Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Độc quyền điện ở VN - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.49 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới,
chính vì vậy chúng ta cần có những thay đổi lớn trong công tác quản lý cũng như
điều hành kinh tế.Tuy nhiên hiện nay chúng ta vẫn ưu ái qua nhiều cho một số
nghành đã dẫn tới độc quyền tạo ra những tồn tại không nhỏ cho xã hội. Chính
sự độc quyền này đã góp không nhỏ trong việc làm chậm quá trình tăng trưởng
cũng như sự phát triển của Việt Nam.
Chúng không tạo ra động lực thúc đẩy cho sự phát triển của ngành đó điển
hình ở Việt Nam đại diện cho ngành điện là tập đoàn điện lực Việt Nam EVN.Có
thể nói EVN tuy đã một mình một chợ nhưng vẫn khóc. Trong thời gian gần đây,
càng lúc càng nghe nhiều hơn về tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) không
ngừng than thiếu vốn, bị lỗ và luân phiên cúp điện nhiều nơi như là giải pháp
không thể tránh khỏi. Vậy tại sao lại có tình trạng này xảy ra?Và khi EVN luân
phiên cúp điện như vậy thì có ảnh hưởng gì đến sinh hoạt và sản xuất?Đâu là lối
đi cho nghành điện Việt Nam?
Để tìm hiểu sâu sắc hơn về vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã quyết định
chọn đề tài “Độc quyền điện Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”.
1
2
CHƯƠNG I - CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Thế nào là độc quyền?
Độc quyền là một tình huống trong đó một công ty hoặc một tập đoàn, một
nhóm hoặc một nhóm các công ty chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trường đối với
các loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Thị trường độc quyền được hiểu theo
nghĩa hẹp là việc chiếm lĩnh thị trường của một công ty. Thị trường độc quyền là
thị trường không có sự cạnh tranh, do đó dẫn đến hệ quả tất yếu là mức giá cao.
1.2. Các hình thức của độc quyền là gì?
Độc quyền bao gồm độc quyền thường và độc quyền tự nhiên
1.2.1. Độc quyền thường
Độc quyền thường là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và
sản xuất ra sản phẩm, không có loại hàng hoá nào thay thế gần gũi.


1.2.2. Độc quyền tự nhiên
Là tình trạng trong đó các yếu tố hàm chứa trong quá trình sản xuất đã cho
phép hàng có thể liên tục giảm chi phí sản xuất khi quy mô sản xuất mở rộng do
đó đã dẫn đến cách tổ chức hiệu quả nhất là chi thông qua một hàng duy nhất.
1.3. Tổn thất khi có độc quyền?
1.3.1. Đối với độc quyền thường
Do tối đa hoá lợi nhuận nên doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất hàng hoá ở
mức sản lượng mà tại đó chi phí biên bằng với doanh thu biên thay vì sản xuất ở
mức sản lượng mà ở đó giá sản phẩm bằng chi phí biên như trong thị trường
cạnh tranh hoàn hảo (cân bằng cung cầu).
Doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất ở lượng sản phẩm thấp hơn và bán với
giá cao hơn so với thị trường cạnh tranh. Tổn thất mà xã hội phải gánh chịu do
sản lượng giảm sút trừ đi tổng chi phí biên để sản xuất ra sản lượng đáng lẽ sản
xuất thêm đó chính là tổn thất do độc quyền.
3
1.3.2. Đối với độc quyền tự nhiên
Chi phí sản xuất ra một đơn vị sản phẩm dần theo quy mô nên thị trường chi
phí biên của doanh nghiệp độc quyền tự nhiên có xu hướng giảm và luôn thấp
hơn chi phí sản xuất trung bình. Mặt khác để tối đa hoá lợi nhuận, doanh nghiệp
độc quyền sẽ cung ứng sản phẩm sao cho doanh thu biên bằng chi phí biên. Khi
đó sản lượng sẽ thấp hơn và giá cao hơn so với trạng thái cân bằng của thị trường
cạnh tranh khi mà giá bán hay lợi ích biên bằng chi phí biên. Sự giảm sút sản
lượng cũng gây ra tổn thất do độc quyền giống như độc quyền thường.
Nhưng điểm khác của nó so với độc quyền thường, dó là khi điều tiết để sản
xuất ở mức sản xuất hiệu quả, doanh nghiệp độc quyền thường vẫn có lợi nhuận
thì trong trường hợp độc quyền tự nhiên, nếu sản xuất ở mức sản lượng hiệu
quả, doanh nghiệp độc quyền sẽ bị lỗ vì giá bán sản phẩm thấp hơn chi phí trung
bình.
1.4. Liệu cần có sự can thiệp của chính phủ khi có độc quyền hay không?
Từ việc phân tích ảnh hưởng của độc quyền kể trên ta có thể thấy rằng sự

dẫn dắt nền kinh tế đi đến hiệu quả của bàn tay vô hình trong điều kiện có độc
quyền là không thể xảy ra. Chính vì vậy cần có sự can thiệp của chính phủ trong
việc điều tiết các doanh nghiệp độc quyền. Chính phủ có thể sử dụng các công cụ
của mình như thuế hay các biện pháp hành chính để đưa thị trường về điểm hiểu
quả hơn.
4
CHƯƠNG II - TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC
VIỆT NAM
2.1. Lịch sử hình thành
Tổng Công ty Điện lực Việt Nam được chuyển đổi thành Tập đoàn Điện lực
Việt Nam – EVN từ năm 2006 theo Quyết định sôd 48/2006/QĐ – TTg của Thủ
tướng Chính phủ.
EVN kinh doanh đa ngành.Trong đó, sản xuất, kinh doanh điện năng viễn
thông công cộng và cơ khí điện lực là ngành nghề kinh doanh chính; gắn kết
chặc chẽ giữa sản xuất, kinh doanh với khoa học công nghệ, nghiên cứu triển
khai, đào tạo. Ngày 25/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết Định số
975/QĐTTg về vận chuyển Công ty mẹ Tập đoàn Điện lực Việt Nam thành công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước. Mục tiêu hoạt
động của EVN thể hiện rõ qua 3 tiêu chí: Kinh doanh có lãi, bảo toàn phát triển
vốn chủ sở hữu nhà nước đầu tư tại EVN và vốn của EVN đầu tư vào các doanh
nghiệp khác; giữ vai trò trung tâm để phát triển một tập đoàn Điện lực Quốc gia
Việt Nam đa sở hữu, trong đó sỡ hữu nhà nước là chi phối; Tối đa hoá hiệu quả
hoạt động của Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam.
2.2. Các lĩnh vực hoạt động
5
Tập đoàn điện lực Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam
kinh doanh đa ngành, trong đó sản xuất và kinh doanh điện năng, viễn thông
công cộng, cơ khí điện lực là ngành kinh doanh chính; gắn kết chặc chẽ giữa sản
xuất, kinh doanh với khoa học, công nghệ, nghiên cứu, đào tạo; làm nòng cốt để
ngành công nghiệp điện lực Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, cạnh tranh

và hội nhập kinh tế có hiệu quả.
Hiện nay, trong lĩnh vực chính là kinh doanh điện năng, EVN có 5 Tổng
Công ty điện lực chính và 5 công ty truyền tải điện là:
• 5 công ty điện lực chính
• Tổng Công ty Điện lực Miền Bắc
• Tổng Công ty Điện lực Miền Nam
• Tổng Công ty Điện lực Miền Trung
• Tổng Công ty Điện lực TP. Hà Nội
• Tổng Công ty Điện lực TP. Hồ Chí Minh
• 5 công ty truyền tải điện
• Công ty Truyền tải 1
• Công ty Truyền tải 2
• Công ty Truyền tải 3
• Công ty Truyền tải 4
Ngoài lĩnh vực chính kể trên, cũng không ngừng phát huy thế mạnh của
mình trên các lĩnh vực như:
Giáo dục: Trường đại học Điện lực, Cao đẳng Điện lực TPHCM, Cao đẳng
điện lực Miền trung.
Viễn thông: Công ty Viễn thông Điện lực hoạt động trong lĩnh vực phát
triển mạng lưới dịch vụ điện thoại cố định nội tỉnh và đường dài trong nước,
cùng mạng điện thoại di động, dịch vụ internet
Tài chính ngân hàng: tập đoàn là cổ đông thể chế của ngân hàng thương mại
cổ phần An Bình
Viện Năng lượng Việt Nam: cơ quan nghiên cứu trong lĩnh vực điện năng
trực thuộc tập đoàn
Quy mô vốn
6
Tổng tài sản EVN tính đến 31/12/2007 là 185.180 tỷ đồng, tương đương
11.492 triệu USD (tỷ giá USD/VNĐ: 16.114), trong đó Tổng tài sản (nguồn vốn)
của Công ty mẹ là 118.242 tỷ đồng. So với năm 2006, Công ty mẹ huy động

nguồn vốn vào hoạt động SXKD tăng thêm 37.442 tỷ đồng (31,71%), chủ yếu là
tăng vốn đầu tư của chủ sở hữu (21.352 tỷ đồng) do đó đã làm vốn chủ sở hữu từ
42,60% năm 2006 tăng thành 46,07% tại thời điểm 31/12/2007.
Xét toàn bộ EVN, tổng số vốn huy động trong năm tăng lên 47.398 tỷ đồng
(34,40%) do cả ba nguồn đều tăng: nợ phải trả tăng 23.737 tỷ đồng (28,48%).
Vốn chủ sở hữu tăng 22. 017 tỷ đồng (42,02%), lợi ích cổ dông thiểu số tăng
1.642 tỷ đồng (80,20%). Khả năng thnah toán nợ của EVN tại thời điểm
31/12/2007 cơ bản đảm bảo. Khả năng thanh toán hiện hành (Tổng tài sản/Tổng
nợ phải trả) của công ty mẹ là 1,85 lần, của EVN là 1,73 lần. Tỷ lệ nợ phải trả/
vốn chủ sở hữu khá lành mạnh, tại Công ty mẹ là 1,17 lần, EVN là 1,14 lần, cho
thấy EVN và Công ty mẹ hoạt động chủ yếu bằng vốn tự có. Khả năng thanh
toán nợ ngắn hạn (Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn/ Tổng nợ ngắn hạn) tại
Công ty mẹ là 1,6 lần, EVN là 1,94 lần.
Vật tồn kho tại một số đơn vị còn lớn, trong đó có vật tư chậm luân chuyển
gây ứ đọng trong khi phải huy động vốn vay làm ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh (Công ty Điện lực 1 hơn 915 tỷ đồng bằng 17,31% vốn chủ sở hữu; Công
ty Điện lực TP Hồ Chí Minh hơn 902 tỷ đồng bằng 40, 28% vốn chủ sở hữu,
trong đó có lượng điện kế điện tử tồn kho từ lâu 127,4 tỷ đồng là tang vật của vụ
án). Quản lý tài sản cố định và đầu tư dài hạn: Tổng giá trị TSCĐ ròng là 80.861
tỷ đồng. Tuy vốn chủ sở hữu lớn như đã nêu ở trên nhưng đủ tài trợ cho TSCĐ
CHƯƠNG III - THỰC TRẠNG ĐỘC QUYỀN CỦA TẬP ĐOÀN
ĐIỆN LỰC VIỆT NAM
3.1. Thực trạng
7
Sự độc quyền của ngành điện, cụ thể ở Việt Nam là sự độc quyền của EVN
là một dạng độc quyền tự nhiên. Từ trước tới nay, việc sản xuất, truyền tải, phân
phối và kinh doanh mua bán điện năng; xuất nhập khẩu điện năng; đầu tư và
quản lý vốn đầu tư các dự án điện; quản lý, vận hành, sữa chữa, bảo hành, cải tu,
cải tạo, nâng cấp thiết bị điện, công trình điện; thí nghiệm điện…. đều do EVN
thực hiện.

Hoạt động của ngành điện vận hành theo mô hình liên kết dọc đã quá lỗi
thời. EVN sở hữu phần lớn các nguồn điện, nắm giữ toàn bộ hệ thống điều độ
điện quốc gia, hệ thống truyền tải điện, phân phối và kinh doanh, kể cả điện buôn
bán, bán lẽ, điện cho khách hàng trong cả nước. EVN là tổ chức duy nhất kinh
doanh điện trên toàn quốc, chưa có sự cạnh tranh mang tính chất thị trường ở bất
cứ hoạt động nào trong ngành điện.
Hình 2: Tỷ trọng cơ cấu nguồn điện từ các đơn vị
Nếu như ở những lĩnh vực kinh doanh khác, có nhiều doanh nghiệp trên
cùng một “sân chơi”, doanh nghiệp nào có chất lượng sản phẩm tốt, phục vụ chu
đáo, giá cả hợp lí sẽ được khách hàng lựa chọn, khách hàng thực sự là các
“thượng đế”. Nhưng, điều này không xảy ra ở ngành điện khi người dân và các
doanh nghiệp buộc phải mua điện với mức giá do EVN “định sẵn”, trong khi
8
chất lượng dịch vụ, cung ứng còn rất thấp và bất cập. Sự độc quyền đã khiến
phần thiệt thòi luôn thuộc về phía người tiêu dùng.
Hơn nữa, điện lại là loại hàng hoá đặc biệt, có tác động rộng lớn tới đời
sống và nền kinh tế, nhưng ngành điện luôn chậm khắc phục những bất cập.
Điều đáng nói là do tình trạng quản lý kém, gây ra nhiều thất thoát trong việc
cung ứng điện, nhưng những thất thoát này EVN lại tính vào chi phí và đương
nhiên là sẽ tăng giá bán để bù đắp lại các chi phí đó.
Theo EVN – ông trùm của ngành điện Việt Nam – thì việc thiếu điện là do
tốc độ tăng trưởng tiêu dùng điện quá nhiều. Điều này không khác nào EVN đổ
hết lỗi cho người tiêu dùng chứ không phải do lỗi của EVN. Thực chất ngành
điện không hề thiếu vốn và lợi nhuận không hề thấp.
Bằng chứng là EVN vẫn có khả năng đầu tư mạnh vào những ngành thâm,
dùng vốn mà đặc biệt kinh doanh thêm viễn thông., là ngành có chi phí rất lớn và
có môi trường cạnh tranh cao tại sao ngnàh điện không dùng khoản vốn này để
đầu tư vào việc thực hiện các dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng hay cho đường dây
truyền tải điện vốn đã xuống cấp nghiêm trọng?
Chúng ta đã quen thuộc với những quản cáo của EVN Telecom với những

chi phí mà người sử dụng nó thì gần như được cho không với chi phí cực rẻ, cho
không thiết bị đầu cuối, chứng tỏ Viễn thông điện lực có tài chính rất lớn, vậy
9
EVN tại sao luôn kêu ca là thiếu vốn. Ngành điện vừa ở vào thế độc quyền, vừa
chưa có những báo cáo minh bạch về tình hình tài chính nội bộ, nên việc tăng giá
điện có thể bắt nguồn chủ yếu từ sức mạnh độc quyền giá, thnah vì những khó
khăn thật sự về tài chính như vẫn được nêu ra.
Việc sản lượng không tăng đủ nhanh để đáp ứng kịp nhu cầu cũng như tốc
độ mở rộng sản xuất có thể bắt nguồn từ hiệu quả tổ chức – quản lý do thiếu
cạnh tranh trong nội bộ ngành, chứ không phải vì giá điện thấp. Việc đẩy giá
điện trong nước lên ngnang bằng khu vực là chưa hợp lý vì trong cấu trúc chi phí
của ngành, có nhiều loại chi phí thấp hơn các nước khác trong khu vực (như giá
công nhân, nguyên liệu).
Có thể nói EVN là tập đoàn có độc quyền kinh doanh điện. Nó sở hữu hệ
thống đường dây tải điện trên cả nước, hệ thống các công ty bán lẻ như Công ty
Điện lực Hà Nội hay Công ty Điện lực TPHCM. EVN cũng sở hữu khoảng 85%
năng lực sản xuất điện toàn quốc (số còn lại do các nhà sản xuất điện độc lập
cung cấp).EVN mua điện của các nhà sản xuất điện độc lập cung cấp này qua các
10
hợp đồng dài hạn.Nó có ưu thế có thể ép giá các nhà cung ứng độc lập vì nó là
người mua duy nhất.Nó cũng không gặp tổn hại gì nếu hoạt động không hiệu
quả.Trên thực tế, nó ít có động cơ phải hoạt động hiệu quả hơn trừ phi Chính phủ
ép buộc nó làm. Một ví dụ về phí hiệu quả là thất thoát trên đường truyền và
trong phân phối của ngành điện là 12,2% năm 2004 (theo số liệu của World
Bank), 11,02% năm 2006 - ở mức cao so với các nước trong khu vực. Con số
giảm khiêm tốn từ năm 2004 đến năm 2006 là do sức ép của thủ tướng CP yêu
cầu ngành điện phải cắt giảm thất thoát xuống dưới mức 8%. Tuy nhiên, EVN
cũng khẳng định là khó lòng có thể giảm xuống thấp hơn.
Gần như độc quyền trên thị trường bán buôn, độc quyền bán lẽ và đường
dây tải, EVN không có lí do gì phải làm hài lòng khách hàng.Người dùng điện

hoặc phải tìm đến nó, hoặc tự sản xuất điện.Là một nhà độc quyền EVN có
quyền xác định phải cung cấp là bao nhiêu, tối thiểu cũng tới mức làm cung –
cầu cân bằng. Nói cách khác, nếu nó sản xuất được 10 MW, nó sẽ tăng giá tới
mức mà nhu cầu điện chỉ còn đúng 10MW. Thậm chí nó có thể đóng cửa một số
nhà máy điện không hiểu quả để tiếp tục giảm nguồn điện xuống và gây sức ép
tăng giá lên hơn nữa.
Việc tăng giá bán điện chủ yếu do EVN xây dựng, trình Chính phủ (cụ thể
là Bộ Công Thương) phê duyệt. Nhưng, hầu như phương ánnào đưa trình cũng
được chấp thuận. Việc Bộ Công Thương trao quyền cho EVN tự tính toán yếu tố
đầu vào để làm căn cứ điều chỉnh giá bán điện càng khiến cho Tập đoàn này tăng
cấp độ độc quyền. Mới đây nhất, ngày 31/7, với sự chấp thuận của Bộ Công
Thương, EVN đã công bố tăng 5% giá điện và áp dụng ngay ngày 1/8 khiến dư
luận bất ngờ không kịp chuẩn bị tâm lý. Chi phí, giá cả do EVN đưa ra, công bố
đều mang tính áp đặt một chiều. Giá điện qua các kì điều chỉnh còn mang nặng
cơ chế hành chính, thiếu cơ sở khoa học, thiếu minh bạch, nên khó thuyết phục
được sự đồng thuận của khách hàng sử dụng điện.Giá điện có tăng, nhưng lại
không bao giờ giảm. Ngay cả khi hội tụ đầy đủ các yếu tố có thẻ giảm giá điện,
11
như: thời kỳ tăng công suất của các nhà máy thuỷ điện trong mùa mưa; giảm tổn
thất; giảm giá thành khi vận hành thị trường phát điện cạnh tranh, thì không bao
giờ được tính đến. Đây là điều không thể chấp nhận nếu áp dụng cơ chế thị
trường, thì giá phải có lúc tăng, lúc giảm.Hơn nữa, việc dùng càng nhiều điện
không giảm giá, mà lại bị tăng giá cho thấy, khả năng yếu kém trong cấp điện
của EVN đang đổ gánh nặng vào người tiêu dùng.
Hình 3: Giá điện bình quân từ năm 2007 đến nay (chưa bao gồm VAT)
Nguồn : Bộ Công Thương
Hoạt động thiếu hiệu quả và liên tục đòi tăng giá này không phải là sản
phẩm tất yếu của độc quyền. Một nhà độc quyền thường bòn rút khách hàng tới
tận xương trừ khi anh ta bị ngăn cấm làm điều đó.Nhưng ngay cả khi bị cấm,
một nhà độc quyền vẫn có thể tìm ra cách để tư lợi cho mình. Phương pháp cổ

truyền là đẩy chi phí lên cao bằng nhiều cách, trong đó có việc tăng lương cho
nhân viên lên cao hơn hẳn chung hoặc thường xuyên bỏ tiền vào các khoảng chi
không phục vụ cho việc sản xuất.
Lỗi thiếu điện hiện nay phải nhìn từ phía quản lý điều hành ngành điện của
chính phủ.Việc thiếu điện hiện nay gợi nhớ chúng ta thời kỳ thiếu gạo, cũng như
bây giờ chúng ta không thiếu khả năng sản xuất điện.Vấn đề là động cơ để sản
xuất.Động cơ chỉ tồn tại trong những cơ chế thích hợp.Chính phủ đã không tạo
ra một cơ chế thích hợp để ngành điện phát triển mới chính là nguyên nhân dẫn
đến tình trạng độc quyền như hiện nay.
12
Có thể thấy, sự độc quyền khiến ngành điện phát triển chậm chạp, ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế.Vấn đề phá vỡ thế độc quyền của ngành điện
trở nên cấp thiết.Bởi, có như vậy, chúng ta mới có thể hy vọng được cung cấp
dịch vụ điện tốt hơn cho nhu cầu người dân và phát triển đất nước. Đồng thời,
người dân sẽ không còn phải chịu cảnh giá điện chỉ có tăng mà không thấy
giảm!
Việc xây dựng một thị trường cạnh tranh trong ngành điện, cùng với tái cơ
cấu lại EVN thu hút sự quan tâm lớn của xã hội,.Mục đích không chỉ để người
dân được cung cấp điện với giá phù hợp, chất lượng ngày càng cao, mà còn để
đảm bảo đủ điện phục vụ cho tăng trưởng kinh tế bền vững của Việt Nam.
Những tác động từ hành vi độc quyền ngành điện tới kinh tế xã hội. Thiếu
điện như hiện nay là kết quả của tình trạng độc quyền của ngành điện, còn hành
vi của độc quyền được biểu hiện là việc cúp điện cũng như tăng giá điện ngày
càng nhiều điều này khiến cả xã hội lần kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm
trọng và càng lúc càng hỗn loạn. Vậy nó ảnh hưởng như thế nào tới người tiêu
dùng và tới các doanh nghiệp khi mà EVN thực hiện việc tăng giá điện? Tổn thất
mà xã hội phải gánh chịu ở đây là gì?
3.2. Tác động
Trong kinh tế học.Chúng ta có thể đánh giá ảnh hưởng của độc quyền tới
phúc lợi xã hội thông qua mức sản lượng mà doanh nghiệp độc quyền sản xuất

với mức sản lượng trong thị trường cạnh tranh. Khi độc quyền, doanh nghiệp sẽ
cung cấp mức sản lượng mà tại đó đường thu nhập biên tiếp giáp với đường thu
nhập biên tiếp giáp với đường chi phí biên. Còn doanh nghiệp cạnh tranh sẽ cung
cấp mức sản lượng mà tại đó giá bằng chi phí biên.(Hình 1).
Hình 1: Tính không hiệu quả của độc quyền so với cạnh tranh
13
Như vậy, độc quyền trong mọi trường hợp đều làm ảnh hưởng đến người
tiêu dùng khi phải mua sản phẩm cao, mà không có sự lựa chọn nào khác.Bên
cạnh đó, độc quyền cũng khiến cho doanh nghiệp không chịu đầu tư, nâng cao
chất lượng sản phầm do không ai cạnh tranh thiếu động lực.Đặc biệt, độc quyền
ở những lĩnh vực, ngành thiết yếu sẽ gây ảnh hưởng đến cả nền kinh tế.
3.2.1. Ảnh hưởng của việc tăng giá điện và cúp điện tới người tiêu dùng
Khi EVN thực hiện việc tăng giá điện điều này làm cho ngân sách hộ gia
đình bị giảm đi tương đối. Tiếp theo nữa là việc tăng giá điện cũng dẫn đến sự
tăng lên của tất cả các ngành sản xuất có điện là đầu vào, làm cho các mặt hàng
này cũng tăng giá theo. Ảnh hưởng chung tới sự tiêu dùng của người dân cũng
như tốc độ phát triển chung của nền kinh tế.
Hơn nữa việc EVN cúp điện luân phiên đã tao ra một sự lãng phí lớn người
để đề phòng việc cắt điện đột xuất ảnh hưởng tới buôn bán, người dân, và các hộ
kinh doanh thường mua dự phòng máy phát điện chạy bằng dầu diesel, điều này
gây ra sự lãng phí không những về tiền bạc mà còn gây lãng phí về năng lượng
cũng như tạo ra ô nhiễm tiếng ồn khi họ sư dụng. Gây ra những tổn thất về môi
trường, ngoài ra khi cắt điện tràn lan còn có thể gây ra hiện tượng kẹt xe đặc biệt
vào giờ cao điểm. Ở một địa bàn nào, nếu bị cắt điện, các hệ thống đèn giao
thông không hoạt động, các phương tiện giao thông không được điều tiết dẫn đến
14
tình trạng kẹt xe. Khi kẹt xexảy ra không chỉ thiệt hại về vật chất cho người dân
mà còn làm mất quỹ thời gian của họ.
Đối với các công sở thì việc cắt điện khiến cho công chức bỏ công sở với
công việc cần giải quyết đi ngồi uống tại các quán gây nên tình trạng việc thì

nhiều mà giải quyết chẳng được bao nhiêu gây ra những tổn thất về thời gian
cũng như tiền bạc cho xã hội.
3.2.2. Ảnh hưởng đối với xã hội
Tăng chi phí cho doanh nghiệp
Tình trạng thiếu điện không những ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng
cuộc sống của người dân mà còn đe doạ hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt
là đối với ngành hàng xuất khẩu. Lịch cắt điện làm ảnh hưởng đến tiến độ sản
xuất kinh doanh, thời gian sản xuất hàng hoá không đúng tiến độ ghi trong hợp
đồng, nhân công ngày làm nghỉ và có khi phải tăng ca về đêm đã dẫn đến thiệt
hại vật chất lên đến hàng tỷ đồng. Việc thiếu điện còn làm ảnh hưởng đến doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ như du lịch, khách sạn. Hầu hết những
doanh nghiệp này đều phải mua máy phát điện hay các thiết bị tích điện khác
làm ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp ô nhiễm môi trường.
Ví dụ như công ty xuất nhập khẩu may mặc MSA- HAPRO có đăng trên
hãng thông tấn Đức DP, ít nhất mỗi tuần 1 lần công ty lại bị cắt điện. Công ty
phải mua máy phát điện cũ với giá 21.000 đô la để duy trì sản xuất và mỗi ngày
công ty phải chi thêm 3000 đô la nhiên liệu chạy máy “Ít nhất mỗi tuần một lần
công ty tôi lại bị cắt điện”. bà Phạm Thị Liễu, Tổng giám đốc Công ty xuất nhập
khẩu may mặc MSHAPRO nói với hãng thông tấn Đức DPA, cao gấp 6 lần so
với gía điện mà nhà độc quyền EVN cung cấp.
An ninh xã hội
Khi cần phải đáp ứng tình trạng thiếu điện trên diện rộng, lãnh đạo EVN đã
mua điện dồn dập của Trung Quốc vào các năm 2005 – 2007 trong nguồn lực đó
15
có thể tập trung vào phát triển nguồn điện trong nước. Hệ quả của việc mua điện
này là bị ép giá mua điện từ Trung Quốc lên rất cao và EVN thực sự không dám
đảm bảo an ninh năng lượng cần thiết và chủ động cấp điện cho các tỉnh phía
Bắc.
3.3. Nguyên nhân
3.3.1. Chính sách của Nhà nước

Trong nhiều năm qua, nứơc ta chưa có một kê hoạch phát triển điện nghiêm
chỉnh.Khi so sánh với các nước lân cận trong khu vực, chẳng hạn như Thái Lan
rất chú trọng về kĩ thuật điện còn Việt Nam lại khác biệt hẳn.Chính vì chưa xây
dựng được kế hoạch, chiến lược ngắn và dài hạn mà việc đầu tư còn dàn trải,
thiếu tính cạnh tranh do độc quyền và thiếu minh bạch.
Cũng vì lí do chưa có kế hoạch cụ thể nên đặt giá điện như thế nào cũng là
một vấn đề gây nhức nhối. Giá điện ở Việt Nam thấp cũng làm lãng phí nguồn
điện.
Giá điện lẽ trung bình ở Việt Nam vào năm 2006 là 5.4 xu Mỹ/KW giờ, khá
thấp so với phần đông các nước khác. Ngay cả giá điện trung bình áp dụng cho
công nghệ là 5.46.2 xu Mỹ cũng không cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Do giá
điện rẻ tương đối nên một số công ty sản xuất xi măng và các ngành công nghiệp
tiêu tốn nhiều năng lượng giá lẽ và xả thải bừa bãi. Gây ô nhiễm môi trường ảnh
hưởng đến đời sống của nhân dân.
Gần đây, nhà nước đã điều chỉnh tăng giá điện cho phù hợp với thị
trường.Tuy nhiên, việc điều chỉnh cong thiếu công bằng và gây ra nhiều bất cập.
3.3.2. Nhà máy hoạt động chậm tiến độ
Tình trạng thiếu điện lẽ ra không đến mức trầm trọng như trong thời gian
qua nếu như nhiều nhà máy điện đi vào vận hành đúng tiến độ. Trong thời gian 5
năm vừa qua, đã có hàng trăm nghìn tỷ đồng được bỏ ra để làm điện, nhưng hầu
hết các nhà máy phát điện đều mắc chung tình trạng hoặc chậm, kéo dài tiến độ,
hoặc hoạt động hỏng hóc, không đáp ứng yêu cầu đảm bảo nguồn cung địên.
16
Giai đoạn 2010 -2012, 42 nhà máy điện, gồm cả thuỷ điện và nhiệt điện được
đưa vào vận hành thì có tới 28 nàh máy thuộc bị chậm tiến độ 1 – 2 năm. Nổi
tiếng nhất trong việc chậm tiến độ phải kể đến là nhiệt điện Quản Ninh 1 và Hải
Phòng 1 do EVN làm chủ đầu tư, cả hai nhà máy này đều chậm hơn 27 tháng.
Qua đó có thể thấy được sự yếu kém trong việc quản lý tiến độ cac nhà máy điện
của EVN đã dẫn đến việc không được cung cấp đầy đủ cho cả nước. Ngoài ra, có
tới 8 nhà máy tổng công suất 3.410MW, đáng lẽ phải phát điện năm 2010 – 2011

thì giờ phải hoãn lại dang 2012 – 2013 như nhà máy Quảng Ninh 2 (2 x
300MW) Hải Phòng 2 (2 x 300MW), như thuỷ điện Khe Bố 50 MW, thuỷ điện A
Lưới 2 x 85 MW, nhiệt điện Mạo Khê (2 x 220MW), nhiệt điện Vũng Áng (2x
600MW).
Theo GS. Trần Đình Long, mỗi nhà máy thường chạy tối đa khoảng 6000
giờ/năm, mỗi nhà máy 300MW có sản lượng điện khoảng 1,8 tỷ kWh/năm. Như
vậy, khi một nhà máy 300MW chậm một năm thì năm đó, hệ thống điện quốc gia
đã bị mất cơ hội được cung ứng tới 1,8 tỷ kWh. Việc lùi lại 8 nhà máy điện có
tổng công suất 3.410 MW từ năm 2011 – 2012 sang năm 2012 – 2013, đã gây
nên thiệt hại cho nguồnc cung ứng điện cả nước khoảng 20,46 tỷ kWh. Nếu so
với nhu cầu khoảng 115 tỷ kWh năm 2011, sản lượng điện thiếu hụt so với kế
hoạch đã chiếm khoảng 20%. Nguyên nhân của việc chậm tiến độ như vậy, một
phần do việc điều hành các dự án điện còn châm quá yếu kém. EVN vẫn tự coi
mình là đơn vị có nhiêu kinh nghiệm nhất trong việc điều hành các dự án nhưng
trên thực tế cho thấy, để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ điện phục vụ phát triển kinh tế
xa hội, hạn chế lượng điện thiếu hụt, có rất nhiều nguồn điện đã cần phải đưa
vào vận hành.
3.3.3. Mất cân bằng cung cầu
Nhu cầu tiêu thu điện tăng quá nhanh (khoảng 15 – 17%) trong những năm
trở lại đay. Vào năm 1995, mức tiêu thụ điện của Việt Nam trung bình khoảng
17
156 KWh cho mỗi người hàng năm. Trong thời gian 1996 – 2004, mức tiêu thụ
tăng gấp ba lần, lên đến 484 KWh. Tuy nhiên so với mức tiêu thụ 1,265 KWh,
tại những nước có lợi tức thấp và trung bình trên thế giới, mức tiêu thụ điện cua
Việt Nam rất thấp. Các ngành công nghệ tiêu thụ điện rất nhiều, kể cả những
nghành công nghiệp nhẹ Việt Nam ngày càng kỹ nghệ hoá khiến cho nhu cầu
tiêu thụ điện càng tăng.Dân cư cũng dùng nhiều điện hơn vì các chương trình
điện hoá nông thôn đã mang điện đến cho thêm 30 triệu người dân trong khoảng
thời gian 1995 – 2004 và kinh tế phát triển, tức lợi gia tăng khiến một số gia đình
có khả năng mua sắm máy móc gia dụng chạy điện. Tuy nhiên, nghành điện cụ

thể là EVN chưa có những biện pháp “ đi trước đón đầu” để cung ứng lượng điện
theo nhu cầu xa hội. Cầu tăng cao trong khi cung không đáp ứng được, không có
công suất dự phòng để duy trì sự ổn định về nguồn điện khi tiến hành duy trì,
bảo dưỡng và đảm bảo cung ứng điện ngay trong những tháng cao điểm mùa
khô.
3.3.4. Phụ thuộc quá nhiều vào thuỷ điện
Hiện nay, EVN đang điều hành hệ thống điện Việt Nam đi theo lối tư duy
mòn đựoc thành lập và duy trì giữa những năm 90 thế kỷ trước. Đó là việc tong
đợi quá nhiều khả năng đáp ứng của các nhà máy thuỷ điện ở miền Bắc và miền
Trung.
Dưới đây là hiện trạng các nhà máy điện năm 2007:
Số nhà máy Công suất (MW) Tỉ lệ (%)
Thuỷ điện 14 4487 36.6
Than 6 163 13.3
Khí 4 4746 38.7
Dầu 3 575 4.7
Khác 832 6.8
Tổng 27 12270 100%
Nguồn: Website của Triển lãm và diễn đàn ngành than và điện Việt Nam 2008
18
Qua bảng số liệu thóng kê có thể nhận thấy Việt Nam lệ thuộc vào thuỷ điện
quá nhiều. Mức sản xuất thuỷ điện giảm vào mùa khô và nếu hạn hán xẩy ra lâu
nhà máy sẽ thiếu nước để sản xuất điện trong khi khả năng tăng cường sản xuất
điện của Vịêt Nam trong hoàn cảnh nguy ngập rất thấp. Vì vậy để duy trì sản
lượng điện ổn định, phải chú trọng những nguồn điện khác, thân thiện với môi
trường như năng lượng gió , mặt trời,…
19
CHƯƠNG IV - GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
3.1. Mục tiêu
Cung cấp đủ điện cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành điện
Khách hàng được sử dụng điện với giá hợp lí
Thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động phát điện phân phối
điện, bán buôn điện và bán lẽ điện.
3.2. Giải pháp
3.2.1. Tính tất yếu phải xây dựng thị trường điện cạnh tranh ở Việt Nam
Mô hình liên kết dọc truyền thống của EVN – độc quyền trong cả ba khâu
phát điện – truyền tải – phân phối điện năng đã cản trở việc đáp ứng nhu cầu
điện cho sản xuất, tiêu dùng ngày càng lớn của xã hội.Duy trì cơ chế độc quyền
tuỳ tiện về mặt quản lý nhà nước nhưng lại bất cập trong hoàn cảnh hiện nay khi
mà chỉ có một tổ chức lo mọi việc từ sản xuất cho đến bán lẽ, thậm chí cả quy
hoạch. Hơn nữa, hiện nay chúng ta dựa vào thuỷ điện rất nhiều, dựa vào việc moi
than lên để chạy các nhà máy nhiệt điện, dựa vào một số nhà máy điện chạy
bằng dầu, khí thiên nhiên, tất cả những nguồn năng lượng đó đều đã “chạm
trần”. Thậm chí một số nguồn năng lượng như than, thuỷ điện là nguyên nhân
gây ô nhiêm xmôi trường, biến đổi kí hậu và những rắc rối khác mà chúng ta sẽ
đối mặt. Những nguồn năng lượng vô tận mà nước ta có nhiều lợi thế như năng
lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh học đều là loại năng lượng có
thể tái tạo được, tuy nhiên những thứ đó hầu như chưa được khai thác vì giá
thành chưa được cạnh tranh được.Một khi nước ta vẫn duy trì cơ chế độc quyền
EVN thì sẽ không ai làm việc đó. Do đó, tất yếu phải tái cơ cấu lại ngành điện,
thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong ngành điện, thu hút sự tham gia của các
thành phần trong xã hội vì một nguyên lý cơ bản trong kinh tế là cạnh tranh sẽ
buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để đáp ứng
nhu cầu, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.
3.2.2. Lộ trình hình thành và phát triển thị trường điện ở Việt Nam
20
Chính phủ đã đề ra chủ trương đa dạng hoá sở hữu và xây dựng một thị
trường điện cạnh tranh ở Việt Nam. Theo đó, thị trường điện lực sẽ được xây
dựng và phát triển theo nguyên tắc công khai, bình đẳng cạnh tranh lành mạnh

có sự điều tiết của nhà nước, hướng đến mục tiêu nâng cao hiệu quả trong hoạt
động điện lực; thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia phát điện, phân phối
điện, bán buôn điện và bán lẽ điện.
Thị trường điện lực Việt Nam sẽ hình thành và phát triển theo lộ trình gồm 3
cấp độ, trong đó mỗi cấp độ có một bước thí điểm và một bước hoàn chỉnh:
 Cấp độ 1 (2005 – 2014): thị trường phát điện cạnh tranh
 Cấp độ 2 (2015 – 2022): thị trường bán buôn điện cạnh tranh
 Cấp độ 3 (từ sau 2024): thị trường bán lẽ điện cạnh tranh
3.2.3. Giải pháp hiện tại: giai đoạn thí điểm thị trường phát điện cạnh tranh
3.2.3.1. Mô hình
Mô hình được lựa chọn để khiến nghị thực hiện cho giai đoạn thị trường phát
điện cạnh tranh chính thức tại Việt Nam là mô hình thị trường chào giá theo chi
phí – Cost – based pool (CBP).
Các nhà máy điện có công suất từ 30MW trở lên đầu nối vào lưới điện quốc gia
(trừ các nhà máy điện gió, điện địa nhiệt), trực tiếp chào giá phát điện hoặc gián
tiếp giao dịch.
Nhà máy nào có tổng chi phí bán điện thấp nhất sẽ được đơn vị vận hành hệ
thống ưu tiên huy động trước.
Với các nhà máy thuỷ điện chiến lược đa mục tiêu, sẽ không phải chào giá trên
thị trường phát điện mà do trung tâm điều độ chủ động lập lịch huy động để đảm
bảo tối ưu hệ thống và các ràng buộc về tưới tiêu, chống lũ.
21
3.2.3.2. Phương án tái cơ cấu ngành điện cho phát triển thị trường phát điện
cạnh tranh để đảm bảo phát triển đúng với mô hình cháo giá theo chi phí.
Tách các khâu Phát điện – Truyền tải – Phân phối (SMO) ra khỏi EVN để
trở thành một đơn vị độc lập.
Công ty Truyền tải điện quốc gia được tách khỏi EVN trở thành một công ty
trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên (TNO) thuộc Bộ Công Thương
Các nhà máy điện của EVN sẽ được nhóm lại để hình thành ba công ty phát
điện mới (GENCO) và tách độc lập nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài

EVN đầu tư vào các dự án nguồn điện.
Các nhà máy thuỷ điện lớn đa mục tiêu sẽ được nhóm lại để hình thành
công ty nguồn chiến lược dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước
một thành viên.
Tổng công ty Kinh doanh và phân phối điện được thành lập hoạt động theo
mô hình công ty mẹ – con với các thành viên là Công ty TNHH MTV nguồn
chiến lược, Công ty mua bán điện và các công ty điện lực.
Việc tái cơ cấu ngành điện cho phát triển thị trường điện sẽ được tiến hành
theo 3 bước:
Bước 1 (trước 31/12/2008)
Thành lập các công ty phát điện (Gencos) và công ty thuỷ điện chiến lược
đa mục tiêu và điện hạt nhân (CLĐMT), trước mắt trực thuộc EVN.
Bước 2 (trước 30/06/2009):
Tách SMO khỏi EVN, thành lập Công ty Vận hành hệ thống điện và thị
trường điện, là công ty TNHH NN MTV thuộc Bộ Công Thương. Tách Tổng
công ty Truyền tải điện quốc gia thành công ty TNHH NN MTV thuộc Bộ Công
Thương.
Bước 3 (trước 31/12/2009):
22
Tách các công ty Genco và các công ty phát điện đã CPH ra thành các công
ty phát điện độc lập, hoạt động dưới dạng công ty TNHH NN MTV hoặc công ty
cổ phần do Bộ Công Thương hiện là đại diện sở hữu vốn nhà nước.
Thành lập Tổng công ty Kinh doanh và phân phối điện bao gồm các đơn vị:
SB, PCs và công ty phát điện CLĐMT.
Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước, các nhà đầu tư
nước ngoài tham gia xây dựng các dự án nguồn điện, các dự án lưới điện phân
phối theo các hình thức đầu tư được pháp luật nhà nước quy định. Các nhà đầu
tư trong nước có đủ năng lực được huy động mọi nguồn vốn để đầu tư cho các
công trình nguồn và lưới điện theo cơ chế tự vay, tự trả.
3.3. Đánh giá

Đến nay, chúng ta đang ở giai đoạn hình thành thị trường phát điện cạnh
tranh cấp độ hoàn chỉnh được một năm.Tuy nhiên, nhiều chuyên gia đã đánh giá
rằng thị trường phát điện cạnh tranh tuy đã được vận hành, nhưng vẫn còn hình
thức và thực tế EVN vẫn độc quyền.
Hiện nay, để Genco tách ra khỏi EVN được, thì cac doanh nghiệp trực thuộc
Genco phải được cổ phần hoá,. Nhưng, quá trình này khò tiến hành, vì tỉ lệ nợ
trên vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp này còn quá cao, thậm chí có tổng
công ty nợ vốn chủ sở hữu đến 5 -6 lần, nên không đủ điều kiện vay vốn thêm,
dẫn tới một loạt dự án ách tắc.
Điều kiện để tham gia thị trường phát điện cạnh tranh là các nhà máy thuỷ
điện phải có công suất từ 30 MW trở lên. Nhưng, các nhà máy công suất từ 30
MW trở lên do EVN làm chủ đầu tư. Như vậy, chỉ có các nhà máy của EVN mới
đủ điều kiệnt ham gia thị trường.Các nhà máy nhỏ vô hình trung bị ép ra khỏi thị
trường, chỉ còn cách bán điện cho công ty điện lực địa phương.Trong trường hợp
điện lực địa phương điện lực quốc gia cung cấp đủ điện thì thuỷ điện nhỏ sẽ
không biết bán điện cho ai? Ngya cả khi bán được, thì cũng vẫn trong tình cảnh
23
“chiếu dưới” vì Chính phủ chưa có hướng dẫn trong trường hợp này, giá bán
điện là bán buôn hay bán lẻ.
Công ty mua bán điện trong thị trường phát điện cạnh tranh đúng nghĩa phải
là công ty phi lợi nhuận với hoạt động trung gian mua, bán điện cho hai bên và
nếu có thì chỉ thu một khoảng phí nhỏ để duy trì hoạt động của công ty và trả
lương nhân viên. Tuy nhiên, hiện nay, đơn vị duy nhất mua điện từ các nhà máy
là Công ty Mua – bán điện Việt Nam lại vẫn trực thuộc EVN, nên mua, bán điện
cạnh tranh thực chất vẫn chỉ là hình thức.
Quá trình cải tổ ngành điện cần có sự minh bạch, với lộ trình chi tiết được
công khai, để người dân và các cơ quan có trách nhiệm như Quốc hội cùng tham
gia, phản biện và giám sát.
24

×