây dựng đơn vị có mơi trường văn hóa tốt. Cơng tác TTCĐ góp phần tạo nên
bầu khơng khí vui tươi, lành mạnh, sân chơi bổ ích, thiết thực với các đối tượng,
chăm lo tới điều kiện ăn ở, sinh hoạt, học tập, vui chơi, giải trí, tạo điều kiện tốt

để cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS yên tâm, phấn khởi
và có đủ sức khỏe phấn đấu hồn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Học
17


viện, góp phần xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, Học viện
vững mạnh tồn diện.
Thứ tư, cơng tác TTCĐ trực tiếp góp phần đấu tranh, phê phán, bác bỏ
các quan điểm sai trái, thù địch, những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu.
Tuyên truyền cổ động còn là phương tiện đấu tranh nhạy bén, kịp thời
chống lại hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa cơ hội, xét lại, vạch trần âm mưu thủ đoạn
“diễn biến hồ bình”, những luận điệu chiến tranh tâm lý và mọi âm mưu và thủ
đoạn phá hoại, lừa bịp của kẻ thù, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, củng cố trận địa tư
tưởng vô sản trong xã hội, trong quân đội và Học viện. Thông qua hoạt động này
hình thành quan điểm, niềm tin, hứng thú, lý tưởng, tâm trạng, thói quen, hành vi
của mỗi quân nhân, thúc đẩy cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ
- BS hành động hướng theo các hành vi đạo đức mẫu mực, góp phần phát triển,
hồn thiện nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”. Đồng thời đấu tranh với những nhận thức
tư tưởng và hành động sai trái, nói khơng đi đôi với làm, làm không đúng nghị
quyết của các cấp ủy đảng, mệnh lệnh, chỉ thị, qui định của người chỉ huy; chống
chủ nghĩa cá nhân, độc đoán, mất dân chủ, thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, quản
lý, chỉ huy đơn vị; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị
trong cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS.
* Đặc điểm của công tác TTCĐ ở HVHC
Một là, công tác TTCĐ ở HVHC thường xuyên được sự chỉ đạo, giúp
đỡ của cơ quan cấp trên, địa phương và đơn vị bạn.
Học viện Hậu cần là đơn vị trực thuộc QUTƯ, Bộ Quốc phòng. Mọi
mặt hoạt động của HVHC đều được QUTƯ, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ
đạo trực tiếp. Tổ chức biên chế của Học viện không giống quân khu, quân
chủng, quân đoàn, binh chủng, nhất là hệ thống tổ chức các cơ quan của Học

viện khơng có cấp Cục mà chỉ biên chế cấp phịng. Phịng Chính trị vừa là nơi
tiếp nhận chỉ thị kế hoạch của Tổng cục Chính trị, vừa là nơi chỉ đạo, hướng
dẫn, đồng thời là người tổ chức thực hiện các mặt hoạt động CTĐ, CTCT
trong đó có cơng tác TTCĐ ở Học viện. Học viện đóng quân ở hai nơi: Quận
18


Long Biên và thị xã Sơn Tây. Phịng Chính trị vừa thiếu về số lượng cán bộ,
nhân viên lại phân tán ở hai cơ sở. Cường độ hoạt động của Phịng Chính trị
và đội ngũ cán bộ chính trị cũng tăng lên nhiều do yêu cầu nhiệm vụ của Học
viện và do sự tăng lên về đầu mối đơn vị, đối tượng tác động của công tác
TTCĐ. Tuy nhiên, Học viện luôn được sự chỉ đạo sát sao của Bộ Quốc phịng,
Tổng cục Chính trị và sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan trực thuộc Bộ
Quốc phòng, các đơn vị quân đội và địa phương trên địa bàn đóng qn, đây
là yếu tố thuận lợi cho q trình tiến hành công tác TTCĐ ở HVHC.
Hai là, công tác TTCĐ ở HVHC được tiến hành trong môi trường sư
phạm quân sự với nhiệm vụ chính trị trung tâm ngày càng phát triển, điều
kiện hoạt động của Học viện tương đối ổn định. Chất lượng chính trị của cán
bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS tương đối cao.
Là một đơn vị quân đội, do đó mọi hoạt động của các cơ quan, đơn vị và
cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS của Học viện phải tuân
thủ và chấp hành theo điều lệnh. Hệ thống tổ chức chỉ huy, quản lý và điều hành
của Học viện là một chỉnh thể thống nhất, cơ bản ổn định trong suốt quá trình đào
tạo và nghiên cứu khoa học. Chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ và mối quan hệ giữ
các bộ phận cấu thành bộ máy tổ chức của Học viện được xác định tương đối rõ
ràng và chính xác. Bên cạnh đó HVHC phải bảo đảm đầy đủ yêu cầu của một
trung tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống các trường đại học của quốc
gia, thuộc phạm vi quản lý, chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Quan hệ giữa các
thành viên trong từng đơn vị không chỉ là quan hệ chỉ huy phục tùng mà còn là
quan hệ đồng nghiệp, hợp tác giữa các chun gia có trình độ học vấn cao.

Xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Học viện, dẫn đến chất lượng
chính trị của các đối tượng, các lực lượng tham gia giáo dục đào tạo và nghiên
cứu khoa học của Học viện càng cao hơn, hầu hết đội ngũ cán bộ, giảng viên,
học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS đều được lựa chọn kỹ càng. Quy mơ, loại
hình, đối tượng đào tạo ngày càng mở rộng, không gian đào tạo trải dài trên cả
nước. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nhiệm vụ giảng dạy, học tập, nghiên

19


cứu khoa học cịn nhiều khó khăn. Tình hình trên tác động trực tiếp đến q trình
tiến hành cơng tác TTCĐ ở HVHC những năm qua và những năm tiếp theo.
Ba là, đối tượng tác động của công tác TTCĐ ở HVHC phong phú, đa
dạng, phức tạp.
Có thể khái quát thành các nhóm đối tượng như sau: cán bộ giảng dạy và
cán bộ nghiên cứu; cán bộ quản lý, cán bộ tham mưu; học viên ở các cấp học,
ngành học, loại hình đào tạo; đối tượng phục vụ. Mỗi nhóm đối tượng có đặc
điểm riêng, nhưng đều nằm trong một chỉnh thể thống nhất và chung một mục
đích là nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học; xây dựng
Học viện cách mạng, chính quy, khoa học, trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo
và nghiên cứu khoa học hậu cần, tài chính qn sự có uy tín của qn đội.
Nhóm đối tượng thứ nhất là cán bộ giảng dạy và nghiên cứu (chiếm khoảng
27% quân số khung Học viện). Đây là lực lượng chiếm số đông, có trình độ học
vấn phổ biến là tiến sĩ và thạc sĩ. Đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học
về cơ bản có sự tích lũy về hoạt động thực tiễn, có trình độ, năng lực sư phạm,
nghiên cứu khoa học và kinh nghiệm trong công tác quản lý hội tụ đủ các phẩm
chất cần thiết của người cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học, có nhiều đóng
góp cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học của Học viện.
Nhóm đối tượng thứ hai là cán bộ quản lý, cán bộ tham mưu (chiếm
khoảng 31% quân số khung Học viện). Đội ngũ cán bộ đó vừa là đối tượng

tác động của cơng tác TTCĐ vừa là lực lượng nịng cốt tiến hành cơng tác
TTCĐ ở các cơ quan chức năng, các đơn vị học viên. Chất lượng, hiệu quả
công tác TTCĐ ở HVHC phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất, năng lực quản lý,
tham mưu, đề xuất của đội ngũ cán bộ này.
Nhóm đối tượng thứ ba là học viên (chiếm khoảng 68% tổng quân số Học
viện). Đây là lực lượng cơ bản của Học viện giữ vai trị quan trọng có tính quyết định
đến sự vận động phát triển của Học viện, do đối tượng học viên có nhiều loại, cho
nên có đặc điểm khác nhau, song có những đặc điểm giống nhau như: Tính biến
động cao; các đối tượng học viên đều có nhu cầu được học tập rèn luyện để trở thành
cán bộ hậu cần trong quân đội; được tuyển chọn kỹ, về cơ bản có phẩm chất chính trị
20


tốt, có xu hướng nghề nghiệp và động cơ học tập đúng đắn. Bên cạnh những đặc
điểm chung nhất nêu trên, mỗi đối tượng học viên có những đặc điểm riêng biệt, vì
vậy cơng tác TTCĐ cần phải nắm vững đặc điểm chung và những nét riêng biệt của
từng loại đối tượng để có nội dung, hình thức, phương pháp tác động phù hợp.
Nhóm đối tượng thứ tư là lực lượng phục vụ (chiếm khoảng 41% quân
số khung Học viện). Họ thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, với khối lượng
cơng việc rất lớn. Mỗi nhiệm vụ có u cầu riêng và liên quan trực tiếp đến
việc khai thác, quản lý, sử dụng một khối lượng cơ sở vật chất, tài chính, tài
liệu lớn, dễ nảy sinh tiêu cực; do đó việc lựa chọn, sử dụng lực lượng, bên
cạnh việc bảo đảm đúng chuyên môn và ngày càng nâng cao trình độ nghiệp
vụ cho họ, thì phải rất quan tâm đến chất lượng chính trị, xây dựng thái độ,
động cơ, niềm tin, ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Bốn là, công tác TTCĐ ở HVHC tiến hành trong điều kiện
khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, các thế lực thù địch, phản
động đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, phá hoại tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của cán bộ, học viên, giảng viên, QNCN, CNVQP,
HSQ - BS.

Ngày nay các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại phát triển mạnh
mẽ. Cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS không chỉ tiếp
nhận thông tin trong luồng theo quy chế, quy định mà cịn tiếp nhận các thơng
tin từ các phương tiện nghe nhìn hiện đại như: các đài phát thanh của nước
ngồi, mạng Internet, các sách, báo, tạp chí, văn hóa phẩm của nước ngồi.
Địi hỏi cơng tác TTCĐ ở HVHC phải tăng cường đầu tư, hiện đại hóa
phương tiện tuyên truyền để nhanh chóng đưa nội dung tuyên truyền đến quân
nhân và bảo đảm tính hấp dẫn, phong phú về hình thức. Đồng thời phải thực
hiện tốt việc quản lý các thơng tin ngồi luồng, định hướng dư luận, bảo đảm
cho bộ đội có thể “miễn dịch” trước những thơng tin xấu, độc.
Trong thời gian qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng lợi thế của mạng
Intrnet và các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại khác trong chiến tranh tâm
lý để thông tin, tuyên truyền xuyên tạc hầu như trên tất cả các mặt hoạt động của
21


xã hội ta, quân đội ta nhằm gây nghi ngờ, chia rẽ trong nội bộ, làm giảm lòng tin
của nhân dân, quân đội đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN. Điều này đang là
một thách thức lớn đối với công tác TTCĐ ở HVHC trong tuyên truyền cũng như
ngăn chặn đập tan âm mưu chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch.
1.1.2. Quan niệm, những yếu tố cấu thành và tiêu chí đánh giá chất
lượng cơng tác tuyên truyền cổ động ở Học viện Hậu cần
* Quan niệm chất lượng công tác TTCĐ ở HVHC
Để nâng cao chất lượng cơng tác TTCĐ ở HVHC địi hỏi trước hết phải
tìm hiểu và thống nhất quan niệm về chất lượng và chất lượng công tác TTCĐ
làm cơ sở để đánh giá chất lượng công tác TTCĐ ở HVHC.
Một là, theo Đại từ điển tiếng Việt: “Chất lượng là cái tạo nên phẩm
chất, giá trị của một con người, một sự vật, một sự việc” [65, tr.331]. Theo
quan niệm như trên thì chất lượng tồn tại ở con người, ở sự vật và ở các hoạt
động tạo nên bản chất sự vật. Do đó, đánh giá chất lượng phải căn cứ vào giá

trị của sự vật. Quan niệm về giá trị và thang bậc của nó hiện nay vẫn cịn có
những ý kiến khác nhau tùy theo cách nhìn nhận của mỗi người, mỗi giai cấp
và góc độ của mỗi ngành khoa học. Nhưng bình diện chung nhất thì có thể
hiểu chất lượng công tác TTCĐ là cái tạo nên kết quả, giá trị của cơng tác đó.
Cơng tác TTCĐ trong quân đội là một hiện tượng chính trị - xã hội, là
sự tác động trên lĩnh vực nhận thức tư tưởng của Đảng vào một đối tượng cụ
thể là mọi quân nhân trong quân đội. Do đó, tạo nên kết quả cơng tác TTCĐ
trong qn đội chính là các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy và của tồn
bộ cán bộ, chiến sỹ. Giá trị của cơng tác TTCĐ là khả năng tiếp thu và mức
độ chuyển biến nhận thức thành hành động của đối tượng sau khi được tác
động phù hợp với mục đích, nhiệm vụ. Và như vậy: chất lượng công tác
TTCĐ được tạo nên bởi năng lực chuyển tải nội dung của chủ thể đến với đối
tượng và mức độ tiếp nhận chuyển biến nhận thức hành động của đối tượng.
Hai là, công tác TTCĐ là hoạt động có ý thức, có mục đích nên các yếu
tố, các bộ phận hợp thành công tác này khơng phải xuất hiện, diễn ra ngẫu
nhiên mà có chủ định, có tổ chức do nhiều yếu tố hợp thành. Các yếu tố đó là:
22


chủ thể, khách thể, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, hình thức, phương pháp,
phương tiện tiến hành cơng tác TTCĐ. Do đó nói đến chất lượng cơng tác
TTCĐ là phải nói đến chất lượng tổng hợp của từng yếu tố đó. Vì vậy, nếu một
bộ phận, một yếu tố nào đó hoạt động kém chất lượng sẽ làm giảm sút đến chất
lượng tổng hợp tồn bộ hoạt động của cơng tác TTCĐ. Nên khi xem xét, đánh
giá chất lượng công tác TTCĐ ở HVHC phải xem xét, đánh giá chất lượng các
yếu tố hợp thành của nó và để nâng cao chất lượng công tác TTCĐ cũng phải
đi vào nghiên cứu, tìm giải pháp nâng cao chất lượng từng yếu tố đó.
Ba là, quan niệm về chất lượng như trên mới chỉ là phương pháp luận để nhận
biết, xây dựng nên chất lượng của các sự vật, hoạt động nói chung. Thực tế mỗi con
người, sự vật và hoạt động khác nhau thì có chất lượng khác nhau. Vì vậy, với mỗi sự

vật, hiện tượng cần có những phương pháp đánh giá chất lượng khác nhau.
Công tác TTCĐ là hoạt động khoa học xã hội. Cho nên khi đánh giá
chất lượng của hoạt động khoa học xã hội phải khác với các hoạt động khoa
học kỹ thuật. Vì trong lĩnh vực hoạt động khoa học xã hội chất lượng của nó
thường khơng thể thấy được trực tiếp mà phải qua kết quả hoạt động khác.
Kết quả có khi thể hiện ngay, có khi phải qua một thời gian dài về sau. Công
tác TTCĐ là sự tác động vào con người, chất lượng của nó khơng chỉ phụ
thuộc và chịu ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh như môi trường xã hội;
điều kiện xã hội; hình thức, nội dung, phương tiện TTCĐ mà còn chịu sự chi
phối rất lớn của các yếu tố bên trong như phẩm chất, năng lực của chủ thể và
khả năng tiếp thu của đối tượng. Do đó, khi đánh giá chất lượng cơng tác
TTCĐ ở HVHC phải đánh giá toàn diện các yếu tố tác động nói trên. Nhưng
chủ yếu nhất là xem xét ở kết quả hoạt động của đối tượng mà công tác TTCĐ
tác động. Kết quả đó khơng những phải được xem xét ở mức độ nhận thức
hiểu biết, niềm tin…mà còn phải được xem xét thông qua hành động và kết
quả hành động. Dựa vào kết quả của hành động mới là tiêu chí đánh giá chuẩn
xác nhất chất lượng cơng tác TTCĐ.
Theo quan điểm và phương pháp tiếp cận trên đây về chất lượng cơng
tác TTCĐ có thể quan niệm: Chất lượng công tác TTCĐ ở HVHC là kết tinh
23


tổng hợp giá trị các nội dung, hình thức, biện pháp, các khâu, các bước tiến
hành công tác TTCĐ, được biểu hiện ở trình độ nhận thức, tư tưởng, tình
cảm, thái độ, trách nhiệm trong công tác, hành vi ứng xử trong cuộc sống của
cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS, ở đời sống văn hóa tinh thần hàng ngày của các cơ quan, đơn vị trong Học viện.
Như vậy, chất lượng công tác TTCĐ không phải sự cộng lại một cách cơ
học chất lượng từng hình thức cụ thể của cơng tác TTCĐ mà là tổng hợp chất
lượng của tồn bộ các hình thức hoạt động của công tác TTCĐ trong một chỉnh
thể thống nhất. Do đó, có thể trong thực tế, một số hình thức của cơng tác TTCĐ

có chất lượng cao, nhưng một số hình thức khác của cơng tác TTCĐ có chất
lượng thấp nên chất lượng tổng thể của công tác TTCĐ ở HVHC sẽ khơng cao.
Vì vậy, muốn cơng tác TTCĐ ở HVHC đạt chất lượng cao địi hỏi chất lượng
tồn diện của tất cả các hình thức TTCĐ ở Học viện phải đạt cao, đồng đều.
Tuy nhiên, khi xem xét, đánh giá chất lượng cơng tác này phải có quan
điểm biện chứng, khơng phải cố định, đóng kín, biệt lập mà ln phải đặt nó
trong trạng thái động, gắn với điều kiện, hồn cảnh thực tiễn của Học viện.
Điều đó cho thấy, việc xem xét chất lượng công tác TTCĐ cần có phương
pháp, có cách nhìn biện chứng và phải dựa trên những tiêu chí cụ thể.
* Những yếu tố cấu thành chất lượng công tác TTCĐ ở HVHC
Thứ nhất, phẩm chất, năng lực và trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo,
hướng dẫn tiến hành của chủ thể công tác TTCĐ.
Phẩm chất, năng lực và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp
ở HVHC trong lãnh đạo công tác TTCĐ là những nhân tố quan trọng, quyết
định đến nâng cao chất lượng cơng tác TTCĐ. Bởi vì, cơng tác TTCĐ là một
bộ phận của công tác tư tưởng, CTĐ, CTCT của Học viện nên đặt dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp ở Học viện. Cấp ủy, tổ
chức đảng các cấp trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác TTCĐ bằng các nghị
quyết, chỉ thị, quy định và các chủ trương, biện pháp trong từng giai đoạn,
từng nhiệm vụ, yêu cầu cụ thể. Chính sự lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng
là cơ sở, nền tảng quy tụ các cấp, các ngành, mọi lực lượng trong Học viện
24


tạo thành sức mạnh tổng hợp để tiến hành và nâng cao chất lượng công tác
TTCĐ ở HVHC. Nếu chủ quan, xem nhẹ và buông lỏng sự lãnh đạo của cấp
ủy đảng sẽ dẫn tới công tác TTCĐ xa rời phương hướng chính trị đúng đắn,
mơ hồ kẻ thù giai cấp, dân tộc, thậm chí bị kẻ địch lợi dụng để thực hiện
mưu đồ đen tối, gây hậu quả khôn lường.
Chính uỷ, chính trị viên, chỉ huy các cấp và Phịng Chính trị có trách

nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn triển khai tổ chức thực hiện thắng lợi các nghị quyết,
chỉ thị của cấp uỷ đảng cấp mình và cấp trên về cơng tác TTCĐ. Do đó, phẩm
chất và năng lực của chính ủy, chính trị viên, chỉ huy các cấp và Phịng Chính
trị có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tổ chức, tiến hành công tác TTCĐ của
Học viện. Nếu chính uỷ, chính trị viên, chỉ huy các cấp và Phịng Chính trị
nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vị trí, vai trị, tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ của
công tác TTCĐ; luôn quan tâm sâu sát hướng dẫn, chỉ đạo phối hợp chặt chẽ
giữa các cấp, các ngành, các cơ quan; tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan,
đơn vị thuộc quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp
trong tổ chức tiến hành và nâng cao chất lượng công tác TTCĐ ở Học viện.
Thứ hai, đặc điểm nhiệm vụ và trình độ của cán bộ, giảng viên, học viên,
QNCN, CNVQP, HSQ - BS ở HVHC.
Học viện Hậu cần là một nhà trường nằm trong hệ thống các nhà trường
quốc gia và quân đội, có nhiệm vụ đào tạo sĩ quan, nhân viên kỹ thuật hậu cần
cho toàn quân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Đây là nhiệm vụ chính trị trung tâm của Học viện góp phần xây
dựng đội ngũ cán bộ trong quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Phục vụ nhiệm vụ chính trị của Học viện là lý do tồn tại, đồng thời là một
yếu tố quy định chất lượng công tác TTCĐ ở HVHC. Vì yêu cầu nhiệm vụ của
Học viện quy định nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện tiến hành
cơng tác TTCĐ. Do đó, cơng tác TTCĐ phải căn cứ vào đặc điểm, yêu cầu
nhiệm vụ của Học viện để xác định nội dung, hình thức, phương pháp TTCĐ.
Nếu khơng thực hiện tốt vấn đề này sẽ dẫn đến những sai lầm, khuyết điểm

25


trong xác định mục tiêu, phương hướng, đổi mới nội dung, hình thức, phương
pháp và sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng công tác TTCĐ.
Là trung tâm đào tạo hậu cần cho toàn quân nên chất lượng của cán bộ,

giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS ở Học viện là tương đối cao cả
về chất lượng chính trị, tŕnh độ văn hóa, nhận thức, thể lực. Tuy nhiên trình độ
giữa cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS là khơng đồng
đều, có sự chênh lệch khá lớn. Đồng thời, cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN,
CNVQP, HSQ - BS còn là bộ phận của chủ thể, lực lượng tham gia tiến hành
công tác TTCĐ ở Học viện. Vì vậy, nếu khơng nắm vững đặc điểm, trình độ của
cán bộ, giảng viên, học viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS thì cơng tác TTCĐ sẽ
khơng thể đạt được kết quả như mong muốn, chất lượng không cao.
Thứ ba, sự chuyển biến về nhận thức của đối tượng tác động
Mục đích của cơng tác TTCĐ ở HVHV chính là xây dựng, hoàn thiện
phẩm chất và năng lực người quân nhân cách mạng cho cán bộ, giảng viên, học
viên, QNCN, CNVQP, HSQ - BS, góp phần xây dựng Học viện vững mạnh
tồn diện. Vì vậy, cần xem cơng tác TTCĐ đã góp phần xây dựng người quân
nhân cách mạng phát triển toàn diện, xây dựng tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, quần
chúng, đơn vị vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng và tổ chức đến mức
độ nào? Điều này được khẳng định rõ nhất ở sự chuyển biến trong nhận thức
của đối tượng tác động. Do đó, trong từng thời gian, nhiệm vụ, cơng tác TTCĐ
cần có những yêu cầu cụ thể đối với xây dựng con người và tổ chức, xác định
đúng mục tiêu cần đạt được sát với yêu cầu nhiệm vụ và với khả năng của đối
tượng để khi đánh giá chất lượng công tác TTCĐ được chính xác.
Thứ tư, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác TTCĐ
Cơ sở vật chất, các phương tiện phục vụ cho công tác TTCĐ là tập hợp
những vật chất cần thiết, những trang thiết bị kỹ thuật được sử dụng trong q
trình tiến hành cơng tác TTCĐ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả truyền
thụ, lĩnh hội các nội dung TTCĐ. Nếu biết phát huy tốt, khai thác tác dụng
của cơ sở vật chất phương tiện kỹ thuật sẽ góp phần nâng cao chất lượng cơng
26



×