Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự quân đội ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.55 KB, 74 trang )

MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Gần đây, tình hình thế giới, trong nước đã và đang diễn ra những biến động hết sức
phức tạp, khó lường. Nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng và phát
triển ngành khoa học kỹ thuật quân sự nói riêng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới đang đặt những vấn đề thời sự cấp bách đối với đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật quân
đội ta.
Để góp phần xây dựng, phát triển ngành khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà ngang
tầm nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước, sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự cần phải có nhiều phẩm chất cần thiết, một
trong những phẩm chất không thể thiếu là tư duy biện chứng duy vật.
Sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự sinh ra và lớn lên trong thời bình, được đào
tạo cơ bản, có kiến thức khoa học nền tảng. Song, họ chưa trải nghiệm trong thực tiễn chiến
đấu, bảo vệ Tổ quốc, chưa rèn luyện nhiều trong thực tiễn quân sự, nên vốn sống, kinh nghiệm
tích luỹ từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ huy, quản lý chưa nhiều, cùng với những đặc điểm về tâm lý lứa
tuổi, lao động khoa học kỹ thuật quân sự đã ảnh hưởng trực tiếp đến phương pháp tư duy của họ.
Trong đội ngũ sĩ quan kỹ thuật quân sự một số sĩ quan trẻ chịu ảnh hưởng của phương pháp tư duy
siêu hình phiến diện, có biểu hiện chủ quan, nóng vội trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề của
thực tiễn hoạt động khoa học quân sự và các vấn đề chính trị - xã hội hiện nay.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang tác động mạnh mẽ đến sĩ quan
trẻ ngành khoa học kỹ thuật qn sự; trong đó, ngồi những tác động tích cực, cịn có những tác
động tiêu cực, chẳng hạn như việc đề cao thái q lao động trí óc, tuyệt đối hố vai trị khoa học,
cơng nghệ kỹ thuật, có lối sống thực dụng, ích kỷ đang trở thành cách suy nghĩ ở một số sĩ
quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự. Điều đó làm giảm ý chí chiến đấu , kìm hãm bước
tiến của họ.
Cuộc chiến tranh hiện đại gắn liền với vũ khí cơng nghệ cao đang đặt ra những yêu cầu
cấp bách đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Để phát triển nền khoa
học kỹ thuật quân sự nước nhà đủ mạnh, đáp ứng được yêu cầu của chiến tranh hiện đại, đòi


hỏi sĩ quan trẻ ngành kỹ thuật quân sự hôm nay - người chủ trì ngành khoa học kỹ thuật quân sự


ngày mai phải làm chủ kiến thức khoa học kỹ thuật quân sự, biết kế thừa và ứng dụng thành tựu
khoa học kỹ thuật quân sự hiện đại vào phát triển nền khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà, làm
như thế vừa đảm bảo yêu cầu hiện đại quân đội, vừa phù hợp với điều kiện thực tế của đất
nước.
Vì vậy, phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật
quân sự là đòi hỏi cấp bách cả về lý luận và thực tiễn, giúp cho sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ
thuật quân sự khắc phục phương pháp tư duy siêu hình, chủ quan, nóng vội, có cách nhìn nhận
biện chứng khoa học trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề của hoạt động thực tiễn khoa học kỹ
thuật quân sự cũng như vấn đề chính trị - xã hội đặt ra hiện nay, cho phép họ xác định đúng đẵn, vị
trí, vai trị của mình đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc.
Tư duy biện chứng duy vật, là “chìa khố” mở con đường để họ tiến lên phía trước, cải
tiến kỹ thuật, tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại, cải tạo, sáng tạo và chế tạo ra vũ
khí, trang bị kỹ thuật tiên tiến, góp phần xây dựng ngành khoa học kỹ thuật quân sự quân đội ta
vững mạnh, tiên tiến, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2- Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề tư duy nói chung và tư duy biện chứng duy vật nói riêng đã có nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu. Ở nước ngồi, vấn đề tư duy biện chứng đã được đề cập đến trong sách báo
và tài liệu triết học; chẳng hạn An-đrờ-rây-ép: “Tư duy hình thức phản ánh hiện thực khách
quan”, trong sách : Lơgíc biện chứng, Nxb Chính trị, M., 1985. M.M.Do-den-tan: “Ngun lý lơgíc
biện chứng”, Nxb Sự thật, Hà nội 1962. A.P.Sép-tu-lin, “Phương pháp nhận thức biện chứng” Nxb
sách giáo khoa Mác - Lênin Hà nội 1977.
Ở nước ta, đặc biệt từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, vấn đề tư duy đã
được các tác giả đề cập đến ở nhiêu góc độ khác nhau; tiêu biểu là: Hội nghị bàn tròn về “ Đổi
mới tư duy”, Tạp chí Cộng sản, số 10, tháng 12/1987 và số 8, tháng 9/1988. Lê Thi, “Thực
trạng tư duy của cán bộ, đảng viên ta và căn nguyên của nó”, Tạp chí Triết học, số 1/1988. Tơ
Duy Hợp: “Phương pháp tư duy vấn đề thừa kế và đổi mới, Tạp chí triết học, số 1/1988. Lại Văn
Tồn: “Đổi mới tư duy lý luận-tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới”, Tạp chí Triết học số 1/1988.


Vũ Văn Viên: “Vấn đề thực chất của tư duy khoa học hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số

3/1992.
Trong lĩnh vực quân sự cũng có nhiều nhà khoa học bàn về vấn đề này: Lê Xuân Lựu
“Nâng cao năng lực trí tuệ, phẩm chất tư duy quân sự của người cán bộ chính trị trong dạy học
chiến thuật”, Học viện chính trị quân sự , 1998. Đào Văn Tiến: “Nâng cao năng lực tư duy sáng
tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội quân đội nhân dân Việt Nam” , Luận án tiến sĩ quân sự
1998. Dương Văn Minh: “Phát triển tư duy năng động, sáng tạo của người học. Mâu thuẫn và
hướng giải quyết”, Tạp chí Thơng tin giáo dục lý luận chính trị qn sự, số 3/1991. Nguyễn Bá
Dương: “Đặc điểm quá trình phát triển tư duy biện chứng duy vật của đội ngũ sĩ quan phân đội quân
đội nhân dân Việt Nam trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc” Luận án tiến sĩ triết học năm
2000.…
Qua các cơng trình khoa học nêu trên, các tác giả đã tập trung làm rõ nhiều khía cạnh
khác nhau về nguồn gốc, bản chất, vai trị của tư duy nói chung và tư duy biện chứng duy vật nói
riêng ở nhiều đối tượng cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào tập trung nghiên cứu,
làm rõ: “Phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
quân đội ta hiện nay”. Đây là vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vì vậy, lựa chọn vấn
đề này làm luận văn tốt nghiệp, tác giả nhận thức sâu sắc rằng, đây là vấn đề khó và phức tạp;
Vì vậy, trong q trình nghiên cứu khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp
ý kiến, chỉ dẫn của các nhà khoa học.
3- Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Làm rõ sự phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa
học kỹ thuật quân sự quân đội ta hiện nay, đề xuất giải pháp để nâng cao trình độ tư duy biện
chứng duy vật cho họ.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ bản chất và đặc điểm phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ
ngành khoa học kỹ thuật quân sự.


- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng phát triển tư duy biện chứng duy vật, qua đó đề ra
các yêu cầu phát triển trình độ tư duy biện chứng duy vật cho họ.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành

khoa học kỹ thuật hiện nay.
4- Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cơ sở thực tiễn của luận văn dựa vào những báo cáo tổng kết, điều tra, khảo sát nhiều
vấn đề có liên quan để đánh giá sự phát triển tư duy biện chứng duy vật của đội ngũ sĩ quan trẻ
ngành khoa học kỹ thuật quân sự, thông qua số liệu điều tra ở Học viện Kỹ thuật quân sự, Trung
tâm khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự và một số binh chủng kỹ thuật.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử vận dụng vào lĩnh vực quân sự, đồng thời sử dụng hệ thống phương
pháp nghiên cứu khoa học chung như: lơgíc - lịch sử; phân tích - tổng hợp; khái quát hoá - trừu
tượng hoá…
5- Giá trị và ý nghĩa của luận văn
- Luận văn chỉ ra những đặc điểm của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự. Từ
đó, đưa ra quan niệm phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ
thuật qn sự và vai trị của nó đối với hoạt động khoa học kỹ thuật quân sự, bước đầu chỉ ra
những đặc điểm có tính qui luật của sự phát triển đó.
- Luận văn khảo sát đánh giá thực trạng phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan
trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó.
- Luận văn đề xuất các giải pháp phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ
ngành khoa học kỹ thuật quân sự.
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn được giải quyết trong luận văn có thể dùng làm tài
liệu để nghiên cứu và giảng dạy một số chuyên đề triết học trong các trường kỹ thuật quân sự. Ở
mức độ nhất định, kết quả nghiên cúu của luận văn có thể làm cơ sở lý luận để các đơn vị, binh


chủng kỹ thuật đề ra các biện pháp phát triển tư duy biện chứng duy vật cho sỹ quan trẻ ngành
kỹ thuật quân sự.
6- Kết cấu luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,

một số phụ lục.
Chương 1
THỰC CHẤT PHÁT TRIỂN TƯ DUY BIỆN CHỨNG DUY VẬT CỦA SĨ QUAN TRẺ NGÀNH
KHOA HỌC KỸ THUẬT QUÂN SỰ QUÂN ĐỘI TA
1.1. Bản chất và vai trò phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành
khoa học kỹ thuật quân sự.
1.1.1. Quan niệm về phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành
khoa học kỹ thuật quân sự
* Tư duy và tư duy biện chứng duy vật
Tư duy là một trong những hoạt động sống cơ bản nhất của lồi người, nhờ có tư duy mà
mọi hoạt động của con người diễn ra đúng ý định và đạt hiệu quả. Xét ở một góc độ nhất định,
khơng thể có hoạt động thực tiễn nếu khơng có tư duy. Vì lẽ đó, tư duy từ lâu đã trở thành đối
tượng nghiên cứu của nhiều mơn khoa học khác nhau như triết học, lơgíc học, tâm lý học, điều
khiển học… Triết học Mác-Lênin xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những qui
luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên xã hội và tư duy. Tư duy trong triết học
Mác-Lênin được xem xét là “Sản phẩm cao nhất của cáí vật chất được tổ chức một cách đặc biệt
là bộ não, q trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái niệm, phán đoán, lý
luận Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất xã hội của con người và bảo đảm phản
ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp qui luật của thực tại [46,634].
Tư duy, theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, trước hết là sản phẩm của bộ óc người,
phản

ánh

thực tiễn.

thế

giới


khách

quan

trên



sở

của

hoạt

động


Ph. Ăngghen khẳng định: “Nếu người ta đặt câu hỏi tư duy, ý thức là gì, chúng từ đâu đến
thì người ta sẽ thấy chúng là sản phẩm của bộ óc con người” [23,55]. C.Mác cũng chỉ ra rằng : “ý
thức chẳng qua chỉ là cái vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và cải biến đi ở
trong đó” [24,35].
Khẳng định tư duy là sản phẩm của bộ óc người, triết học Mác-Lênin đồng thời chỉ ra
rằng, tư duy không thể tách rời hoạt động thực tiễn của con người, giữa tư duy và hoạt động
thực tiễn có mối quan hệ biện chứng. Muốn có tư duy phải có hoạt động thực tiễn, ngược lại
muốn hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả phải trên cơ sở tư duy. Khi chỉ ra sự phụ thuộc của tư duy
vào hoạt động thực tiễn Ph. Ăngghen viết: “chính việc người ta biến đổi giới tự nhiên, chứ không
phải chỉ một mình giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người và
trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta học cải biến tự nhiên” [23,720].
Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái quát hoá, trừu tượng

hoá thế giới hiện thực. Tư duy là sự phản ánh, nhưng đây khơng phải là sự phản ánh nói chung,
mà là sự phản ánh năng động, tích cực, sáng tạo của chủ thể ở giai đoạn nhận thức lý tính. Nếu
ở giai đoạn nhận thức cảm tính, nhận thức của con người mới chỉ dừng lại ở sự kiện, hiện
tượng riêng lẻ, rời rạc, ngẫu nhiên, bề ngồi thì ở giai đoạn nhận thức lý tính, bằng tư duy trừu
tượng, con người phản ánh sự vật một cách khái quát hoá, trừu tượng hố, thơng qua hệ thống
các khái niệm, phán đốn, suy luận. Nhờ khả năng khái quát hoá, trừu tượng hoá mà tư duy con
người phản ánh được mối liên hệ chung, bản chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan. Ở giai đoạn tư duy trừu tượng, con người nhận thức một cách gián tiếp, tức là
không cần tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nhận thức. Chính vì vậy, tư duy có vai trị to lớn: chỉ
đạo và định hướng cho mọi hoạt động của con người.
Tư duy con người có mối liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ. Ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư
duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, thiếu ngôn ngữ, tư duy không thể tồn tại. Ngôn ngữ
không chỉ là công cụ để con người giao tiếp, trao đổi với nhau mà còn là phương tiện lưu trữ
thông tin, thực hiện cơ chế “di truyền” xã hội, phản ánh khái quát các sự vật, hiện tượng, tổng kết
các hoạt động thực tiễn của con người, truyền đạt kinh nghiệm giữa các thế hệ nối tiếp nhau


trong lịch sử. Nếu tư duy phản ánh sự vật thì ngơn ngữ thể thể hiện sự vật; tư duy có chức năng
khái qt hố, trừu tượng hố, thì ngơn ngữ là cơng cụ của sự khái qt hố, trừu tượng hố đó.
Tư duy là q trình phản ánh thế giới khách quan, song đó khơng phải là một q trình
phản ánh máy móc, bị động, tiêu cực mà là q trình phản ánh tích cực, sáng tạo. Tính tích cực
của tư duy thể hiện ở chỗ, nó vượt qua khỏi giới hạn của nhận thức cảm tính để phản ánh cái
bên trong, bản chất của sự vật. Sự phản ánh tích cực của tư duy đó dựa trên bản chất người - là
thực thể năng động, sáng tạo, luôn vươn tới nhận thức và cải tạo thế giới. V.I.Lênin chỉ ra rằng,
thế giới không thoả mãn con người mà con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động
thực tiễn của mình. Tính tích cực của tư duy khơng tách rời tính sáng tạo của nó. Chính q trình
phản ánh tích cực thế giới khách quan, đã đem lại cho nhận thức khoa học năng lực khám phá,
sáng tạo những tri thức mới về các mối liên hệ bản chất, các tính qui luật khách quan chi phối
sự phát triển của hiện thực, tái tạo trong tư duy các sự kiện và các quá trình lịch sử xảy ra cũng
như dự báo các mơ hình lý luận của xã hội tương lai. Trên con đường chiếm lĩnh chân lý, chủ thể

tư duy không chỉ biết đặt ra các vấn đề mới, mà còn giải quyết chúng bằng những phương pháp
thích hợp. Đó cũng là q trình chủ thể tư duy huy động vốn tri thức, kinh nghiệm , sự hiểu biết
để giải quyết vấn đề đặt ra. Ngoài ra, tính sáng tạo của tư duy cịn thể hiện ở các khả năng
tưởng tượng, trực giác.
Tư duy phản ánh hiện thực khách quan một cách tích cực, sáng tạo nhưng mức độ đạt
được và trình độ tư duy mà con người có được ở mỗi giai đoạn lịch sử là khơng giống nhau. Xét
cho cùng mức độ đó phụ thuộc vào năng lực của mỗi người và phụ thuộc vào điều kiện lịch sử
cụ thể.
Như vậy, tư duy là sự phán ánh hiện thực khách quan bằng con đường khái quát hoá,
trừu tượng hoá, hướng vào nhận thức bản chất, qui luật vật động, biến đổi của đối tượng.
Tư duy là quá trình suy nghĩ, vận dụng các khái niệm, phạm trù theo những ngun tắc
lơgíc chặt chẽ nhằm đạt đến chân lý. Đây là q trình chuyển lơgíc khách quan thành lơgíc chủ
quan, chuyển tính tất yếu của hiện thực thành qui luật của lý tính.


Tư duy là quá trình sáng tạo hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tịi, khám phá và đề
xuất cái mới theo khuynh hướng không ngừng bổ sung, đổi mới tri thức, nhận thức đã có. Qui
luật của tư duy là qui luật của sự phát triển, tìm tịi, phát hiện cái mới.
Tư duy khơng có mục đích tự thân mà luôn hướng vào hiện thực để hiện thực hố
mình. Đây là q trình chuyển lơgíc chủ quan thành lơgíc khách quan.
Trong mỗi chủ thể tư duy, khơng phải bao giờ cũng đạt được những tính chất trên, bởi lẽ
tư duy là quá trình diễn biến đầy mâu thuẫn thông qua phản ánh sáng tạo của chủ thể, nếu hoạt
động thực tiễn của con người là nguồn gốc, động lực chủ yếu của tư duy, thì chính thực tiễn
đồng thời là tiêu chuẩn cao nhất của tư duy, là cái điều chỉnh tư duy. V.I. Lênin đã diễn đạt một
cách cơ đọng, biện chứng sự hình thành và phát triển tư duy trong mối quan hệ với thực tiễn như
sau:
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là
con đường biện chứng của nhận thức thực tại khách quan” [17,179].
Tư duy, một mặt là sản phẩm của bộ óc người, mặt khác là kết quả của hoạt động cải tạo
thực tiễn. Do đó, sự phát triển của tư duy không chỉ phụ thuộc vào điều kiện hoạt động sản xuất

vật chất, vào trình độ phát triển của xã hội, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tư duy
nhân loại cũng vận động, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít sâu sắc đến
sâu sắc hơn, theo xu hướng ngày càng phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan.
Có thể nói lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền
với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy: Biện chứng và siêu hình. Chính sự đấu tranh
lâu đài của hai phương pháp này trong lịch sử đã thúc đẩy tư duy triết học phát triển và hoàn
thiện với sự thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật. Sự ra đời của tư duybiện chứng duy vật đã
đặt cơ sở khoa học định hướng cho mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Trên cơ sở chỉ ra tính thứ nhất của biện chứng khách quan và tính thứ hai của biện
chứng chủ quan, Ph. Ăngghen đã chỉ ra thực chất của tư duy biện chứng duy vật, ơng viết: “Biện
chứng gọi là khách quan, thì chi phối tồn bộ giới tự nhiên, cịn biện chứng gọi là chủ quan tức
tư duy biện chứng thì chỉ phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên của sự vận động thông qua
những mặt đối lập, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hoá cuối cùng của


chúng từ mặt này thành mặt kia Respective (tương tự) với những hình thức cao hơn đã qui định sự
sống của giới tự nhiên” [23,694].
Như vậy, xét về bản chất, tư duy biện chứng duy vật là sự phản ánh vào ý thức con
người sự vận động biện chứng của thế giới hiện thực. Xét về hình thức, tư duy biện chứng duy
vật là chủ quan vì nó phản ánh thực hiện khách quan thông qua hoạt động nhận thức của con
người, phụ thuộc vào chủ thể nhận thức. Xét về nội dung thì tư duy biện chứng duy vật là khách
quan vì nó do thế giới khách quan quyết định. Ở đây, cần phân biệt giữa biện chứng khách quan
và biện chứng chủ quan. Bởi lẽ, tư duy ngoài việc phản ánh qui luật khách quan của thế giới hiện
thực thì bản thân tư duy cũng có qui luật lơgíc riêng, qui luật nội tại của nó. Chính nhờ đặc điểm
đó mà tư duy biện chứng duy vật khơng chỉ phán ánh qui luật vận động của thế giới khách quan
mà còn mang bản chất khoa học, sáng tạo, là cơ sở để chỉ đạo, dự báo, định hướng cho hoạt
động của con người.
Tư duy biện chứng duy vật là loại hình tư duy phát triển cao nhất trong lịch sử tư duy triết
học nhân loại, nó vừa là kết quả của sự kế thừa thành tựu tư duy biện chứng trong lịch sử tư duy
nhân loại, đồng thời là đòi hỏi tất yếu của thực tiễn lịch sử xã hội cũng như nhận thức của loài

người. Sự ra đời và phát triển của tư duy biện chứng là quá trình phát triển tất yếu hợp qui luật.
Thực chất của tư duy biện chứng duy vật là “phép biện chứng chủ quan” có nội dung phản ánh
“biện chứng khách quan”; Vì vậy, “các qui luật của tư duy biện chứng duy vật thực chất là qui luật
của phép biện chứng nhưng xét trong sự khúc xạ cụ thể, đặc thù vận động vào trong lĩnh vực tư
duy” [22,131]. Trong đó, giới tự nhiên và hoạt động cải tạo nó là cơ sở trực tiếp của tư duy biện
chứng duy vật và sự phát triển của tư duy luôn được bổ sung bằng những tài liệu của hoạt động
thực tiễn. Vì vậy, hoạt động thực tiễn càng tích cực, sự trau dồi, tích luỹ tri thức khoa học càng
nhiều thì chất lượng sản duy biện chứng duy vật càng cao.
So với các phương pháp tư duy đã từng tồn tại trong lịch sử triết học , tư duy biện chứng
duy vật có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, tư duy biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp biện chứng. Đặc trưng này làm cho tư duy biện chứng duy vật khác về chất so với
các phương pháp tư duy đã từng tồn tại và xuất hiện trong lịch sử triết học.


Nếu tư duy biện chứng duy tâm của Hêghen được coi là hình thức tư duy phát triển cao
nhất trước Mác (nhưng lại “lộn đầu” xuống đất) thì tư duy biện chứng duy vật ra đời đã khắc
phục được những hạn chế trong tư duy biện chứng của Hêghen và do đó nó phản ánh đúng đắn
sự vận động, phát triển của thế giới khách quan. Nếu tư duy chính xác (tư duy hình thức) chỉ
phản ánh trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng thì tư duy biện chứng duy vật
không chỉ phản ánh trạng thái “tĩnh” mà còn phản ánh trạng thái “động” của sự vật, hiện tượng.
Vì vậy, tư duy biện chứng duy vật bao chứa tư duy chính xác . Nếu tư duy siêu hình xem xét sự
vật, hiện tượng trong trạng thái cô lập, bất biến, không vận động không biến đổi thì tư duy biện
chứng duy vật xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ phổ biến, trong trạng thái luôn vận
động, biến đổi và phát triển không ngừng. Nếu tư duy siêu hình phủ nhận mâu thuẫn là nguồn
gốc, động lực của sự vận động, phát triển thì tư duy biện chứng duy vật thừa nhận sự tồn tại phổ
biến của mâu thuẫn và coi đó là nguồn gốc, động lực của sự vật động, phát triển. Đây chính là
hạt nhân của tư duy biện chứng duy vật. Với quan niệm như vậy, tư duy biện chứng duy vật
đem lại cho ta “chìa khố” để hiểu sự “tự thân vận động của tất thảy mọi cái đang tồn tại”.
Thứ hai, tư duy biện chứng duy vật mang tính toàn diện, phản ánh mối liên hệ phong phú

của thế giới khách quan. Tính tồn diện của tư duy biện chứng duy vật có cơ sở từ mối liên hệ
phổ biến của thế giới khách quan. Tính tồn diện của tư duy biện chứng duy vật khác hẳn so với
tư duy siêu hình phiến diện, một chiều. Nhờ đặc trưng này tư duy biện chứng duy vật không
những phản ánh mối liên hệ phong phú, đa dạng của thế giới khách quan mà còn rút ra được
mối liên hệ chủ yếu, của sự vật trong điều kiện lịch sử cụ thể. Vì vậy, nó giúp cho con người
trong hoạt động thực tiễn, vừa đạt được tính đồng bộ, đồng thời giải quyết được khâu trọng tâm,
trọng điểm, đem lại hiệu quả cao.
Thứ ba, tư duy biện chứng duy vật phản ánh đúng đắn sự vận động, phát triển của thế
giới khách quan. Đây cũng là đặc trưng quan trọng để phân biệt tư duy biện chứng duy vật với tư
duy siêu hình và tư duy biện chứng duy tâm. Cơ sở khách quan của nó chính là sự phản ánh sự
vận động, phát triển của thế giới hiện thực. Nhờ sự phản ánh đó, tư duy biện chứng duy vật
phát hiện tính tất yếu cũng như sự ra đời của cái mới từ cái cũ, trong quá trình phát triển của sự
vật, hiện tượng, tuân theo những qui luật khách quan của thế giới hiện thực. Mặt khác, tư duy


biện chứng duy vật cũng có q trình tự thân phát triển, những khái niệm, phạm trù của tư duy
biện chứng duy vật luôn được bổ sung, phát triển phù hợp với sự vận động, phát triển của bản
thân sự vật.
Thứ tư, tư duy biện chứng duy vật mang tính khách quan. Đây không chỉ là đặc trưng cơ
bản mà còn là đòi hỏi tất yếu của tư duy khoa học. Tư duy biện chứng duy vật luôn thống nhất
với tồn tại, luôn được bổ sung, phát triển và do đó phản ánh đúng thực tiễn. Ở đây, tính khách
quan của tư duy biện chứng duy vật không đồng nhất với tính khách quan của thế giới vật chất.
Sự đồng nhất trong trạng thái động chứ không phải sự đồng nhất trừu tượng, tuyệt đối. Tư duy
biện chứng duy vật không chỉ giúp chủ thể nhận thức, phản ánh đúng đắn qui luật vận động, phát
triển của thế giới khách quan, mà còn giúp cho chủ thể đưa ra quyết định nhanh chóng, kịp thời,
chính xác, phù hợp với sự vận động, phát triển của thế giới khách quan. Việc phá vỡ hoặc vi
phạm nguyên tắc này sẽ dẫn đến sai lầm là rơi vào chủ nghĩa duy tâm hoặc chủ quan duy ý chí.
Thứ năm, tư duy biện chứng duy vật mang bản chất khoa học và cách mạng, có tính phê
phán và tính chiến đấu cao. Tư duy biện chứng duy vật không chỉ tạo ra tri thức mới mà cịn giải
quyết có hiệu quả các vấn đề thực tiễn đặt ra. Với việc tuân thủ các nguyên tắc, qui luật của

phép biện chứng duy vật, tư duy biện chứng duy vật không những phản ánh đúng đắn qui luật
phát triển của thế giới khách quan mà còn tạo ra tri thức mới về đối tượng, dự báo được xu
hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, và do đó phát hiện ra bản chất và qui luật
vận động, phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng. Đứng trước tư duy biện chứng duy vật
không có gì trong thế giới là cố định, bất biến, mà ln vận động, biến đổi khơng ngừng. Do đó,
mọi hình thức tư duy như tư duy siêu hình, duy tâm, tư biện đều phải được thay thế, loại bỏ. Tư
duy biện chứng duy vật khơng chỉ có vai trị định hướng, chỉ đạo hoạt động thực tiễn mà luôn
được đổi mới, bổ sung bằng tư liệu của thực tiễn. Do đó, mọi hoạt động của con người dựa trên
cơ sở tư duy biện chứng duy vật sẽ tránh được những biến cố ngẫu nhiên, bất ngờ, những cái
phát sinh khơng lường trước và do đó con người chủ động giải quyết một cách có hiệu quả trong
mọi cơng việc mọi hồn cảnh, tình huống đặt ra.
Từ sự phân tích trên đây, có thể quan niệm: Tư duy biện chứng duy vật là loại hình tư
duy phát triển cao nhất của loài người, là sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy vật và


phương pháp biện chứng, phản ánh đúng đắn mối liên hệ, sự vận động, phát triển của các sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, mang bản chất khoa học, cách mạng vừa tạo ra tri
thức mới vừa giải quyết có hiệu quả các vấn đề thực tiễn đặt ra.
* Đặc điểm của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự hiện nay
Sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là một bộ phận đội ngũ sĩ quan kỹ thuật. Họ
là những người trực tiếp quản lý,khai thác,sử dụng, nghiên cứu, phát triểm vũ khí, trang bị kỹ
thuật quân sự ở các đơn vị, các cơ sở sản xuất quốc phòng, các cơ quan nghiên cứu, thiết kế ,
các học viện, nhà trường, các cơ quan tham mưu chiến lược... Có tuổi đời từ 20 đến 35 có quân
hàm từ thiếu uý đến thiếu tá, có trình độ từ cao đẳng đến tiến sĩ khoa học kỹ thuật quân sự
Sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, họ là những người trẻ tuổi. Xét ở góc độ sinh học, họ đang ở giai đoạn phát
triển về thể chất, giai đoạn sung sức nhất của đời người. Xét về phương diện xã hội, họ đang ở
giai đoạn hồn thiện tri thức, và tích luỹ kinh nghiệm cuộc sống. Mặt mạnh của họ là ham hiểu
biết, có hồi bão, ước mơ vươn tới đỉnh cao của khoa học, tư duy nhanh nhạy, năng động, sáng
tạo, dễ dàng tiếp thu cái mới, tài năng trí tuệ đang ở giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất. Đây

cũng là giai đoạn họ muốn tự khẳng định mình, muốn cống hiến tài năng, trí tuệ, phát minh, sáng
chế, phát triển khoa học kỹ thuật quân sự. Bên cạnh đó, ở họ cịn tồn tại một số hạn chế như
tính bồng bột của tuổi trẻ, tính tự kiêu, tự mãn do đó, khi gặp khó khăn tạm thời dễ hoang mang,
dao động, chùn bước trước khó khăn, tư duy của họ có lúc thiên về cảm tính hơn là suy lý, phần
đông sĩ quan kỹ thuật trẻ khả năng khái quát hố lý luận cịn kém. Vì vậy, sự nhìn nhận đánh giá
các vấn đề kinh tế, chính trị - xã hội và khoa học kỹ thuật quân sự dễ dẫn đến sự phiến diện, chủ
quan, siêu hình. Đặc biệt, do đặc điểm tâm sinh lý của tuổi trẻ, họ dễ bị tác động tiêu cực từ mặt
trái của nền kinh tế thị trường nên có ảnh hưởng khơng nhỏ đến chất lượng, hiệu quả công việc
của người sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự. Phát triển tư duy biện chứng duy vật
của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là cơ sở để họ phát huy mặt mạnh, khắc phục
hạn chế, định hướng đúng đắn cho mọi suy nghĩ và hành động của họ.


Thứ hai, sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự được đào tạo cơ bản, chuyên sâu
trong các nhà trường quân đội, nhưng chưa trải nghiệm nhiều trong hoạt động thực tiễn khoa học
kỹ thuật quân sự và cuộc sống.
Sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là những người được lựa chọn trong hàng
ngũ những thanh niên Việt Nam ưu tú, được đưa vào đào tạo trong các nhà trường kỹ thuật
quân sự. Ở họ hội tụ đầy đủ phẩm chất và năng lực của người sĩ quan quân đội nhân dân Việt
Nam, có kiến thức toàn diện về khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật quân sự, khoa học xã hội
và nhân văn, nắm vững thế giới quan phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, có khă
năng học tập theo nguyên tắc tự giáo dục liên tục và học tập suốt đời. Họ nắm vững tri thức khoa
học hiện đại, sử dụng thông thạo tin học, ngoại ngữ và các phương tiện tiên tiến khác. Hầu hết sĩ
quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự có khả năng giải quyết tốt các nhiệm vụ khoa học kỹ
thuật quân sự, đồng thời có khả năng thích ứng nhanh với cơng nghệ mới được chuyển giao và
tiến tới sáng tạo những công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành khoa học kỹ thuật
qn

sự




cơng

nghệ

quốc

phịng

thời

kỳ mới.
Tuy nhiên, do cịn trẻ tuổi, chưa trải nghiệm qua chiến tranh, chưa được rèn luyện nhiều
trong thực tiễn quân sự, vốn sống, kinh nghiệm còn hạn chế. Một số sĩ quan trẻ ngành khoa học
kỹ thuật quân sự, nhất là sĩ quan mới ra trường còn có những hạn chế nhất định. Những kiến
thức mà họ hiện có cịn bất cập nhiều so với thực tiễn đòi hỏi, nhất là kiến thức khoa học MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học nghệ thuật quân sự. Tất cả
điều đó không những làm cho tâm lý của họ phức tạp, mà còn dẫn đến kéo dài sự non nớt, làm
chậm quá trình phát triển của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự. Do đó, việc phát triển
tư duy biện chứng duy vật của họ ln là địi hỏi cấp bách, là công cụ để tiếp thu, củng cố tri
thức, phát triển phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu khai thác, sử dụng, bảo dưỡng và phát
triển nền khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà.
Thứ ba, tư duy của họ chịu sự ảnh hưởng của hoạt động chuyên môn khoa học kỹ thuật
quân sự.


Ngay từ khi được đào tạo trong nhà trường quân đội cũng như thực tiễn công tác trong
ngành khoa học kỹ thuật quân sự sau này, họ được tiếp cận trực tiếp với kiến thức khoa học tự
nhiên, khoa học kỹ thuật quân sự, với những đối tượng của kỹ thuật quân sự, các phương tiện

trực quan, trang bị, vũ khí, đạn dược. Vì vậy, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật quân sự có
sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với đội ngũ này, ảnh hưởng trực tiếp đến phong cách tư duy, suy nghĩ
của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự. Do quá nhấn mạnh khoa học kỹ thuật, họ dễ
rơi vào phương pháp tư duy cụ thể, máy móc, tư duy theo kiểu chuyên mơn thuần t, ít quan
tâm đến vấn đề chính trị. Mặt khác, do lao động chuyên môn kỹ thuật quân sự với đặc thù là có
tính chun mơn hóa cao, tính chất dây chuyền ổn định nên nghề nghiệp của người sĩ quan trẻ
ngành khoa học kỹ thuật quân sự có tính chun mơn hố cao, dẫn đến việc xuất hiện tư tưởng
“an phận” với công việc, nghề nghiệp quen thuộc, sĩ quan trẻ ngại thay đổi, không muốn xáo trộn
cuộc sống hàng ngày.
Phát triển tư duy biện chứng duy vật cho đội ngũ sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật
qn sự là địi hỏi cấp thiết, có vai trò hết sức quan trọng, giúp người sĩ quan kỹ thuật phát huy
mặt mạnh, hạn chế mặt yếu, chiếm lĩnh đỉnh cao khoa học, làm chủ kiến thức khoa học kỹ thuật
quân sự hiện đại, năng động và sáng tạo hơn trong nghiên cứu ứng dụng, khoa học kỹ thuật
quân sự hiện đại.
* Tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
Tư duy là sản phẩm của bộ óc người, phản ánh thế giới khách quan trên cơ sở hoạt động
thực tiễn. Hoạt động thực tiễn của người sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự quy định
sự hình thành phát triển tư duy của họ.
Từ sự hiểu biết về sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật như trên, bước đầu ta có thể
quan niệm: tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là sự
phản ánh một cách năng động, sáng tạo đời sống hoạt động quân sự và thực tiễn quản lý, khai
thác, sử dụng, nghiên cứu, phát triển vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự đáp ứng yêu cầu xây dựng
quân đội nhân dân cách mạng chính, qui tinh, nhuệ, từng bước hiện đại bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Thực chất tư duy của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là tư duy biện chứng
duy vật, phải ánh mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung, cái đặc thù và cái phổ biến. Tư duy là
sản phẩm của bộ óc người, phản ánh thế giới khách quan trên cơ sở của hoạt động thực tiễn.
Do đó, hoạt động của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự và môi trường quân sự cũng

như đặc điểm tâm sinh lý của họ, quyết định sự hình thành và phát triển tư duy biện chứng duy
vật của họ. Tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự vừa
mang đặc trưng chung của tư duy biện chứng duy vật đồng thời, có nét riêng biệt như gắn liền
với hoạt động kỹ thuật qn sự, có tính quyết đốn, tính định hướng chính trị, tính nhanh nhạy
cao. Vì vậy, sẽ là sai lầm nếu hoàn toàn đồng nhất tư duy biện chứng duy vật với tư duy biện
chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự, hoặc tách rời, hoặc tuyệt đối hai
khái niệm này. Cũng sẽ là sai lầm nếu chúng ta gán ghép một cách áp đặt, những qui luật của
phép biện chứng duy vật trong hoạt động quân sự của thời kỳ trước hoặc của sĩ quan trung cao
cấp vào hoạt động của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự, khi mà điều kiện, hoàn
cảnh đã thay đổi. Nhiệm vụ của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự hiện nay đòi hỏi tư
duy biện chứng của họ phải được phân tích, xem xét trong điều kiện cụ thể gắn với hoạt động
khoa học kỹ thuật qn sự , có như vậy mới tìm ra được nét đặc thù phát triển tư duy biện chứng duy
vật của họ, nhờ đó mà giải quyết mọi cơng việc của chuyên ngành, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là sự phản
ánh ở trình độ cao của nhận thức lý tính, là kết quả của sự trừu tượng hoá, khái quát hoá, nắm
bắt bản chất, qui luật biện chứng của hoạt động khoa học kỹ thuật quân sự, của thực tiễn nghiên
cứu, cải tiến, ứng dụng, áp dụng khoa học kỹ thuật quân sự vào khai thác, bảo quản, quản lý,
sản xuất và sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự ở đơn vị cơ sở trong toàn quân hiện nay.
Cơ sở của tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
dựa trên sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Nhờ có thế
giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng, sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật qn
sự khơng chỉ giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội, của hoạt động khoa học kỹ thuật
qn sự, mà họ cịn tìm ra các mối liên hệ bản chất, tất yếu, chi phối hoạt động nghiên cứu, ứng
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và quản lý các hoạt động khoa học kỹ thuật quân sự, qua


đó họ nhận thức được mục đích, ý nghĩa cơng việc của họ. Do vậy, mỗi quan điểm, kết luận mà
họ đưa ra trở thành nguyên tắc xác định phương pháp, cách thức tiến hành công việc của họ.
Rõ ràng sự hình thành và phát triển của tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành
khoa học kỹ thuật quân sự vừa chịu sự chi phối bởi qui luật chung của tư duy biện chứng duy

vật, đồng thời chịu sự chi phối của những qui luật đặc thù trong lĩnh vực hoạt động khoa học kỹ
thuật quân sự. Sự phân biệt đó là cơ sở cần thiết để tìm ra các giải pháp phát triển tư duy biện
chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự hiện nay.
* Phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật
quân sự
Phát triển, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vât biện chứng, là quá trình vận động tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển
là khuynh hướng chung, phổ biến của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, từ tự
nhiên đến xã hội và tư duy. Sự phát triển diễn ra theo qui luật khách quan của phép biện chứng
duy vật.
Có thể quan niệm rằng: phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa
học kỹ thuật quân sự là q trình khơng ngừng bổ sung tri thức, nâng cao năng lực khái quát
hoá, trừu tượng hoá, rèn luyện phương pháp tư duy năng động, sáng tạo, tự chủ, quyết đoán của
họ, đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển nền khoa học - kỹ thuật quân sự, phục vụ sự nghiệp
xây dựng quân đội từng bước hiện đại, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật
qn sự là q trình khơng ngừng bổ sung, củng cố và chính xác hố tri thức, nâng cao sự hiểu
biết về khoa học kỹ thuật quân sự về cuộc sống.
Sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự được trang bị hệ thống kiến thức tương đối
toàn diện về khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thật, khoa học xã hội và nhân văn. Tuy nhiên, đó
mới chỉ là những kiến thức cơng cụ, cơ sở ban đầu làm nền tảng để họ bước vào hoạt động thực
tiễn khoa học kỹ thuật quân sự. Thực tiễn nghiên cứu, phát triển nền khoa học kỹ thuật quân sự


cho thấy sĩ quan trẻ luôn vấp phải hàng loạt mâu thuẫn, những tình huống mới phát sinh từ thực
tiễn cuộc sống, họ phải giải quyết. Song, kiến thức họ được trang bị trong nhà trường quân đội
lại luôn luôn thiếu, thậm chí đã trở nên lạc hậu so với hiện tại. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay
với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ hiện đại việc áp dụng thành tựu của nó vào

trong lĩnh vực quân sự, vào thiết kế, chế tạo trang bị vũ khí kỹ thuật, các thế hệ vũ khí mới liên
tục ra đời với nhiều tính năng tác dụng và nguyên lý hoạt động mới lạ. Vì vậy, nếu chỉ dựa vào
kiến thức cũ thì rất dễ rơi vào sự lạc hậu về thông tin, về khoa học kỹ thuật quân sự. Do vậy, họ
phải tích cực học hỏi, tích luỹ bổ sung tri thức mới cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn mới
giúp họ hoàn thành nhiệm vụ, đưa nền khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà phát triển theo kịp
xu hướng hiện đại.
Hiện nay, với sự biến động của tình hình kinh tế, chính trị trong nước và thế giới, kẻ thù
đang tìm mọi âm mưu, thủ đoạn mới để lật đổ chế độ xã chủ nghĩa ở nước ta. Nhiệm vụ xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay đang đặt ra nhiều nội dung mới mẻ và phức tạp. Điều đó tác
động trực tiếp đến sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự, địi hỏi họ khơng chỉ nhận thức
đúng đắn nhiệm vụ phát triển ngành khoa học kỹ thuật quân sự mà còn phải nhận thức sâu sắc
nghĩa vụ, trách nhiệm của họ đối với Tổ quốc, với sự xây dựng, phát triển nền khoa học kỹ thuật
quân sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội từng bước hiện đại bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Vì vậy, việc học tập để không ngừng bổ sung tri thức, cập nhật thông tin là nội dung quan
trong trong sự phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân
sự. Chỉ có trên cơ sở đó mới đảm bảo cho họ có được cách nhìn đúng đắn về các lĩnh vực của
đời sống xã hội, về sự phát triển của nền khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà. Từ đó, họ biết
vận dụng tri thức và sự hiểu biết vào hoạt động thực tiễn, giải quyết mâu thuẫn nảy sinh, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, nâng cao năng lực khái quát hoá, trừu tượng hoá của sĩ quan trẻ ngành khoa
học kỹ thuật quân sự . Hoạt động thực tiễn của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
thường xuyên phải tiếp xúc với nhiều đối tượng có liên quan đến các loại trang bị, vũ khí, kỹ
thuật khác nhau. Mỗi loại trang bị vũ khí kỹ thuật có tính năng tác dụng, qui luật, điều kiện hoạt
động riêng, đồng thời chúng lại luôn bị chi phối bởi cơ sở và nguyên lý chung của khoa học kỹ


thuật qn sự. Điều đó, địi hỏi sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật qn sự khơng chỉ có khả
năng phân tích từng loại trang bị, vũ khí kỹ thuật mà cịn địi hỏi họ phải có khả năng liên tưởng,
đối chiếu, so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá để phát hiện ra những nguyên lý chung. Trên
cơ sở những nguyên lý đó định hướng họ để áp dụng, vận dụng vào cơng việc. Có như vậy mới

giúp họ tránh được sự mò mẫm, tự phát.
Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động khoa học kỹ thuật quân sự là thường xuyên tiếp xúc
với đối tượng cụ thể thường xuyên thông qua, kiểm tra định lượng bằng phương tiện trực quan,
do đó tư duy cụ thể ở sĩ quan kỹ thuật khá phát triển, tuy nhiên năng lực khái quát hoá, trừu
tượng hoá, lại là điểm hạn chế trong tư duy của họ. Thực tiễn hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ
thuật quân sự chỉ ra rằng, nếu năng lực khái quát hoá, trừu tượng hoá của sĩ quan trẻ ngành
khoa học kỹ thuật quân sự càng cao thì tư duy biện chứng duy vật của họ càng phát triển.
Thứ ba, rèn luyện phẩm chất tư duy năng động, sáng tạo, tự chủ, quyết đoán. Thực tiễn
hoạt động quân sự nói chung, hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự nói riêng diễn ra
hết sức phức tạp. Hoạt động của họ liên quan trực tiếp đến tính mạng con người, chịu sự chi
phối của mơi trường đặc thù quân sự. Nhiều biến cố ngẫu nhiên xảy ra nhanh chóng, biến đổi
ngồi dự đốn, khó lường, đặc biệt trong điều kiện chiến tranh xảy ra. Mỗi quyết định đưa ra địi
hỏi sự nhanh nhạy, quyết đốn, sáng tạo, giải quyết mâu thuẫn phải triệt để. Tư duy của sĩ quan
trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự phải mềm dẻo, linh hoạt mới đảm bảo cho họ hoàn thành
nhiệm vụ “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay đòi hỏi hơn bao giờ hết tư duy sáng tạo, khơng
sáng tạo thì cách mạng khơng thể thắng lợi. Nếu lúc nào đó, ở nơi nào đó phạm giáo điều, rập
khn, máy móc thì y như rằng cách mạng trắc trở khó khăn” [1,19].
Tuy nhiên, do tuổi cịn trẻ, tư duy tuy có ưu thế là năng động, sáng tạo, quyết đốn
nhưng lại thiếu tính bền vững, sâu sắc và mềm dẻo trong xử lý, giải quyết vấn đề. Tuổi trẻ ln
muốn khẳng định mình nhưng do kinh nghiệm còn hạn chế nên dễ rơi vào chủ quan, nóng vội,
đó là mâu thuẫn trong tư duy của tuổi trẻ. Vì vậy, phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ
quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự chính là q trình hạn chế tiêu cực, phát huy mặt tích
cực, rèn luyện phương pháp tư duy khoa học, xây dựng cơ sở thế giới quan phương pháp luận
duy vật biện chứng cho sĩ quan trẻ giúp họ đứng vững trên vị trí của mình và phát triển.


Phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là
sự phát triển có tính qui luật của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn quân sự từ thấp
đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Thực chất của sự phát triển tư duy biện chứng duy
vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự là sự vận động trong tư duy, sự đổi mới về

nội dung và hoàn thiện về phương pháp, tiến tới ngày càng phản ánh đúng đắn, đầy đủ, chính
xác các hoạt động kỹ thuật quân sự, đáp ứng đòi hỏi phát triển nền khoa học kỹ thuật quân sự
trong mỗi điều kiện lịch sử mới.
Phát triển tư duy biện chứng duy vật là quá trình tự giác, là kết quả của quá trình giáo
dục đào tạo trong các trường kỹ thuật quân sự, vừa là kết quả của quá trình tích luỹ vốn sống, tri
thức, sự hiểu biết từ hoạt động thực tiễn. Phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ
ngành khoa học kỹ thuật quân sự chịu sự chi phối của điều kiện khách quan: điều kiện kinh tế,
chính trị - xã hội, văn hố, khoa học, công nghệ của thời kỳ đổi mới đất nước, sự kế thừa và phát
triển tư duy biện chứng của dân tộc và thế giới và chịu sự chi phối của nhân tố chủ quan đó là:
trình độ, học vấn, bản lĩnh chính trị, thể lực, sức khoẻ, động cơ, tình cảm, niềm tin trong đó nâng
cao năng lực tư duy biện chứng duy vật và tích cực rèn luyện trong thực tiễn quân sự có ý nghĩa
hết sức quan trọng.
Sự phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
cũng chính là q trình chuyển hố khơng ngừng của tư duy thành hoạt động thực tiễn. Vì vậy,
hoạt động thực tiễn càng phong phú thì tư duy biện chứng duy vật càng phát triển và ngược lại,
tư duy biện chứng duy vật phát triển, càng làm cho hoạt động thực tiễn của sĩ quan trẻ ngành
khoa học kỹ thuật quân sự đạt hiệu quả.
1.1.2. Vai trò phát triển tư duy biện chứng duy vật đối với hoạt động khoa học kỹ thuật
quân sự của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
Phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật qn sự có
vai trị hết sức quan trọng đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của họ. Vai trị đó
được thể hiện:


Thứ nhất, tư duy biện chứng duy vật định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn quân
sự đúng đắn. Hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng, bảo quản và nghiên cứu, chế tạo vũ khí
trang bị kỹ thuật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự muốn đạt hiệu quả cao thì cần
phải có tư duy biện chứng duy vật định hướng. Hoạt động của họ không thể dựa vào ý muốn chủ
quan, tuỳ tiện, áp đặt, duy ý chí, mà phải tuân thủ nghiêm ngặt qui luật khách quan. Để đưa ra
quyết định chính xác, các giải pháp khoa học, các phương thức hoạt động, hiệu quả, đòi hỏi sĩ

quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự phải nắm chắc kiến thức chuyên ngành, có khả năng
vận dụng và giải đáp những tình huống cụ thể đặt ra. Đồng thời, đòi hỏi mỗi quyết định mà họ
đưa ra đều phải tính đến điều kiện thực tế của đất nước, của đơn vị, khả năng khoa học kỹ thuật
cho phép, đặc thù nghệ thuật quân sự Việt Nam. Như vậy, trong hoạt động khoa học kỹ thuật
quân sự người sĩ quan trẻ không chỉ phải giải quyết một vấn đề chuyên ngành, mà còn phải giải
quyết hàng loạt vấn đề khác có liên quan. Với tuổi đời, tuổi quân, cũng như kinh nghiệm tích luỹ
từ hoạt động thực tiễn khoa học chưa nhiều, làm thế nào để họ có được định hướng hoạt động
đúng đắn trước hàng loạt các mối quan hệ phức tạp? Chỉ có trên cơ sở tư duy biện chứng duy
vật phát triển mới cho phép sĩ quan trẻ định hướng nhận thức đúng đắn và hoạt động thực tiễn
đạt hiệu quả cao. Ở đây, vai trò của tư duy biện chứng duy vật nó khơng trực tiếp giải đáp những
vấn đề cụ thể của hoạt động kỹ thuật quân sự, mà nó chỉ đưa ra các nguyên tắc chung nhất làm
cơ sở định hướng cho mọi suy nghĩ và hoạt động thực tiễn của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ
thuật quân sự.
Thứ hai, giúp sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự nhanh chóng nắm bắt
bản chất đối tượng và giải quyết các tình huống hợp tình, hợp lý.
Hiện nay, quân đội ta đang quản lý, khai thác, sử dụng một khối lượng lớn vũ khí, trang bị
kỹ thuật có giá trị cao, gồm nhiều chủng loại, xuất xứ từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó hầu hết
vũ khí, trang bị là của nước ngồi. Theo ngun lý hoạt động thì các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật
được thiết kế, chế tạo, khai thác theo một hệ thống nhất định, bao gồm : con người, vũ khí, trang
bị kỹ thuật, mơi trường. Đây là hệ thống phức tạp, vì vậy để làm cho hệ thống này hoạt động có
hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tiễn, đòi hỏi người sĩ quan kỹ thuật trẻ phải am hiểu kiến
thức chuyên ngành, có khả năng định dạng nhanh, đạt độ chính xác cao, nắm được thực chất


qui luật, tính năng tác dụng của mỗi loại trang bị vũ khí kỹ thuật. Điều đó địi hỏi sĩ quan trẻ
ngành khoa học kỹ thuật quân sự phải có trình độ tư duy biện chứng duy vật, nhất là khả năng
khái quát hoá, trừu tượng hoá, khả năng liên tưởng, phán đốn, suy luận sắc xảo, biện chứng,
có như vậy họ mới hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, tư duy biện chứng duy vật giúp sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
củng cố và phát triển bản lĩnh chính trị, ln độc lập, tự chủ, sáng tạo, bình tĩnh, tự tin trong giải

quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra.
Hiện nay, hệ thống trang bị vũ khí kỹ thuật quân sự của quân đội ta có được từ 3 nguồn
cơ bản: thứ nhất, sự viện trợ của các nước XHCN anh em trong kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ. Hệ thống này đã cũ, lạc hậu, xuống cấp cần được sửa chữa, nâng cấp; thứ
hai: tự sản xuất trong nước nhưng hết sức hạn chế, chủ yếu là vũ khí bộ binh hạng nhẹ, và một
số bộ phận thay thế; thứ ba: vũ khí trang bị kỹ thuật nhập từ các nước tư bản, song số lượng hết
sức hạn chế (do điều kiện kinh tế không cho phép). Vấn đề cấp bách hiện nay là phải độc lập, tự
chủ, sáng tạo để cải tiến, sửa chữa kéo dài tuổi thọ của các loại vũ khí, trang bị hiện có, tiến tới
tự chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh công nghệ cao
(nếu xảy ra), làm cho ta không phụ thuộc vào nước ngồi. Điều đó, địi hỏi đội ngũ sĩ quan trẻ
ngành khoa học kỹ thuật quân sự phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, biết làm chủ khoa học kỹ
thuật qn sự, đồng thời có khả năng phân tích, dự báo xu hướng kỹ thuật quân sự của đối
phương, có năng lực tự nghiên cứu tiến tới chế tạo vũ khí, trang bị mới.
Do vậy, nắm vững phương pháp tư duy biện chứng duy vật là cơ sở khoa học để sĩ quan
trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự tự tin trong nghiên cứu tìm tịi, phát hiện cái mới đưa ngành
khoa học kỹ thuật quân sự phát triển vững chắc đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ
quốc thời kỳ mới.
Thứ tư, tư duy biện chứng duy vật giúp sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận khoa học kỹ thuật quân sự. Đây là khâu
hết sức quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của người sĩ quan trẻ ngành khoa học
kỹ thuật quân sự. Với tuổi đời, tuổi quân cũng như kinh nghiệm tích luỹ từ hoạt động thực tiễn
chưa nhiều. Trong khi đó, hoạt động quản lý, sử dụng, khai thác, nghiên cứu, chế tạo trang bị, vũ


khí kỹ thuật qn sự ln vận động, phát triển, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp xây
dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc. Hàng loạt những biến cố ngẫu nhiên, bất ngờ, những vấn đề
mới nẩy sinh xuất hiện trong hoạt động thực tiễn của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật qn
sự khơng có sẵn lời giải đáp trong các bài học lý thuyết địi hỏi phải được lý giải. Vì vậy, nhờ có
tư duy biện chứng duy vật sĩ quan trẻ tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận, giúp họ tự đánh giá,
điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, làm cho hoạt động của họ

đúng hướng, tránh được sự mò mẫm, tự phát.
Thứ năm, tư duy biện chứng duy vật giúp sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
giỏi về chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật quân sự vững vàng về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Nhờ
có tư duy biện chứng duy vật mà họ có thái độ đúng đắn trong nghiên cứu vũ khí, trang bị kỹ
thuật, tiếp thu thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại. Đứng trước những vấn đề phức tạp, khả
năng định hướng của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự gặp lúng túng nhất định, thậm
chí có lúc giao động, hồi nghi, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động, kìm hãm
bước tiến bộ của họ. Hiện nay, một số sĩ quan khoa học kỹ thuật quân sự trẻ khi xem xét tương
quan giữa con người và vũ khí thường tuyệt đối hố vai trị của vũ khí, kỹ thuật, công nghệ hiện
đại, không quan tâm hoặc coi thường chính trị, truyền thống lịch sử. Trước sự tác động của kinh
tế thị trường và ảnh hưởng mặt trái của nó, khơng ít sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự
chịu ảnh hưởng lối sống thực dụng, đòi hỏi hưởng thụ nhiều hơn là sự cống hiến, họ không nhận
thức đúng đắn trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Tổ quốc, đối với ngành nghề của mình. Mặt khác,
cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận đang diễn ra hết sức phức tạp hiện nay, kẻ thù luôn thay hình,
đổi dạng, có nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt trong chống phá cách mạng Việt Nam. Điều đó có
ảnh hưởng đến niềm tin, bản lĩnh chính trị, làm giảm sút ý chí chiến đấu, sự nhiệt tình, say mê
nghiên cứu khoa học kỹ thuật qn sự của khơng ít sĩ quan trẻ.
Để góp phần đấu tranh chống lại tư tưởng sai trái, sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật
quân sự phải được trang bị vũ khí sắc bén - tư duy biện chứng duy vật, với phương pháp xem
xét sự vật một cách khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển, tư duy biện chứng duy
vật đã và sẽ là “công cụ sắc bén” để sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự tự bảo vệ
mình, vững tin chống lại các quan điểm sai trái, lệch lạc, định hướng suy nghĩ và hành động


đúng đắn. Củng cố và phát triển bản lĩnh chính trị vững vàng, nâng cao sức chịu đựng khó khăn
thử thách, vượt qua mọi biến cố phức tạp, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao,
đưa nền khoa học kỹ thuật quân sự phát triển lên tầm cao mới.
Tư duy biện chứng duy vật có vai trị quan trọng, là “công cụ” mà sĩ quan trẻ ngành khoa
học kỹ thuật quân sự phải chiếm lấy và giữ gìn, coi đó là cơ sở lý luận khoa học của hoạt động
thực tiễn quân sự. Tư duy biện chứng duy vật giúp họ đứng vững trên vị trí của mình, định

hướng, chỉ đạo mọi hoạt động nghiên cứu, cải tiến, bảo dưỡng, sử dụng trang bị, vũ khí kỹ thuật,
hiện đại hố qn đội ta thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước. Đây là phương pháp tư
duy khoa học nhất, đúng đắn nhất, giúp người sĩ quan kỹ thuật quân sự trẻ nhận thức đúng đắn
qui luật của thế giới khách quan, thúc đẩy hoạt động thực tiễn quân sự phát triển. Có thể khẳng
định rằng, nắm chắc phương pháp tư duy biện chứng duy vật là cơ sở khoa học quyết định việc
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ và sự tiến bộ trưởng thành của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật
quân sự hiện nay.
1.2. Đặc điểm phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học
kỹ thuật quân sự
Nghiên cứu quá trình phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa
học kỹ thuật quân sự, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quí báu để điều chỉnh và
định hướng sự phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ. Đây là cơ sở lý luận và thực
tiễn có giá trị, góp phần củng cố, bổ sung và phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ
ngành khoa học kỹ thuật quân sự.
Việc phát hiện ra những đặc điểm có tính qui luật của q trình phát triển tư duy biện
chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự và sự hiểu biết các đặc điểm có
tính qui luật, đó là cơ sở lý luận quan trọng cho phép chúng ta xác định đúng phương pháp và
phương thức đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân
sự, tạo điều kiện thuận lợi để họ học tập, rèn luyện, trau dồi phương pháp tư duy biện chứng duy
vật, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong nhiệm vụ quản lý, khai thác, sử dụng và nghiên cứu
phát triển ngành khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng


quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Sự phát triển tư duy biện chứng duy vật của
sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự thể hiện ở những đặc điểm có tính qui luật sau:
1.2.1. Phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật
quân sự phụ thuộc vào hệ thống tri thức được trang bị trong các nhà trường qn đội và
vai trị tích cực tự học tập, tự rèn luyện của sĩ quan trẻ.
Tri thức khoa học là sản phẩm của tư duy nhưng đồng thời là điều kiện để phát triển tư
duy. Quá trình phát triển của tư duy luôn phụ thuộc vào quá trình tích luỹ kiến thức, về sự hiểu

biết của con người. Những thành tựu đạt được của khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội
và nhân văn không những góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, xã
hội mà còn là cơ sở của quá trình nhận thức mới, của tư duy mới.
Với tuổi đời, tuổi quân cũng như vốn sống, kinh nghiệm tích luỹ chưa nhiều thì hệ thống
tri thức về khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học
quân sự được trang bị trong các nhà trường quân đội là yếu tố cốt lõi, có ý nghĩa quan trọng đặc
biệt đối với quá trình phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ
thuật quân sự. Nó là cơ sở, nền tảng ban đầu, định hướng cho suy nghĩ và hành động của sĩ
quan trẻ trong nghiên cứu, tìm hiểu, khám phá thế giới, rèn luyện cách ứng xử trước các vấn đề
thực tiễn đặt ra. Trong đó, tri thức khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của
Đảng mang ý nghĩa quyết định trực tiếp đối với sự phát triển tư duy biện chứng duy vật và đối
với sự phát triển các phẩm chất nhân cách khác của người sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật
quân sự. Đối với họ, hệ thống tri thức khoa học có vai trị to lớn trong việc khơi dậy và phát triển
mọi tiềm năng tư cách cá nhân, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp, giúp người sĩ quan trẻ
ngành khoa học kỹ thuật quân sự làm chủ mọi hoạt động của mình, có tư tưởng đạo đức, lối
sống lành mạnh, có động cơ đúng đắn, trạng thái tâm lý vững vàng, xử lý nhanh nhạy mọi tình
huống phức tạp xảy ra. Vì vậy, tích cực học tập, nghiên cứu để nắm vững tri thức khoa học MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tri thức khoa học nói chung là vấn đề có tính ngun tắc, là u
cầu cơ bản đối với sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ
thuật quân sự, trong đó phát triển tư duy biện chứng duy vật - tư duy khoa học và cách mạng, là
cơ sở, tiền đề để họ có nhận thức và hoạt động đúng đắn, phát triển ngành khoa học kỹ thuật


quân sự, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định sự phát triển tư duy biện chứng duy vật phụ thuộc vào hệ thống tri thức được
trang bị trong nhà trường phổ thông và nhất là các trường quân đội, cũng như vai trò quan trọng
của tư duy biện chứng duy vật đối với mỗi bước trưởng thành của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ
thuật quân sự, Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng công tác giáo dục, đào tạo, coi đó là “quốc
sách hàng đầu” là “cơng tác trọng yếu” trong phương hướng xây dựng quân đội nhân dân cách
mạng chính qui, tinh nhuệ từng bước hiện đại. Nghị quyết 93 Đảng uỷ quân sự Trung ương

khẳng định: “Nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ
trang”. Trong những năm gần đây, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, đã và
đang tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta mở rộng giao lưu hợp tác về khoa học và phối hợp tổ
chức giáo dục, đào tạo sĩ quan giữa Bộ giáo dục đào tạo và Bộ Quốc phòng, trong nước và
nước ngồi. Vì vậy, chất lượng đào tạo trong các trường quân đội nói chung và các trường kỹ
thuật quân sự nói riêng ngày càng được phát triển trình độ học vấn và trình độ tư duy biện chứng
duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự theo đó cũng được nâng cao, đây là
điều kiện thuận lợi để họ nắm vững tính năng, tác dụng của vũ khí, trang bị hiện đại, tiến tới
nghiên cứu, sáng tạo và chế tạo các loại vũ khí, trang thiết bị quân sự mới, đáp ứng nhu cầu hiện
đại hố trang bị, vũ khí kỹ thuật qn sự góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội cũng như
giải quyết tốt các tình huống xảy ra.
Với tư cách là một mặt cơ bản của nhân cách sĩ quan, tư duy biện chứng duy vật luôn
vận động, phát triển cùng với sự phát triển của các mặt khác của nhân cách và chịu sự qui định
của các yếu tố chủ quan như tư chất cá nhân, động cơ, tình cảm, niềm tin sự tác động biện
chứng của các yếu tố này tạo điều kiện cần thiết cho sự phát triển tư duy biện chứng duy vật của
họ. Triết học Mác-Lênin coi tư chất là những đặc điểm riêng của cá nhân là sự tổng hợp các yếu
tố bẩm sinh, di truyền và thói quen do rèn luyện tạo nên sự khác biệt giữa các cá nhân với nhau.
Tư chất cá nhân là nền tảng “vật chất tự nhiên” của các yếu tố chủ quan cần thiết cho sự phát
triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự. Sĩ quan trẻ


×