Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tiểu luận cao học môn triết, CHỮ lễ TRONG TRIẾT học KHỔNG tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.72 KB, 23 trang )

Tiểu luận
MÔN: TRIẾT HỌC
Đề tài:

CHỮ LỄ TRONG TRIẾT HỌC KHỔNG TỬ

1


MỞ ĐẦU
1.

TÍNH CẤP THIẾT CỦA BÀI TIỂU LUẬN

Khi xã hội hình thành,có quan hệ xã hội thì lễ ra đời. Nội dung của lễ
biến đổi và phát triển theo sự biến đổi và phát triển cùng xã hội. Từ cổ chí
kim con người ln coi trọng lễ, chú ý đến lễ. Lễ biểu hiện nhân cách của con
người, lễ biểu hiện cuộc sống và xã hội của con người, là những phương cách
kiềm chế và giáo hóa con người. Trong Nho giáo đối với lối sống người Việt,
lễ còn quan trong hơn cả thế nữa. Lễ hiện thực tất cả cuộc sống, lễ hiện thực
tất cả một thế giới sống Việt. Chính vì vậy mà lễ được dùng như là sinh hoạt
mang tính chất tồn diện, cũng như cao cả nhất như từng biểu hiện trong ngôn
ngữ, sinh hoạt tôn giáo, và trong cách tổ chức xã hội.
Ngày nay sống trong xã hội hiện đại con người bị cuốn theo guồng máy
của nền công nghiệp. Bên cạnh những quan niệm đúng đắn về mục đích sống,
lẽ sống, lý tưởng sống gắn với hệ giá trị chân thiên mỹ đã bộc lộ những quan
niệm về lối sống xa lạ, trái với những khuôn mẫu nhân cách mà chúng ta đang
phấn đấu đạt tới. Nền kinh tế thị trường theo kiểu phương Tây đã dẫn đến sự
khủng hoảng về giá trị đạo đức nói riêng, dẫn đến sự lấn át của những nhu
cầu, động cơ vật chất so với những nhu cầu, động cơ văn hóa, đạo đức, dẫn
đến sự xuất hiện chủ nghĩa hậu hiện đại, chủ nghĩa vị kỷ, xu hướng quay về


tơn giáo, mê tín dị đoan và tình trạng xuống cấp đạo đức nghiêm trọng. Bên
cạnh những hạn chế đó thì kinh tế thị trường đã hình thành một số giá trị và
tiêu chí mới hết sức có ý nghĩa trong văn hóa đạo đức ở nước ta như:quan
niệm cá nhân chuyển sang quan niệm độc lập tự chủ, quan hệ quyền hành, địa
vị chuyển sang quan hệ năng lực, ý thức tự cấp, tự túc chuyể sang ý thức khai
thác và tìm tịi cái mới, tư tưởng bảo thủ chuyển sang tư tưởng tư tưởng đổi
mới, tiến thủ. Lối sống khép kín nay đã chuyển sang lối sống giao tiếp, mở
rộng...
Vì vậy câu hỏi đặt ra là làm thế nào để vừa sử dụng vốn đầu tư có hiệu
quả, vừa giữ được hệ thống các giá trị vốn tạo ra bản sắc văn hóa Việt Nam.
Làm thế nào để các vùng nông thôn đô thị ở nước ta tiếp cận được khoa học
công nghệ mới, nâng cao được mức sống nhưng đồng thời diện mạo tinh thần
của lối sống giản dị, tình nghĩa, vị tha vẫn được duy trì. Sống trong nền kinh
2


tế thị trường nhưng chúng ta không đánh mất đi bản sắc văn hóa dân tộc,
khơng làm mất đi nhữnh phong tục, tập quán và những lễ hội truyền thống
vốn có của dân ta. Làm được tất cả những điều đó là chúng ta đã thực hiện
được một phần nào chữ lễ trong quan niệm của các nhà nho.
Thấy được giá trị to lớn của lễ trong đời sống và biết thực hiện, vận dụng
theo góp phần tạo nên phẩm chất và tính cách con người trong xã hội hiện đại.
Có hiểu được lễ nghĩa của dân tộc, tổ tiên thì chúng ta mới giữ vững được lập
trường tư tưởng khi đối mặt với mọi mưu đồ xâm lược của các thế lực thù
địch, hành động diễn biến hịa bình.
Như vậy hiểu và thấy được vai trò của lễ tiết là điều vơ cùng cần thiết!
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Hiện nay đang có rất nhiều đề tài nghiên cứu về chữ lễ, hình thức biểu
hiện của chữ lễ, rất nhiều các giáo sư nước ta nghiên cứu về lễ như: Giáo sư

Văn Như Cương (hiệu trưởng trường THPT dân lập Lương Thế Vinh - Hà
Nội). Thầy có bài nghiên cứu về sự khác biệt giữa chữ lễ thời xưa và chữ lễ
thời nay, TS Nguyễn Đức Nghĩa (phó giám đốc ĐHQG TPHCM) có bài
nghiên cứu về quan hệ thầy trò trong xã hội hiên đại và cách thể hiện chữ lễ
của trị thời nay, ơng Nguyễn Văn Ngai (phó giám đốc sở GD và ĐT TPHCM)
có sự nhiên cứu về chữ lễ trong giá trị truyền thống.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI

3.1. Mục đích
Bài tiểu luận nghiên cứu về phạm trù lễ trong triết học của Khổng Tử và
liên hệ với phạm trù lễ với các nhà nho khác cùng với quan điểm của một số
giáo sư, tiến sĩ trong cuộc sống hiện đại nhằm thấy được những giá trị quý
báu trong chữ lễ của Khổng Tử nói riêng và của các nhà hiền triết nói chung.
Để thực hiện mục đích đó thì bài tiểu luận cần phải thực hiện được các
nhiệm vụ sau:
3.2. Nhiệm vụ
Làm sáng tỏ được phạm trù lễ trong triết học của Khổng Tử
Liên hệ được với đời sống thực tiễn
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1.Đối tượng
Lễ trong triết học của Khổng Tử và của các nhà nho khác
3


4.2.Phạm vi nghiên cứu
Lễ được kinh điển của Nho gia ghi chép lại rất nhiều, trong Tứ Thư thì
sách Luận Ngữ Khổng Tử nhắc rất nhiều đến chữ lễ, trong Ngũ Kinh thì
Kinh Lễ là một trong những đóng góp quan trọng của ông. Lễ gồm các quy
định về nhà cửa, quần áo, xe cộ, tang ma, cưới hỏi, giao tiếp, sinh hoạt.Trong

sách Trung Dung vốn là một chương trong Lễ Ký có đoạn: Lễ nghi có 300
điều, uy nghi có 3000 điều. Xem thế nội dung nghiên cứu về lễ rất phong phú,
đa dạng
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Bài tiểu luận được dựa trên tư tưởng về phạm trù lễ trong triết học của
Khổng Tử
Dựa trên nền tảng tư tưởng triết học của Khổng Tử qua đó sử dụng các
phương pháp logic, các phương pháp cụ thể như: tra cứu, phân tích tài liệu,
phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp xử lý thơng tin...
6. ĐÓNG GÓP CỦA BÀI TIỂU LUẬN

Mong muốn giúp người đọc hiểu rõ hơn về chữ lễ trong triết học của
Khổng Tử và so sánh với các nhà nho khác để từ đó nhận thức được giá trị
của lễ, biết vận dụng, xem xét và tự đánh giá đối với chính bản thân mình.
7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI

Đề tài bao gồm: Phần mở đầu, Phần nội dung, Kết luận

4


NỘI DUNG
1. GIỚI THIỆU

1.1.Điều kiện hoàn cảnh
Khổng Tử sống ở cuối thời kỳ Xuân Thu, lúc giao thời giữa chế độ
phong kiến đang bắt đầu hình thành, chế độ tơng Pháp. Ở trong tình trạng lễ
băng nhạc hoại, những hiện tượng tranh bá đồ vương, chém giết lẫn nhau tàn
khốc xảy ra khiến xã hội đã mất hết những chuẩn tắc để duy trì các mối quan

hệ xảy ra nhiều hiện tượng thất trung. Cho nên Khổng Tử mong muốn giữa
người và người có mối quan hệ hài hịa để chế độ đẳng cấp không bị phá sản.
Khổng Tử cho rằng cục diện xảy ra ở thời của ông là do thiên hạ vơ đạo,
tức là khơng có đạo Trung Dung, khơng có chuẩn tắc đạo đức ln lý để có
thể giải quyết hài hịa các mối quan hệ xã hội thời đó cho nên phải dựa vào
Đạo Trung Dung, tìm ra những biện pháp phù hợp, giải quyết tốt mâu thuẫn
đối với mọi đối tượng trong các mối quan hệ để giữ vững được ổn định xã
hội.
1.2.Thân thế và sự nghiệp Khổng Tử
Khổng Tử được coi là bậc thánh nhân đạt đến trình độ tư tưởng vĩ đại và
thế giới tinh thần phong phú.
Thái Sử Công Tư Mã Thiên từng ca ngợi Khổng Tử: “Núi cao cúi phục,
thiên nhiên cũng kính nể ngừng khoe sắc đẹp. Thiên hạ biết không đuổi kịp
được ông nhưng luôn hướng theo ông! Từ bậc quân vương đến thường dân
lúc đó đều ca ngợi ông. Tuy chỉ là người mặc áo vải nhưng ông đời đời được
tơn vinh, những người có học đều coi ông là thầy, có thể nói ông là thánh
hiền!”
Khổng Tử (551-479 TCN) tên là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni, người
làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, nước Lỗ (nay là thành phố Khúc Phụ tỉnh
Sơn Đông)
Khổng Tử rất siêng năng học hỏi và thích chơi trị tế lễ. Ơng suốt đời tự
học, đi đâu cũng học, thấy cái gì khơng hiểu hỏi ngay
Ơng đã từng làm Uỷ Lại cho nhà họ Qúy, coi việc cân đong thóc ở
kho, coi việc ni bị dê dùng vào việc cúng tế, làm việc chăm chỉ, nghiêm

5


túc. Từ năm 22 tuổi đã bắt đầu dạy học. Năm 33 tuổi ông đến kinh đô nhà
Chu để khảo sát tế lễ ở miếu đường, sau trở về Lỗ, học trị theo học ngày càng

đơng.
Nước Lỗ có loạn Khổng Tử qua nước Tề rồi lại trở về Lỗ dạy học và
nghiên cứu sách
Khoảng 50 tuổi thì Khổng Tử được vua Lỗ mời ra làm quan Trung Đô
Tuế (cai quản kinh đơ), Đại Tư Khấu (Thượng Thư Bộ Hình), Tướng Quốc.
Sau khi vua nước Lỗ bị nước Tề mua chuộc, bỏ bê chính sự, xa rời và
nhạt nhẽo với ơng. Khổng Tử đã rời quê hương cùng đồ đệ đi chu du thiên hạ,
truyền bá đaọ lý của mình. Sau hơn 10 năm đi từ nước này đến nước khác
nhưng không ở đâu được trong dụng, không gặp được minh quân để thi hành
đạo, sau nhiều phen nguy khốn Khổng Tử về Lỗ dạy học, san định lại sách vở
cho đến cuối đời.
Đánh giá học thuyết của Khổng Tử thì Nhan Hồi (ơng là á thánh và là
học trị của Khơng Tử) nói: “Đạo của thầy trơng lên càng trơng càng thấy cao,
đục vào càng đục càng thấy rắn.”
Người đời sau cịn nói: “Đạo của thầy truyền đi khắp bốn phương, truyền
bá đến muôn đời không rứt”
2. CHỮ LỄ TRONG TƯ TƯỞNG CỦA KHỔNG TỬ

2.1.Trích dẫn những tư tưởng chứa đựng lễ
Trong chương Nghiêu viết, sách luận ngữ viết : “Không biết lễ làm sao
đứng ở cõi đời được”.
Lễ nhạc vốn là tinh hoa của trời đất, nó là bằng chứng của sự được mất
của mọi việc, chỉ có thánh hiền mới có thể chỉ huy được lễ nhạc, bình trị
được thiên hạ.
Thật vậy! Khi được Khổng Tử hỏi về ý nguyện của mình Tằng Điểm
thưa: “Khi mùa xuân đến con muốn thay đi bộ đồ mùa đơng, được khốc lên
mình bộ đồ mùa xuân thật nhẹ nhàng thoải mái cùng mọi người bơi lội, vẫy
vùng trong dịng sơng Nghi, được cùng nhau ca hát trong gió xuân, vừa đi vừa
ngâm nga những nhịp điệu vui vẻ trên đường về nhà.”
Khổng Tử nghe xong bỗng thốt lên : “Đây chính là điều mà ta hằng

mong muốn”

6


Tại sao Khổng Tử lại đồng ý với tâm nguyện của Tằng Điểm? Khổng
Tử cho rằng: xã hội ổn định, thiên hạ thái bình thì con người mới có được sự
hưởng thụ tinh thần chân chính...Và để xã hội ổn định, thiên hạ thái bình thì lễ
tiết phải được coi trọng.
Lúc sinh thời Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử: “Như nghèo mà chẳng dua
bợ, giàu chẳng kiêu căng, người như thế nhân phẩm thế nào?”
Đức Khổng Tử đáp: “Như vậy là khá xong chưa bằng người nghèo mà
vui, người giàu mà ưa việc lễ nghĩa”. Khổng Tử chủ trương mọi người hãy
“an bần lạc đạo” rằng: “Nếu phải nghèo thì hãy bằng lịng với nó chứ đừng
dua bợ, đánh mất nhân cách . Với Khổng Tử giàu hay nghèo điều đó khơng
quan trọng mấy. Cái quan trọng và cần thiết hơn là vui với đạo học và làm
theo đạo, theo lễ nghĩa. Nếu được như vậy thì theo ơng người nghèo khơng
được ốn trách, ghét bỏ cảnh phận nghèo của mình.
Khổng Tử rất coi trọng chữ lễ, ngay từ nhỏ Khổng Tử đã ham lễ và khá
công phu nghiên cứu lễ. Cuộc đời ông là mẫu mực sống theo lễ. Kinh lễ là
một phần trong ngũ kinh của Nho gia, đó là đóng góp rất lớn của ơng.
Khổng Tử suốt đời thực hành đúng lễ, đối với ông: “Chiếu trải không ngay
ngắn ta không ngồi, thịt thái không vuông miếng ta không ăn”(Hương Đảng 8,9)
Theo Khổng Tử con người phải ép mình theo lễ để làm điều nhân, lễ là
hình thức của nhân. Theo ông: Đạo trời sau Nguyên Hanh, đạo người sau
Nhân là Lễ. Hanh ứng với Lễ là thơng suốt, hội họp của cái đẹp.
Khổng Tử nói: “Khắc kỷ phục lễ, vật thi ư nhân” (Nhan Uyên 1) nghĩa là
dẹp bỏ tư dục, ép mình theo lễ là làm điều nhân. Ơng cịn nói: “Cái gì khơng
phải lễ khơng nhìn, khơng phải lễ khơng nghe, khơng phải lễ khơng nói,
khơng phải lễ khơng làm”

Trong tư tưởng của Khổng Tử thì thuật ngữ lễ được dùng khá rộng rãi: lễ
nghi, lễ tế, lễ hội, ngày lễ, lễ tết, lễ vật,lễ độ, đi lễ...
Theo Nho gia, lễ khởi thủy là nói việc thờ cúng, sau gồm những quy củ,
phong tục, tập quán, nghi thức, chuẩn mực cho mọi hành vi, đảm bảo cho gia
đình, xã hội có tơn ti trật tự. Lễ tùy nơi, tùy thời mà thay đổi cho hay hơn, tốt
hơn khơng cố chấp để trở thành thói quen đạo đức.
Lễ gồm các quy định về nhà cửa, quần áo, xe cộ, tang ma, cưới hỏi, giao
tiếp, sinh hoạt. Sách Trung Dung vốn là một chương trong Lễ Ký có đoạn: Lễ
7


nghi có 3000 điều. Xem thế nội dung các quy định về lễ rất phong phú, phản
ánh hình thức quan hệ giữa người với người.
Vai trò của lễ là rất quan trọng:
Khổng Tử nói: “Muốn dẫn dắt dân chúng nhà cầm quyền phải dùng đức
hạnh, muốn trị dân nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết, thì chẳng dân biết xấu hổ
họ lại cịn cảm hóa mà trở nên tốt lành”
Qua lời nói của Khổng Tử thể hiện sự coi trong chữ lễ trong việc trị
nước, dẫn dắt dân chúng, dùng lễ là một phương pháp rất khéo léo, tài tình, nó
có thể cảm hóa được dân chúng để họ tự nghe và làm theo.
Khổng Tử nói: “Này, nếu người bề trên chuộng lễ thì dân chẳng dám bỏ
niềm cung kính, nếu người bề trên háo nghĩa thì dân chẳng bội lễ, cơng chính,
nếu người bề trên biết tín thật thì dân chẳng dám sai ngoa trong giao ước. Nếu
nhà cầm quyền đủ lễ, nghĩa, tín như vậy thì dân ở bốn phương xa sẽ sai con
đến dể phục dịch cần chi phải học nghề cày cấy”
Khổng Tử luôn đánh giá vai trò chủ đạo của lễ trong việc xây dựng gia
đình và xã hội.
Khổng Tử nói: “Lễ chi dụng hịa vi quý”(Học Nhi 12). Gia đình, xã hội
được thực hiện, sắp xếp theo một trật tự nhất định sẽ tạo nên bản nhạc hay.
Nếu khơng có lễ thì thiên hạ đại loạn như những nốt nhạc hỗn lọan vậy.

2.2. Vai trị của lễ
2.2.1. Lễ hình thành đức tính, tình cảm tốt đẹp của người có nhân
Tử Hạ nói: “Khéo cười chúm chím vậy! Mắt đẹp long lanh vậy! Nghĩa là
thế nào ?
Khổng Tử noi: “Vẽ sau khi có nền trắng”
Tử Hạ hỏi: Lễ ở sau chăng? Khổng Tử nói: trị phát khởi được ý của ta!
(Bát Dật 8)
Như thế người ta như nền giấy trắng theo lễ như vẽ lên đó cái đẹp
Về tế lễ Khổng Tử cho rằng: Qua đây hình thành tình cảm tốt đẹp, có
hậu, thể hiện lịng thành kính với tổ tiên trời đất. Tế lễ phải có lễ vật nhưng
khơng cầu kỳ. “Trong các lễ xa xỉ không bằng tiết kiệm, lễ tang đầy đủ khơng
bằng thương xót” (Bát Dật 4). Cách ăn mặc khi tế lễ phải nghiêm trang gọn
nghẽ, không xa xỉ khoe của.

8


Từ đây thể hiện cách cư xử đứng đắn ,noi gương cha ông và các bậc tiền
bối, làm điều tốt lành lúc nào không biết. “ở chỗ mồ mả chưa dạy dân phải
thương xót mà tự nhiên dân có lịng thương xót, ở chỗ xã tắc tơng miếu chưa
dạy dân. Phải kính mà tự nhiên có lịng thành kính”
“Tế tự từ đời xưa theo lịng thành thì đức của dân trở nên thuần hậu vậy
(Học Nhi 9)
Vua cũng phải biết lễ (Thuật Nhi 30). Khổng Tử khen vua Vũ có lễ rất
hậu, ta không thể chê vào đâu được (Thánh Bá). Theo lễ xã hội tốt đẹp
quân lệnh thần cung phụ từ tử hiếu phu hịa thê nhu, cơ từ phụ thính, lễ giã”
nghĩa là vua ra lệnh bề tơi cung kính thi hành, cha nhân từ, con có hiếu,
chồng khoan hịa, vợ mềm mỏng nín nhịn, mẹ chồng hiền từ, nàng dâu nghe
lời đó là lễ vậy.
Qua việc tế lễ Đức Khổng Tử đã dạy tất cả mọi người ở những địa vị

khác nhau, quân - thần, vợ - chồng, cha - con. Những quan hệ này phải phụ
thuộc vào lễ, phải hiểu lễ thì mới hình thành được tình cảm tốt đẹp, có hậu.
Ở Trung Quốc lễ thực hiện ở nhiều lĩnh vực: lễ của đạo làm vua, lễ
của bề tơi, lễ của thầy trị, lễ của thần dân, lễ của người làm con, chủ và
khách, cưới xin, tang ma, đứng ngồi, ăn uống. Theo lễ thì tốt đẹp, hình thành
văn hóa lễ...
2.2.2. Lễ giữ tình cảm và hành vi của đạo nhân
Lễ giúp chế ước hành vi ở đạo Trung Dung không thái quá, không bất
cập để giữ đạo nhân
Cung kính mà khơng có lễ thì phiền và khó nhọc
Cẩn thận mà khơng có lễ thì sợ hãi, nhút nhát
Dũng mà khơng có lễ thì loạn động
Trực mà khơng có lễ thì vội vã nóng nảy.(Thái Bá 2)
Mọi hành vi đều theo lễ.
Khi trả lời Nhan Uyên, Khổng Tử nói cái gì khơng phải lễ khơng nghe,
khơng nhìn, khơng nói, khơng làm (Nhan Un1).
Đạo đức nhân nghĩa mà khơng có lễ khơng thành.
Dạy bảo sửa đổi phong tục khơng có lễ khơng đủ.
Xử việc tranh chấp kiện tụng khơng có lễ khơng quyết.
Vua tơi, cha con, anh em khơng có lễ khơng định.
9


Học làm quan thờ thầy có lễ khơng thân.
Xếp đặt ngơi thứ trong triều đình, cai trị qn lính, làm quan thi hành
pháp luật khơng có lễ khơng uy nghiêm.
Cầu khấn tế tự khơng có lễ là khơng thành kính.
Người qn tử dung mạo phải cung kính giữ gìn pháp độ, tiến thoái sao
cho sáng rõ lễ.
Thật vậy! Lễ giúp chế ước các hành vi của con người, lễ cùng với hành

vi cung kính, cẩn thẩn, dũng, trực tạo nên nhân cách của một người, tạo nên
cách cư xử, tạo nên phẩm chất của một người.
Lễ định ra lẽ phải trải thân sơ trật tự trên dưới,phép tắc tổ chức luân lý
gia đình và xã hội, phân biệt phạm vi của mỗi người. Khơng có lễ sao biết thờ
trời đất, đạo vua tôi, nghĩa vợ chồng, trai gái, anh em, bè bạn.
Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử: Thế nào là lễ? Khổng Tử trả lời đại ý: xã hội
có thể duy trì thì phải lấy lễ làm đầu. Khơng có lễ thì khơng có cách nào phân
chia làm rõ được các địa vị khác nhau như vua quan, già trẻ, cha con, anh em.
Sống theo lễ có tình cảm đơn hậu, nhân dân an cư lạc nghiệp. Nhà cầm quyền
lấy lễ giáo dục dân, đồng thời phải gương mẫu thực hiện lễ. (Lễ Ký - Ai Công
Vấn).
Một lần Khổng Tử đến nước Vệ. Nàng Nam Tử là vợ vua Vệ Linh Cơng
lộng quyền, có tính lẳng lơ mời Khổng Tử, ông đã đến thăm. Học trò là Tử Lộ
không bằng lòng tỏ ý xấu hổ khi thầy đến thăm người đàn bà ấy. Khổng Tử
thề rằng: “Nếu ta đến thăm khơng hợp lễ thì trời bỏ ta! Trời bỏ ta!”(Ung Dã
26)
Điều đó nói lên được: Khổng Tử ln gắn liền với Lễ, ông suốt đời thực
hành theo lễ, không bao giờ làm trái Lễ.
2.2.3. Lễ chế ước cái thường tình của con người
Khổng Tử nói: “Người quân tử học rộng về văn chương mà không ước
thúc bằng lễ thành ra hư xấu. Học rộng lại giữ lễ làm quy củ noi theo sẽ
khơng trái đạo lý.”
Cái thường tình của con người là ham ăn uống, trai gái, sợ nghèo hèn.
Thừa dễ sinh xa xỉ, thiếu dễ sinh bủn xỉn, keo kiệt phải dùng lễ chế ước mới
không làm việc hư xấu, ẩm thưc phải có hạn lương, y phục phải có tiết chế,
nhà cửa phải có pháp độ, xe cộ có ngữ hạn.
10


Trong lễ ký có đoạn ghi đại ý: trai gái không được ngồi chung hỗn độn,

quần áo không theo chung một giá, đồ dùng không lẫn lộn, đưa đồ vật khơng
được phép chính tay. Nếu chưa có mai mối trung gian không được tự ý trao
đổi tên tuổi cho nhau, không được phép qua lại thân cận với nhau.(Lễ KýKhúc lễ)
Khổng Tử chê Quản Trọng là người xa xỉ, về nhà cửa ăn uống như nghi
thức của vua là tiếm lễ, không biết lễ, họ Qúy dùng 8 hàng nhạc múa (bát dật)
như Vua là tiếm lễ nhạc của Vua. Nếu như việc ấy nhẫn tâm làm được thì việc
gì lại khơng có thể làm được như giết cha, giết Vua.
Trong hoàn cảnh đất nước loạn lạc, chiến tranh liên miên, thiên hạ đại
loạn, muôn dân điêu linh khổ cực có câu: Lấy xương người làm củi đun, đánh
đổi con cho nhau ma ăn thịt (dị tử như thực, chiết hài nhi suy) thì cách cư xử
lễ như Quản Trọng có nên chăng? Vì vậy từ cách cư xử lễ đó Đức Khổng Tử
nói lên được tích cách, phẩm chất thì quả có điều đúng!
Cái thường tình của con người là tình cảm vui vẻ, ham muốn yêu thương,
hờn giận, ghét bỏ, buồn bã. Nếu khơng có lễ chế ước sẽ quá đáng, trái đạo
nhân, quá tham lam hờn giận dễ sinh ra kiện tụng.ở sách Đại Học, Khổng Tử
nói: “Xử kiện thì ta cũng như người, phải làm sao đừng có kiện tụng, phải
dùng lễ giáo hóa cho dân khỏi kiện tụng”. Lễ giữ được hòa thuận, bỏ tranh
chấp.
Khổng Tử rất bất bình và có thể phạt kẻ vơ lễ. Chẳng hạn có lần Nguyên
Nhưỡng khi chờ đợi ngồi xổm, ơng lấy gậy đánh vào chân Nhưỡng. Phải
chăng vì thế mà ơng nói: “mắng giận để cải hóa dân chúng là phương pháp
kém nhất ”.(Hiến Văn 46, Trung Dung).
Trên đây là quan niệm của Khổng Tử về Lễ. Theo ông, một trong các
nguyên nhân của tình trạng đời suy đạo hỏng là khơng có lễ. Ơng xây dựng
phạm trù lễ mang đậm tính nhân văn, mong cứu đời, giúp cho xã hội hòa
mực. Tuy vậy các chuẩn mực về lễ của ông là lễ của quý tộc, kẻ sĩ. Giai cấp
thống trị phong kiến Trung Quớc đã sử dụng lễ với nhiều giáo điều nghiệt ngã
nhằm duy trì trật tự xã hội, bảo vệ địa vị thống trị của họ. Có ý kiến cho rằng
từ đời nhà Hán đã hình thành 2 loại Nho: Nho kẻ sĩ và Nho vua quan. Theo lễ
của Nho vua quan,thần dân trở nên khúm núm, hèn mọn. Vua quan với nhau


11


thì khách sáo mất đi thành thực, che giấu mưu mơ thủ đoạn chính trị hơn là
tơn kính nhau. Lễ củng cố quan hệ thống trị và bị trị.
“Lễ” trong tư tưởng của Khổng Tử rất sâu sắc, đầy đủ, hướng con
người đến điều chân – thiện - mỹ mà trong xã hội hiện đại con người phải làm
theo.
Bằng việc thực hiện lễ với chính mình, Khổng Tử đã dạy người đời
những giá trị quý báu của Lễ. Từng giá trị đó được thể hiện qua ý tứ trong rất
nhiều câu nói của ơng.
Khổng Tử nói: “Ở triều đình thì tơn kính các bậc cơng khanh, ở nhà thì
hiếu đễ với cha anh, găp việc tang chẳng giám khơng có lễ tiết cho chu tồn,
rượu chè khơng đến nỗi q say mà lèm nhèm. Những việc đó, ta đã làm được
việc nào chăng?
Ta biết Khổng Tử thường nêu ra bốn yêu cầu nghiêm khắc để tự giám
sát, điều chỉnh mình. Đó là ở triều đình thì tơn kính các bậc cơng nhanh, ở nhà
thì hiếu đễ với cha anh, gặp việc tang chẳng giám khơng có lễ tiết cho chu
tồn, rượu chè không đến nỗi quá say mà lèm nhèm. Khổng Tử lúc nào cũng
tự nhắc nhở, tự kiểm điểm mình về bốn mặt là ln ln khơng vi phạm điều
nhân, giữ được mình là người có đạo đức cao thượng.
Khổng Tử ngồi trên bờ sơng nói: “Thời gian giống như nước sông vậy,
ngày đêm không ngừng trôi”.
Câu này Khổng Tử nói về tình trạng của Đạo (quy luật khách quan).
Trong trời đất, hết nóng thì đến lạnh, mặt trời lặn thì mặt trăng mọc, vận động
khơng ngừng. Nhỏ như hạt cát, to như mặt trời, tất cả muôn vật trong vũ trụ
đều phát triển vận động không ngừng và biến đổi. Quan sát sự biến đổi vận
động của tự nhiên thì dễ dàng nhất, rõ ràng nhất là dịng chảy của con sông,
nước chảy mãi không ngừng. Con người nên tôn trọng quy luật phát triển của

thế giới khách quan, nên phấn đấu không ngừng, tự cường không nghỉ. Đem
tư tưởng đó vận dụng vào tu dưỡng tâm tính là lúc nào cũng xem xét, điều
chỉnh mình, ln ln như dịng nước chảy, khơng để lúc nào bị gián đoạn.
3. CHỮ LỄ TRONG TƯ TƯỞNG CỦA CÁC NHÀ NHO KHÁC

Lễ khơng đồng nhất hay chỉ có một ý nghĩa duy nhất trong quá trình diễn
biến của Nho giáo. Với diễn biến lịch sử, chữ lễ đã biến đổi từ thời Chu đến
thời Tống Minh, từ tư tưởng phương Bắc đến tư tưởng phuơng Nam. Có rất
12


nhiều lý do giải thích sự biến đổi của lễ nghi và ngay cả tinh thần của lễ, từ
việc Khổng Tử coi lễ như là bản tính khiến con người khác với vạn vật, cho
tới những nhà Tống nho coi lễ chỉ là lối sống của giai cấp thống trị...Thế nên
ta thấy một cái nhìn tổng quát về sự biến đổi của lễ và nhất là sự biến hóa của
lễ trong đời sống của người Việt. Sau đây là sự trình bày ngắn gọn qua các
sách kinh điển. Lễ trong Luận ngữ, lễ nơi Tuân Tử, lễ trong Mạnh Tử và lễ
trong Lễ Ký.
3.1. Lễ trong Luận Ngữ
Trong Luận Ngữ Khổng Tử thường nhắc rất nhiều đến chữ lễ. Có thể nói
trong mỗi chương đều có nhiều đoạn bàn về chữ lễ, có khi thụ động giảng
giải, có khi thụ động trả lời các câu hỏi của đồ đệ liên quan đến lễ. Ta có thể
phân chia ý nghĩa của lễ theo những phạm trù sau:
Thứ nhất: Lễ là phương cách biểu tả hịa khí và như vậy nó có thể tề gia
trị quốc. Hữu Tử một đồ đệ của Khổng Tử nói: “Lễ chi dụng, hịa vi q. Tiên
vưong chi đạo, tư vi mỹ, tiểu dạ do chi. Hữu sở bất hành. Tri hào nhi hòa, bất
dĩ lễ tiết chi, diệc bất khả hành giã.” nghĩa là: Công năng của lễ cốt ở thực
dụng tạo ra điểm hòa hợp là cái q nhất. Chính vì vậy mà các bậc Tiên
vương đã coi việc áp dụng lễ như là việc cao quý, và giải quyết mọi việc lớn
bé theo nghi lễ quy định. Nếu chỉ có tinh thần hịa hợp mà khơng có lễ thì khó

mà thành cơng được.
Thứ hai: Lễ biểu hiện chính nền đạo đức. Theo Khổng Tử căn bản của lễ
khơng có chi khác hơn là chính nền đạo đức. Đạo nhân, đạo nghĩa và tín trong
khi lễ là một phương thế biểu hiện những đức tính trên.
Thứ ba: Lễ là những nghi thức mà ta phải theo, tùy theo nơi chốn, tùy
theo địa vị, tùy theo tương quan giữa chúng ta với những người ta gặp. Trong
chương Thuật Nhi, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh tới nghi thức cũng như thái
độ ta phải có khi cúng tế, khi thụ tang, khi gặp thiên tai,...Chính vì ngài nhấn
mạnh tới nghi thức cũng như thái độ mà đa số nho gia đã hiếu đễ như là nghi
lễ, nghi thức, hay quy luật mà ta phải theo khi cúng tế, khi tổ chức hôn lễ, khi
tham gia vào việc cơng, khi sinh con đẻ cái, khi có tang ...
Thứ tư: lễ nhạc coi như là nghi lễ, nghi thức, nghi pháp. Nhưng theo
Khổng Tử ông không nghĩ vậy mà theo ơng lễ đó chính là cả một lối sống

13


tồn diện, lối sống mà ta phải theo để có thể bảo tồn sự sống và xã hội. Vậy
theo lễ là theo cái lẽ phải, hợp lễ nghĩa là hợp với bản tính vốn có.
3.2. Lễ trong tư tưởng của Mạnh Tử
Mạnh Tử là người đầu tiên gắn liền chữ nghĩa với các đức tính khác của
nền đạo đức Nho gia: nhân nghĩa, lễ nghĩa, đạo nghĩa, tín nghĩa ...Thầy chủ
trương lấy nhân nghĩa làm nền tảng cho tất cả nền đạo đức. Ta hãy chú tâm
đến ý nghĩa của chữ lễ nghĩa khi ghép lễ nghĩa với nhau. Lễ khơng chỉ cịn là
những phương thế hay quy tắc hay chỉ là một tinh thần như một cái thước đo
lường, cái thước xuất phát từ nội tâm nhưng có thể đo được con người nhờ
vào hình thức bên ngồi. Nói cách khác nếu nhân là cái bản chất của đạo đức
thì nghĩ là cái thước đo, là cái mức, là cái hình mà chỉ theo đó ta mới nhận ra
được nhân. Thí dụ: Cùng một hành động bố thí, thì bố thí cho người nghèo là
người có lịng nhân, nhưng cho tiền người dư giả thì vơ nghĩa, đem tiền tặng

gái làng chơi hay xa xỉ là phí phạn, mà đút tiền cho tham quan ơ lại thì thất
nhân. Sự phân biệt nơi đây dựa trên nghĩa. Vậy thì ta chi nhận ra được lòng
nhân, và chỉ thi hành đạo nhân một cách chính xác nếu chúng ta hiếu được
nghĩa.
Tương tự như vậy lễ chỉ là những hình thức, nghi thức. Nhưng nếu
những nghi thức đó áp dụng sai hay cho những người khơng xứng đáng thì
một nghi lễ như vậy mất hết cả ý nghĩa của nó và nó không thể phát huy được
tinh thần của lễ, tức biến con người thành một con người đạo đức (quân tử).
Vậy nên Mạnh Tử mới buộc lễ phải luôn đi cùng với nghĩa, nhân phải có
nghĩa và ngay cả đạo cũng cần phải có nghĩa mới có thể thực hiện được.
Tiếc thay tư tưởng của Mạnh Tử bị trường phái của Tuân Tử đả kích bởi
lễ Tuân Tử cho rằng bản tính của con người vốn ác (ơng chủ trương trái
ngược với Mạnh Tử) thì lễ chưa đủ để kiềm chế bản năng con người. Ta cần
phải có những pháp luật mới có thể đạt được cái mục tiêu giáo hóa con người.
3.3. Lễ trong tư tưởng của Tuân Tử
Từ một nền tảng siêu hình coi bản chất của con người vốn ác Tuân Tử
chủ trương nhiệm vụ chính đáng của Đạo nho là giáo hóa khiến con người
hành thiện.Và như thế Tuân Tử hiếu lễ gần như pháp luật, hay như là một
phương thế hữu dụng nhất để đạt được mục đích trên. Theo ơng lễ được áp
dụng để trị tính bản ác, để làm điều kiện hay quy tắc quy định sinh hoạt của
14


mỗi người trong xã hội. Lễ cũng là một phương thuốc để kiềm chế dục vọng
và quan trọng hơn cả lễ phải là một mực thước quy định rõ ràng để xác định,
phân chia quyền lợi cũng như nhiệm vụ cho mọi người. Nói chung Tuân Tử
cho rằng lễ là một loại pháp luật tốt nhất, một phương thức có hiệu quả nhất
để bảo tồn trật tự xã hội, để cải hóa bản tính của con người và lễ dĩ nhiên để
bảo vệ quyền lợi của giai cấp lãnh đạo. Chúng ta thử đọc một luận cứ của
Tuân Tử

Căn nguyên của lễ ở đâu? Tôi xin trả lời rằng mọi người sinh ra
đều có ước muốn, nếu khơng thỏa mãn được người ta sẽ tìm đủ mọi cách để
thỏa mãn. Nếu chúng ta không đặt ra những hạn chế và có những biện pháp
để điều chế ham muốn của họ thì khó mà khơng thể xảy ra những bất đồng
mà từ bất đồng sẽ xảy ra vô trật tự, và từ vơ trật tự sẽ trở thành nghèo đói. Các
bậc thánh vương đã nhận ra tai họa của vô trật tự nên đã thiết lập lễ và dạy dỗ
dân chữ nghĩa với mục đích giúp người dân nhận ra giới hạn cũng như trách
nhiệm khi đi tìm thỏa mãn ước vọng trên, các bậc đế vương phải tìm cách
nào để ước vọng của con người đừng có đi quá đà, vượt khỏi những phương
tiện và làm cách nào để thỏa mãn ước vọng vật chất căn bản của mỗi con
người. Chính vì vậy mà cả ước vọng lẫn lễ phải bổ túc cho nhau. Đây chính là
căn nguyên của lễ. Về công năng của lễ như là nguyên tắc để ban phát bổng
lộc, quyền lợi cũng như trách nhiệm, Tuân Tử viết: “Người có đức đương
nhiên phải có một địa vị tương xứng và có địa vị thì đương nhiên phải có
bổng lộc xứng hợp. Mà bổng lộc xứng hợp thì đương nhiên phải xứng với
cơng làm ra.”
Nói tóm lại Tuân Tử rất lạc quan về vai trò của chữ lễ, coi nó như là một
vị thuốc vạn năng, có thể “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ được ”. Lễ đối với
việc quốc gia như quả cân và cán cân đối với sự nặng nhẹ, như giấy và mực
đối với đường thẳng và đường cong. Cho nên “người mà khơng có lễ thì
khơng sinh, việc mà khơng có lễ thì khơng nên, quốc gia mà khơng có lễ thì
khơng yên.”
3.4. Lễ trong Lễ Ký
Như chúng ta đã biết thì Lễ Ký là một tập sách được nhiều Nho gia thời
Hán (cả tây Hán lẫn đông Hán) viết ra hay nói đúng hơn họ sao chép lại ý

15


kiến của tiền nhân về lễ (từ các kinh điển như Kinh Lễ, Luận Ngữ, Đại Học,

Trung Dung, Mạnh Tử và cả Tn Tử.Trong Lễ Ký có các cơng năng:
Thứ nhất: lễ là một phương thế đào luyện tình cảm khiến cho con người
hòa nhã. Các tác giả Lễ Ký chủ trương một khi có tính tình hịa nhã thì con
người mới có thể hịa nhã được, con người mới có thể thành người đạo đức
được (lý thuyết này dựa trên lý thuyết tu tâm của Đại Học)
Thứ hai: lễ là một cái thước đo lường điều phải điều trái. Lễ xác định trật
tự trên dưới trước sau, cũng như sự quan hệ phải có giữa mọi người
Trong Lễ Ký ta đọc thấy: “Phù lễ giả, sở dĩ định thân sơ, quyết hiếm khi,
biệt đồng dị, minh thi phi dã, nghĩa là đối với người có lễ thì lễ dùng để xác
định, phân biệt tình thân thiết khác với tình xa lạ, lễ cũng xác quyết được cái
gì xác đáng khỏi cái gì đáng nghi ngờ, cũng phân biệt được cái điều giống
nhau với điều khác nhau và minh xác về điều phải, trái.
Thứ ba: Lễ là quy tắc khiến người ta phải luôn tuân theo đạo trung, tức
cái nền đạo lý ln đúng và vì thế tránh được những quá khích, quá lố, cực
đoan: “Lễ giã nhân dân chi tình nhi vi chi tiết văn, nhĩ vi dân phường giả dã ”
Ta thấy vai trò của lễ trong Lễ Ký bị hạn hẹp vào trong cái công năng
giúp con người. Xã hội kìm hãm được những điều mà họ ham thích nhưng
khơng được phép làm mà thơi. Điều đáng nói là khi hiếu lễ như vậy thì lễ
khơng khác chi pháp luật là bao. Nếu có chỉ khác biệt thì cũng chỉ là thời
điểm: “Lễ đề phịng khơng cho ta làm những điều trái, trong khi pháp luật
đem lại trật tự.” Nhưng một khi chúng ta đã có những hành động sai đạo lý:
“Lễ giả cấm ư tương nhiên chi tiền, nhi pháp giả cấm ư, dĩ nhiên chi lâu”
nghĩa là người giữ lễ có thể phịng trước khơng để xảy ra những gì sẽ xảy ra.
4. LỄ VÀ CUỘC SỐNG THEO LỄ

4.1. Ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam
Với tư cách là một học thuyết chính trị - đạo đức, Nho giáo đã ảnh
hưởng hết sức sâu sắc và lâu dài tại Việt Nam. Trong suốt hơn nghìn năm đơ
hộ các thế lực phong kiến phương Bắc đã sử dụng Nho giáo làm cơng cụ để
đồng hóa dân tộc Việt Nam. Khơng chịu đồng hóa dân tộc Việt Nam đã đứng

lên chống lại ách đô hộ và hệ tư tưởng Nho giáo để xây dựng xã hội phong
kiến và bảo vệ lợi ích của các vương triều tịng tộc người Việt. Đó là lý do vì
sao suốt thời kì Bắc thuộc Nho giáo đã khơng bám rễ được vào mảnh đất Việt
16


Nam nhưng nó lại được tiếp thu ngay sau khi dân tộc Việt Nam giành được
độc lập vào thế kỷ X. Đối với Nho giáo, người Việt đã trải qua một quá trình
“từ phản ứng đến tiếp thu, từ xa lạ đến gần gũi, từ công cụ của kẻ bên ngồi
trở thành cơng cụ của bản thân mình. Có thể nói, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX
Nho giáo đã có ảnh hưởng sâu đậm trong xã hội Việt Nam, đã góp phần tạo
dựng diện mạo của dân tộc Việt Nam trong việc xây dựng xã hội phong kiến,
các triều đại phong kiến đã dành cho Nho giáo địa vị ngày một quan trọng
trong hệ tư tưởng chính thống. Từ thế kỷ XV đên thế kỷ XIX đó là địa vị độc
tôn.
Lễ trong Nho giáo ảnh hưởng rất lớn đến các nghi lễ cũng như các
chuẩn mực đạo đức ở nước ta. Cụ thể:
4.2. Lễ và cuộc sống theo lễ trong xã hội Viêt Nam
Trong ngôn ngữ Việt, lễ hiếu diện một cách rõ rệt hơn bất cứ ngôn ngữ
nào trên thế giới, lối xưng hô với cùng một người luôn thay đổi tùy theo từng
địa vị, tùy theo liên hệ, tùy theo sự cách biệt, tùy tầm quan trọng. Lối xưng hơ
như vậy là một ví dụ điển hình ngơn ngữ Việt dựa theo lễ: với một người
khơng quen ta có thể xưng hơ với người đó: thưa, bẩm nói với cụ, ơng, bác,
chú, ngài, cậu, mày...Với một người mà ta kính trọng, lễ địi buộc phải tơn
kính hơn: kính thư, trọng kính đức cha(đức ơng), cụ, ngài.
Trong ngơn ngữ tơn giáo, ta dùng những từ như: kính, vái, lạy, thờ, quỳ
lạy, phủ phục...Rồi đối với thánh nhân, thần linh, và ngay ma quỷ chúng ta
cũng có những ngôn ngữ khác nhau để biểu tả cái lễ (tâm tình) của mình. Lối
xưng tụng “Đức” biểu tả cái lễ ta dành cho những vĩ nhân, những đại anh
hùng dân tộc và đặc biệt cho các bậc giáo chủ và thần thánh.Trong xã hội

Việt, từ Đức chỉ dành riêng xưng tụng thần thánh, các nhà lãnh đạo tôn giáo,
hay những bậc thánh nhân, những vị anh hùng, những đại triết gia mà thơi.Ví
dụ: Đức Khổng Tử, Đức Kitơ, Đức Bà, Đức Mẹ, Đức Chúa, Đức Trần Hưng
Đạo (Thánh Trần), Đức Giáo Hồng...
Nếu trong ngơn ngữ, chữ lễ giữ một tầm quan trọng như vậy, thì trong
chính sinh hoạt tơn giáo nó càng rõ rệt hơn. Trong tất cả các đạo giáo ở Việt
Nam, từ những đạo giáo du nhập ngoại quốc như Phật, Khổng, Lão và Thiên
Chúa Giáo cho tới những tôn giáo được coi là thuần túy dân tộc như đạo Dân
gian, đạo thờ ông bà và gần đây hai đạo Cao Đài và Hòa Hảo. Ta thấy Lễ
17


mang một vai trị quan trọng khác thường mang tính chất toàn diện siêu nhiên.
Lễ chỉ những buổi hội họp quan trọng để tưởng nhớ, mừng vui, để nhận nhau,
cố võ, hiệp thông và hướng về tương lai. Lễ cũng nói lên những hành vi mà
người Việt theo và giữ để xử lý với trời đất và đồng loại tùy theo tôn ti trật tự
(nghi lễ). Lễ càng chỉ ra những cách thế, những quy luật,những “tục, những
“tắc”, những “quán”, tức những phương thế hữu hiệu, những cách thế dân tộc
được truyền qua bao thế hệ. Và lễ dĩ nhiên, với nghĩa nói lên cái nhân cách
của con người “Đỉnh Thiên Lập Địa” khiến con người đồng lòng với Trời và
Đất.
Người Cơng giáo Việt đã dùng chữ lễ để nói lên sinh hoạt tôn giáo, thờ
phụng Thiên Chúa của họ. Đối với họ: đi lễ, xem lễ, dự lễ rồi kính các thứ lễ
(Lễ kính Đức Mẹ, lễ kính các Thánh..) khơng chỉ nói lên hành vi tham dự một
cuộc tụ họp, một bữa tiệc hay một cuộc hội họp (theo nguyên nghĩa của
missa, messe) mà còn hơn thế nữa nói lên chính cuộc sống kết hợp với giới
linh thiêng. Tương tự tín đồ Phật giáo Việt cũng đã có những lối nhìn tương
tự khi họ lễ hóa các nghi thức, lối sống cũng như cách tổ chức ví dụ thấy
trong giáo hội Phật giáo Đại Thừa. Tuy chưa có giờ và tài liệu tra cứu xem
ông cha chúng ta đã định chữ missa ra từ lễ và vào thời nào chúng ta có thể

biết chắc rằng lối dịch này phản ánh trọn vẹn tâm tư và lối sống của người
Việt chúng ta. Lễ nơi đây không chỉ là lễ nghi hay nghi thức phục vụ mà phải
là lễ nghĩa tức cuộc sống của con người đối với Thượng đế qua ngôn ngữ
hành vi, phẩm phục hay qua những nghi thức. Tương tự lễ đã biến thành một
phần bất khả phân ly trong cuộc sống của Phật đồ, phật đồ lễ (bái, tiết) phật.
Họ có những buổi lễ như là lễ Vu Lan, lễ Phật Đản và các lễ tương tự. Lễ đối
với họ nói lên việc họ sống chính cuộc sống của mình bằng cách hiệp nhất với
tinh thần của Đức Phật. Và quả thật Công giáo hay Phật giáo đã phản ánh lối
sống của họ trong hành vi lễ, bái, kính, tơn. Bái (xá) tổ tiên, làm lễ giỗ tổ, thờ
kính ơng bà, bái những bậc tiền bối...Tuy vốn không hợp lệ với nghi thức hay
luật phục vụ của Kitơ giáo và có lễ của Phật giáo nhưng chúng lại phản ánh
trung thực cái tinh thần, đúng lễ của các đạo giáo trên.
Trong đạo dân gian chúng ta có rất nhiều lễ từ Thanh Minh (tảo mộ), tới
Thánh Gióng, từ hội tới lễ làng, từ lễ giỗ tới lễ ăn mừng, khao vọn... Nơi đây
lễ không chỉ dành ho thần thánh mà cho tất cả mọi người, mọi vật. Thánh có
18


lễ của Thánh, người dân thường có lễ của người dân thường, phường trộm cắp
có lễ của phường trộm cắp. Nói tóm lại trong bất cứ tơn giáo nào ở Việt Nam,
trong bất cứ lối sống nào của dân Việt chúng ta đều thấy là chữ lễ mang tính
chất tồn diện của cuộc sống con người. Và do đó chúng ta có thể tạm trả lời
cho câu hỏi nếu lễ là quy luật thì nó phải là quy luật sống chứ khơng phải là
những loại luật pháp như hình luật hay loại luật không hẳn liên quan đến cuộc
sống con người.
Trong lối sống tổ chức xã hội Việt lễ cũng giữ một vai trị quan trọng
khơng kém . Từ thơn xóm tới làng xã rồi từ đơ thị tới kinh đô, tất cả đều theo
một “tôn ti trật tự ” biểu hiện qua các lễ phép, bổng lộc được trả theo cái tôn ti
này. Lễ phục, phẩm phục cũng được trả theo phẩm trật. Và một thời thì kiến
trúc, nhà ở cũng theo một quy tắc, chuẩn mực rõ rệt. Trong phẩm quan thì từ

đệ nhất phẩm xuống tới cửu phẩm, trong dân gian từ dân đinh lên tới lý
trưởng ta thấy có những lễ nghi quy định. Thời bình là một thời mà người ta
trọng lễ và giữ lễ, trong thời loạn mới thấy sự sa đọa của tôn ti trật tự và thiếu
lễ nghĩa mà thôi.
Từ những nhận định trên chúng ta có thể thấy là thứ nhất chính ở sự nhận
thức ra sự khác biệt giữa lễ như là một loại luật pháp và lễ như là quy luật của
cuộc sống mà người Việt luôn dùng lễ đi với chữ nghĩa, lễ nghĩa. Đây chính là
một điều mà chúng ta ít thấy trong nền văn hóa phương Bắc. Thứ tới người
Việt đã việt hóa những quan niệm triết học của người phương Bắc (Hán,
Tống, Minh, Thanh) bằng chính lối sống của họ để biểu hiện một cuộc sống
toàn diện, ăn sâu vào trong cuộc sống của mọi người. Và như thế lễ không chỉ
dành cho môt giới, một giai cấp hay một nhóm người nào. Lễ là cái dấu ấn, là
tín hiệu và là hình thức của con người Việt. Và như vậy người Việt đã tạo ra
một đạo Nho (Việt Nho) cho riêng mình. Việt Nho khơng hồn tồn đồng nhất
với Tống Nho, Minh Nho, Tống Nho, Thanh Nho... Nó mang tính chất đặc
biệt của người Việt, của thế giới Việt. Để chứng minh lối sống hay này tức
những cố gắng việt hóa đạo Nho, đạo Phật cũng như đạo Kitô giáo của người
Việt, chúng ta bắt đầu với những quan niệm lễ trong những kinh điển của Nho
giáo, đặc biệt trong các bộ Luận Ngữ, Lễ Ký cũng như phần nào trong tư
tưởng của Tuân Tử. Phải bắt đầu từ những tu tưởng trên bởi lẽ tư tưởng Việt
của chúng ta đã từng bị ảnh hưởng của họ và phải hiểu nội dung của chữ lễ
19


trong các kinh điển trên chúng ta mới thấy được sự khác biệt giữa phương
Nam và phương Bắc.Sau phần tìm hiểu phần thứ hai là phân tích chữ lễ trong
nền văn hóa Việt mục đích để tìm ra sự biến đổi của những nền tư tưởng trên
khi nhập vào đất Việt.
4.3. Một số quan điểm về chữ lễ trong thời đại ngày nay
Theo GS Văn Như Cương – hiệu trưởng trường THPT dân lập Lương

Thế Vinh - Hà Nội: chữ lễ thời xưa... xưa quá rồi. Quan hệ thầy trò giờ bình
đẳng hơn và chữ lễ được hiểu với đạo đức tốt, sống theo pháp luật.
Ông Nguyễn Văn Ngai - phó giám đốc sở GD và ĐT TPHCM cho rằng:
truyền thống của cha ông ta từ ngàn đời đến nay đều rất coi trọng chữ lễ. Điều
này có từ lâu đời và nhất thiết phải được duy trì bền vững. Mỗi thời đại có sự
thay đổi nhất định nhưng lễ nghĩa thì vẫn ln có những nét thay đổi như
ngày xưa. “Lễ của trị ngày nay phải là kính và phục”
TS Nguyễn Đức Nghĩa phó giám đốc ĐHQG TPHCM nói: Theo quan
điểm Đơng Phương giữa thầy và trị có lễ nhưng phải theo hai chiều. Trị đối
với thầy kính trọng, lễ phép, thầy đối với trò phải làm đúng chức năng yêu
thương, tận tâm hết mực. Ngày nay điều ấy có thể bị tri phối bởi vật chất, tinh
thần nhưng về sâu xa thì cái lễ ấy vẫn như ngày xưa. Ngày xưa trị đối với
thầy là kính và sợ, điều ấy bởi tuổi tác giữa thầy và trò chênh lệch quá xa,
nay thì tuổi tác bị thu hẹp lại gần, dẫn đến học trị ngày nay chuyển thành kính
và phục hơn là sợ. “Dạy tử tế, học tử tế ấy là chữ lễ ”
Thầy Văn Giá - trưởng khoa lý luận và phê bình sáng tác trường ĐH Văn
Hóa cho rằng: Quan hệ giữa thầy và trò gần gũi, thân mật hơn trước. Ngày
xưa học trị với ơng thầy (thầy đồ ) khoảng cách xa một trời một vực. Học trị
khơng làm bài, nói chuyện, thưa gửi khơng phải phép là bị đánh cho tơi bời,
học sinh sợ khiếp vía. Bây giờ chẳng những khơng bao giờ có roi vọt mà lại
cịn thân tình, thân mật.
Ngày hơm nay khơng chỉ có trị hư mà cịn có cả một số thầy hư. Chẳng
hạn gạ tình lấy điểm, gợi ý nhận phong bao, phong bì, thù vặt học trị, lừa học
trị đến nhà học thêm ...
Nghĩ kể cũng buồn lắm! thôi thì ai làm người ấy chịu. Một chữ lễ chung
cho cả thầy và trò thời nay là dạy cho tử tế, học cho tử tế ấy là chữ lễ đấy. “Lễ
thái độ ứng xử ”
20



Qua lời của các thầy chúng ta thấy được: sự bộc lộ tự nhiên của tình cảm
chân thành chính là lễ nghĩa cao nhất. Nếu như chạy theo những lễ giáo,
khn sáo cứng nhắc thì chẳng khác chi gọt chân cho vừa giầy. Hơn nữa từ đó
sinh ra một thứ lễ nghĩa xuông trên văn chương mà cổ hủ không thực sự chân
thành. Khi người ta quen dần với những lễ thói cổ hủ đó khơng ai nghĩ đến
nỗi những lời chân thành, những vệc làm đúng đắn lại bị người đời cười chê,
thật đáng buồn thay!

21


KẾT LUẬN
Khi bàn về nhân cách, người ta thường nói: “Đức là gốc, tài là ngọn ”.
Xét ở góc độ nào đó khi mọi người cùng hiểu và giữ được chữ “lễ” thì chính
là giữ được cái gốc vậy! Vậy lễ là gì? mà người xưa dạy: “Tiên học lễ hậu học
văn.” Đây là lời cửa miệng của bất kỳ ai từng bước chân đến trường nhưng
hình như khơng phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của lễ trong từng lời nói đó.
Phần đơng nhiều người hiểu “lễ” ở đây có nghĩa là lễ nghĩa, lễ phép, là
sự kính trọng người lớn chứ chưa thấy nhắc đến nét nghĩa chính. Thực ra
người xưa khơng chỉ dạy người có học biết thưa gởi kính trình, biết tơn kính
các bậc trưởng thưởng mà sâu xa hơn đó chính là dạy phàm là người phải biết
tuân thủ các phép tắc, biết chấp hành các kỷ cương, trật tự, bổn phận để sông
sao cho phù hợp với lẽ trời đất, xã hội, gia đình, bè bạn... Suy ngẫm mới thấy
các cụ giỏi thật, chỉ vài chữ mà ý tứ thật cao siêu.
Người hiểu lễ, với trời đất thì biết tơn trọng các quy luật tự nhiên, với
xã hội thì biết tơn trọng pháp luật, với gia đình thì biết đồn kết thương u,
với bạn bè thì biết gần gũi thân ái... Khi người người đều giữ được lễ thì trên
dưới phân minh, trật tự được sắp xếp, kỷ cương được tôn trọng, lẽ tự nhiên
cuộc sống thật chan hịa, bình n và hạnh phúc. Đó chẳng phải là gốc mà con
người phải giữ trong quan hệ với tự nhiên, với xã hội với gia đình là gì?

Ngày nay trong cuộc sống thường nhật chúng ta thấy đầy rẫy kẻ lừa
gạt, rối trá đang hiện hữu trên cõi đời này. Hàng ngày chúng ta nghe nhắc
nhiều đến kẻ bất lương, vơ trách nhiệm thậm chí có cả những kẻ ác vẫn tồn tại
quanh ta. Tất cả những con người ấy đều thiếu lễ, khơng có lễ và chưa hiểu
được chữ lễ.
Bởi khơng có ý thức về lễ nên lên rừng người ta làm lâm tặc, xuống
biển người ta làm hải tặc, lên trời người ta làm không tặc, khi về phố người ta
vượt đèn đỏ, ra xa lộ người ta lái xe lạng lách đánh võng để gây tai họa cho
người khác. Bởi thiếu lễ nên mặc dù người ta giữ trọng trách nhưng người ta
vẫn có thể ăn cắp cơng quỹ, rút ruột cơng trình quốc gia để đánh bạc hay làm
giàu bất chính. Công dân thiếu lễ thường vi phạm phép nước. Công chức
thiếu lễ thường hoành họe nhân dân, cán bộ nhà nước mà khơng giữ được lễ
thì đó là tai họa của nước nhà. Kẻ thiếu lễ dễ dàng bán mình và không giữ
22


được mình thế là trở thành người phạm tội. Chơi với người vơ lễ ta thấy bất
an, gia đìmh thiếu lễ dễ bất hịa. Xã hội có nhiều người khơng biết lễ tất bất
ổn. Chữ lễ quan trọng là vậy mà sao ít người quan tâm, ít người để ý, ít người
học tập và rèn luyện để giữ cho được lễ?
Vì sao trong xã hội hiện đại mang tiếng là văn minh, có văn hóa mà
người ta lại lợi dụng các phương tiện hiện đại để nói xấu nhau, chửi bới nhau,
nhiếc móc nhau? người ta lợi dụng blog để hại nhau, lợi dụng các xa lộ thông
tin để đưa chuyện phịng the cần giấu kín, người ta quan tâm việc rèn luyện
con cái thành tài hơn là thành người... Tất cả đều do thiếu lễ mà ra. Có phải đã
đến lúc chúng ta cần đặt lại vị trí chữ lễ cho thật đúng?
Trong Lễ Ký Học Ký Biên có câu rằng: “Học để sau đó biết là khơng
bao giờ đủ, dạy để sau đó biết cịn nhiều khó khăn, biết khơng đủ để sau tự
mình cố gắng, biết khó khăn để sau đó tự mình kiên cường lên. Do đó nói
rằng: “Dạy và học là việc suốt đời ”

Do vậy phần trình bày cịn nhiều khuyết điểm, thiếu sót kính mong
nhận được lời phê bình góp ý để có thể hoàn thiện hơn!

23



×