Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Tác động của tỷ giá đến nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.34 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Chuyên để tốt nghiệp :
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TỶ
GIÁ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn: Ths TỪ THỊ KIM THOA
Sinh viên thực hiện: Trần Thanh Xuân
TCDN8 – K31
Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 5/2009
- 2 -
LỜI MỞ ĐẦU 4
PHỤ LỤC 6
TGHĐ: Tỷ giá hối đoái 6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 7
1.1. Các khái niệm về TGHĐ 7
1.2. Khái niệm về TGHĐ 7
1.3. TGHĐ danh nghĩa và TGHĐ thực 7
1.4. Các loại TGHĐ 8
1.5. TGHĐ cố định 8
1.6. TGHĐ thả nổi 9
1.7. TGHĐ tổng hợp 12
1.8. TGHĐ chính thức và song song 17
1.9. TGHĐ song phương và hiệu lực 17
1.10. TGHĐ danh nghĩa và thực tế 17
1.11. Các yếu tố tác động lên TGHĐ 17
1.12. Mối quan hệ cung- cầu về ngoại tệ 17
1.13. Lạm phát giữa các nước 18
1.14. Tác động của TGHĐ đến nền kinh tế 18
1.15. Lạm phát 19
1.16. Cán cân xuất – nhập khẩu 19


1.17. Đầu tư quốc tế 20
1.18. Tín dụng quốc tế 21
1.19. Các công cụ điều hành chính sách tỷ giá 22
1.20. Biện pháp trực tiếp 23
1.21. Biện pháp gián tiếp 23
1.22. Tác động thâm hụt của chính phủ đến tỷ giá 24
1.23. Điều chỉnh tỷ giá 25
1.24. Kinh nghiệm điều hành tỷ giá của Achentina 29
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ TÁC
ĐỘNG ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ 38
2. Tổng quan về tình hình kinh tế Việt nam và diễn biến tỷ giá ở VN trong thời gian
qua 38
3. Giai đoạn trước khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997 38
4. Từ tháng 7/1997 đến 26/2/1999 (giai đoạn khủng hoảng kinh tế Châu Á) 40
5. Điều hành tỷ giá sau năm 1999 – năm 2006 (sau khủng hoảng Châu Á, chuẩn bị gia
nhập WTO) 42
6. Điều hành tỷ giá từ năm 2007 đến nay (sau gia nhập WTO) 47
7. Đánh giá điều hành tỷ giá ở VN trong thời gian qua 50
8. Ưu nhược điểm 50
9. Nguyên nhân của những tồn tại 52
Chương 3: GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP Ở
VIỆT NAM 54
3.1. Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam trong những năm sắp tới 54
3.1. Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam trong những năm sắp tới 54
3.2. Định hướng lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá phù hợp với bối cảnh hội nhập 58
3.2. Định hướng lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá phù hợp với bối cảnh hội nhập 58
- 3 -
3.3. Tăng lượng dự trữ ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước: 58
3.3. Tăng lượng dự trữ ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước: 58
3.4. Xử lý tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá: 59

3.4. Xử lý tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá: 59
3.5. Nâng cao hiệu quả quản lý ngoại hối: 59
3.5. Nâng cao hiệu quả quản lý ngoại hối: 59
3.6. Định hướng hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái trong thời gian tới 59
3.6. Định hướng hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái trong thời gian tới 59
KẾT LUẬN 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
- 4 -
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu
để điều tiết cán cân thương mại quốc tế theo mục tiêu đã định trước của một quốc
gia. Tỷ giá hối đoái có lịch sử gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của
thương mại quốc tế và quan hệ kinh tế quốc tế.
Khi Việt Nam gia nhập WTO cũng là lúc thị trường tiền tệ còn khá non trẻ
của Việt Nam phải chịu rất nhiều áp lực về chính sách ổn định tỷ giá và chiến lược
phát triển thị trường này trong thời gian tới. Quá trình quản lý tỷ giá trong thời
gian vừa qua có thể nói là khá thành công đối với các nhà hoạch định chính sách,
không những giúp cho thị trường tiền tệ tránh được những cú sốc do khủng hoảng
kinh tế tài chính trong khu vực mà ngày càng cải thiện uy tín của đồng tiền Việt
Nam trên thị trường thế giới.
Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đã có những biến đổi sâu sắc, đạt được
thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, trong đó những đổi mới về chính sách tài
chính- tiền tệ và tỷ giá hối đoái đã có tác động tích cực, góp phần tạo nên sự ổn
định môi trường kinh tế- xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên đây chỉ
là những thành tựu đạt được bước đầu, nhìn chung vẫn chưa theo kịp với sự phát
triển kinh tế và những đòi hỏi của thực tiễn đất nước trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc đúc kết những kinh nghiệm quý
giá từ những thành công và cả những thất bại của các nước và lựa chọn một chính
sách tỷ giá hối đoái phù hợp, thực sự có hiệu quả, cùng với một số chính sách kinh
tế vĩ mô khác thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững là một vấn đề hết sức quan

trọng.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong xu hướng hiện nay khi mà cơ hội để Việt Nam hội nhập vào sân chơi
quốc tế ngày càng lớn thì một số hàng rào bảo hộ mậu dịch trong nước như quota,
- 5 -
thuế,… ngày càng bị nới rộng và dần dần tiến đến bãi bỏ hoàn toàn. Do đó việc
tìm tòi những công cụ thay thế, hỗ trợ cho chính sách ngoại thương và bảo hộ nền
kinh tế sản xuất trong nước của các quốc gia ngày càng đóng vai trò quan trọng
mà một trong những chính sách có ý nghĩa quan trọng nhất là chính sách điều
hành tỷ giá hối đoái của quốc gia.
Mặt khác cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang diễn ra đã gây ra những
hậu quả nặng nề đối với nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Khi
đó chính sách điều hành tỷ giá của từng nước đóng vai trò quan trọng trong việc
khắc phục những hậu quả do khủng hoảng kinh tế thế giới gây ra đồng thời giảm
thiểu tới mức thấp nhất những tác động do chúng gây ra, tạo cơ sở nền tảng cho
quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hóa và sự phát triển của Việt Nam hiện nay và
trong giai đoạn sắp tới.
- 6 -
PHỤ LỤC
TGHĐ: Tỷ giá hối đoái
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
WB Ngân hàng thế giới
EEC Cộng đồng kinh tế Châu Âu
WTO Tổ chức thương mại thế giới
FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
- 7 -

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI
ĐOÁI
1.1. Các khái niệm về TGHĐ
1.2. Khái niệm về TGHĐ
Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng
tiền của hai nước. Cũng có thể gọi tỷ giá hối đoái là giá của một đồng tiền này tính
bằng một đồng tiền khác.
Thông thường tỷ giá hối đoái được biểu diễn thông qua tỷ lệ bao nhiêu đơn
vị đồng tiền nước này (nhiều hơn một đơn vị) bằng một đơn vị đồng tiền của nước
kia. Ví dụ: tỷ giá hối đoái giữa Đồng Việt Nam và Dollar Mỹ là 16045 VND/USD
hay giữa Yen Nhật và Dollar Mỹ là 116,729 JPY/USD hay giữa Dollar Mỹ và
Euro là 1,28262 USD/Euro. Đồng tiền để ở số lượng một đơn vị trong các tỷ lệ
như những ví dụ trên gọi là đồng tiền định danh hay đồng tiền cơ sở. Vì thế, khi
cần thể hiện một cách nghiêm ngặt và chính xác, người ta thường nói: "Tỷ giá hối
đoái giữa Đồng Việt Nam và Dollar Mỹ trên thị trường ngoại hối định danh bằng
Dollar Mỹ là 16045 Đồng bằng 1 Dollar" hoặc "Tỷ giá hối đoái giữa Đồng Việt
Nam và Dollar Mỹ trên thị trường ngoại hối định danh bằng Đồng Việt Nam là
0,0000624 Dollar bằng 1 Đồng".
1.3. TGHĐ danh nghĩa và TGHĐ thực
TGHĐ danh nghĩa là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo nội tệ và chưa
tính đến sức mua của đồng tiền.
TGHĐ thực là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo giá tương đối
giữa các nước. Tỷ giá này tăng lên đồng tiền trong nước được coi là bị giảm giá
thực so với đồng tiền nước ngoài và khi tỷ giá này giảm thì đồng tiền trong nước
được coi là bị tăng giá thực so với đồng tiền nước ngoài. TGHĐ hiệu quả thực là
tỷ giá được điều chỉnh theo một số các tỷ giá thực của các nước đối tác thương
mại. Tỷ giá này được xem là thước đo hữu hiệu khả năng cạnh tranh của một nước
trong quan hệ thương mại với các nước khác bởi nó xét đến tỷ giá thực giữa đồng
tiền của một nước với nhiều nước tham gia trao đổi thương mại với nước đó.
- 8 -

TGHĐ thực cân bằng là mức tỷ giá mà tại đó nền kinh tế đồng thời đạt cân bằng
bên trong (cân bằng trên thị trường hàng hoá phi mậu dịch) và cân bằng bên ngoài
(cân bằng tài khoản vãng lai). Tỷ giá thực cân bằng có mối quan hệ mật thiết với
các biến số kinh tế khác, nó thể hiện độ nhạy của các biến kinh tế đối với chính
sách kinh tế vĩ mô đặc biệt là trong ngắn và trung hạn.
1.4. Các loại TGHĐ
1.5. TGHĐ cố định
Tỷ giá cố định là tỷ giá hình thành trong chế độ tiền tệ Bretton Woods. Tỷ
giá cố định chính là tỷ giá chính thức do nhà nước công bố. Dưới áp lực cung cầu
của thị trường, để duy trì được tỷ giá cố định buộc nhà nước phải thường xuyên
can thiệp.
Nhận định chung về chế độ tỷ giá cố định:
Đây là chế độ tỷ giá hối đoái mà ở đó Nhà nước, cụ thể là NHTW tuyên bố
sẽ duy trì tỷ giá giữa đồng tiền của quốc gia mình với một hoặc một số đồng tiền
nào đó ở một mức độ nhất định. Ở đây, NHTW đóng vai trò điều tiết lượng dư cầu
hoặc dư cung về ngoại tệ để giữ tỷ giá hối đoái cố định bằng cách bán ra hoặc mua
vào số dư đó.
Ưu điểm của chế độ tỷ giá cố định:
+ Thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế vì nó mang lại một môi trường ổn
định, thuận lợi, ít rủi ro cho các hoạt động kinh doanh.
+ Buộc các chính phủ phải hoạch định và thực thi các chính sách vĩ mô.
+ Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm tránh những xung đột về
mục tiêu chính sách và những biến động về tỷ giá.
Hạn chế của chế độ tỷ giá cố định:
+ Thường chịu sức ép lớn mỗi khi xảy ra các cơn sốc từ bên ngoài hoặc từ
thi trường hàng hoá trong nước, bởi khi đó mức chênh lệch thực tế quá lớn về giá
trị giữa nội tệ và ngoại tệ sẽ dẫn đến phá vỡ mức cân bằng tỷ giá.
+ Chế độ tỷ giá cố định làm mất tính chủ động của chính sách tiền tệ, khiến
cho NHTW gặp khó khăn trong việc thay đổi lượng tiền cung ứng.
- 9 -

+ Đặc biệt, nó làm cho các quốc gia dễ rơi vào tình trạng "nhập khẩu lạm
phát" không mong muốn.
1.6. TGHĐ thả nổi
Trong một hệ thống tỷ giá thả nổi tự do, tỷ giá sẽ được các lực thị trường ấn
định mà không có sự can thiệp của chính phủ. Theo hệ thống này, các công ty đa
quốc gia sẽ cần phải dành nhiều thời gian đáng kể cho việc tính toán và quản lý
các rủi ro do dao động tỷ giá. Trong một hệ thống tỷ giá cố định, các công ty này
sẽ ít phải bận tâm về việc lên xuống hàng ngày của tỷ giá.
Các điểm thuận lợi của một hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi tự do:
Từ một quan điểm vĩ mô, liên quan đến sự ổn định của toàn thế giới, một
hệ thống thả nổi tự do có thể được ưa thích hơn một hệ thống tỷ giá hối đoái cố
định. Để minh họa, giả dụ rằng chỉ có hai quốc gia trên thế giới: Mỹ và Anh. Hai
quốc gia này mua bán thường xuyên với nhau. Bây giờ giả sử rằng hệ thống tỷ giá
hối đoái giữa hai nước cố định. Nếu Mỹ có mức lạm phát cao hơn ở Anh, chúng ta
có thể dự kiến người tiêu dùng Mỹ mua nhiều hàng của Anh hơn và người tiêu
dùng Anh giảm bớt việc nhập khẩu hàng Mỹ (do giá hàng Mỹ cao hơn). Phản ứng
này sẽ làm cho sản xuất của Mỹ giảm và thất nghiệp tăng. Nó cũng có thể làm cho
lạm phát ở Anh tăng do nhu cầu hàng hóa của Anh vượt mức cung hàng hóa do
Anh sản xuất. Nói tóm lại, lạm phát cao ở Mỹ có thể gây ra lạm phát cao ở Anh.
Các kết quả sẽ không nhất thiết giống như vậy trong một môi trường tỷ giá
hối đoái thả nổi tự do. Do lạm phát ở Mỹ cao, việc gia tăng nhu cầu của Mỹ đối
với hàng hóa Anh sẽ gây áp lực tăng giá trị đồng bảng Anh. Là kết quả thứ hai của
mức lạm phát cao ở Mỹ, việc mức cầu của Anh đối với hàng hóa Mỹ giảm sẽ hàm
ý mức cung đồng bảng Anh để bán (chuyển đổi thành đô la) cũng giảm. Đến lượt
mình, sự giảm này cũng sẽ gây áp lực tăng giá trị đồng bảng Anh. Đồng bảng Anh
sẽ tăng giá do các lực thị trường này (trong một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định
đồng bảng Anh sẽ không được phép tăng giá). Sự tăng giá này sẽ làm cho hàng
hóa của Anh đắt hơn đối với người tiêu dùng Mỹ- đắt như hàng hóa Mỹ ngay cả
khi các nhà sản xuất Anh không tăng giá hàng của mình. Giá cả hàng hóa cao hơn
- 10 -

là do đồng bảng Anh tăng giá, đòi hỏi phải cần một lượng đô la lớn hơn để mua
cùng một lượng bảng Anh như trước đây. Ở Anh giá cả thực sự ở Mỹ tăng, người
tiêu dùng Anh sẽ tiếp tục mua hàng hóa Mỹ vì đồng bảng của họ có thể đổi lấy
nhiều đô hơn (do đồng bảng tăng giá so với đồng đô la).
Phần trình bày trên cho thấy rằng lạm phát ở Mỹ sẽ có một ảnh hưởng lớn
hơn đối với lạm phát ở các nước khác trong một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định
hơn là trong hệ thống tỷ giá thả nổi. Các vấn đề một nước này gặp phải không nhất
thiết sẽ lây nhiễm sang các nước khác trong một môi trường tỷ giá hối đoái thả nổi
tự do. Trong thí dụ trên, Anh có phần nào bị cách ly khỏi tác động của lạm phát
Mỹ nhờ vào các biến động trong tỷ giá.
Ta hãy xem một vấn đề kinh tế thường gặp kế tiếp đó là thất nghiệp. Trong
một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, mức thất nghiệp cao ở Mỹ sẽ gây nên một sự
giảm sút trong thu nhập của Mỹ và suy giảm sức mua của Mỹ đối với hàng hóa
của Anh. Do đó năng suất của Anh có thể giảm và thất nghiệp ở Anh tăng. Trong
hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi, việc giảm trong sức mua của Mỹ đối với hàng hóa
của Anh sẽ phản ánh một sự sụt giảm trong nhu cầu của Mỹ đối với đồng bảng
Anh. Sự thay đổi trong nhu cầu có thể làm cho đồng bảng Anh giảm giá so với
đồng đô la (trong một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, đồng bảng Anh sẽ không
được phép giảm giá). Sự giảm giá của đồng bảng sẽ làm cho hàng hóa của Anh có
vẻ rẻ hơn đối với người tiêu dùng Mỹ, bù trừ lại việc suy giảm có thể có trong
mức cầu đối với hàng hóa Anh do mức thu nhập thấp hơn ở Mỹ. Cũng giống như
trường hợp lạm phát, một sự thay đổi đột ngột trong mức thất nghiệp có vẻ ít tác
động đến nước ngoài trong một hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi hơn là trong một
hệ thống tỷ giá hối đoái cố định.
Một lợi điểm khác của tỷ giá thả nổi tự do là các ngân hàng trung ương
không bị đòi hỏi phải liên tục duy trì tỷ giá hối đoái trong biên độ đã định. Vì vậy,
họ không bị buộc phải thực hiện một chính sách can thiệp có thể tạo nên những tác
động không thuận lợi đối với nền kinh tế chỉ để kiểm soát tỷ giá. Hơn nữa, các
chính phủ có thể thực thi những chính sách mà không cần bận tâm là các chính
- 11 -

sách này sẽ duy trì được tỷ giá trong vòng các biên độ quy định hay không. Cuối
cùng, nếu tỷ giá không được phép thả nổi, các nhà đầu tư sẽ đầu tư vốn của mình
vào bất cứ nước nào có lãi suất cao nhất. Điều này có thể sẽ làm cho chính phủ của
các nước có lãi suất thấp hạn chế vốn của các nhà đầu tư đem ra khỏi nước mình.
Như vậy, sẽ có nhiều hạn chế dòng vốn và hiệu quả của thị trường tài chính sẽ bị
sút giảm.
Các điểm bất lợi của một hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi:
Trong các thí dụ trước, nước Anh có phần nào được cách ly khỏi những vấn
đề mà Mỹ gặp phải nhờ hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi tự do. Trong khi đây là
một lợi điểm trong việc bảo vệ nước mình (Anh) thì nó có thể là một điểm bất lợi
cho nước kia đang gặp những khó khăn về kinh tế. Chẳng hạn, nếu Mỹ đang có
lạm phát cao, đồng đô la Mỹ có thể giảm giá, qua đó cách ly Anh khỏi lạm phát
như đã trình bày trước đây. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm của Mỹ, một đồng đô
la yếu sẽ làm cho giá nhập khẩu tăng cao hơn. Điều này có thể làm tăng giá
nguyên vật liệu và sẽ làm tăng giá cả thành phẩm của Mỹ. Thêm vào đó, giá cả
hàng ngoại nhập cao hơn (trên quan điểm của Mỹ) có thể buộc người tiêu dùng
Mỹ mua các sản phẩm nội địa. Khi các nhà sản xuất Mỹ nhận ra rằng cạnh tranh
của hàng nước ngoài giảm do đồng đô la giảm giá, họ có thể tăng giá hàng của
mình một cách dễ dàng mà không sợ mất khách hàng do cạnh tranh của nước
ngoài.
Thí dụ thứ hai, ta xem một trường hợp mà mức thất nghiệp của Mỹ đang
gia tăng. Việc này có xu hướng buộc giá trị của đồng đô la tăng do nhu cầu hàng
nhập khẩu giảm. Một đồng đô la mạnh hơn lúc đó sẽ khơi nguồn trở lại ước muốn
tiêu dùng hàng ngoại nhập, vì có thể mua hàng rẻ. Tuy nhiên một phản ứng như
vậy có thể thực sự tai hại cho Mỹ trong suốt các thời kỳ mức thất nghiệp cao. Các
thí dụ trên minh họa các vấn đề của một quốc gia có thể bị tăng thêm tác hại do
các tỷ giá thả nổi tự do. Mặt khác, các thí dụ trước đây cho thấy rằng trong một
môi trường tỷ giá hối đoái thả nổi cố định các vấn đề của một quốc gia có thể lây
lan sang các quốc gia khác. Hệ thống nào được ưa thích hơn có thể tùy thuộc vào
- 12 -

môi trường chính trị, các điều kiện kinh tế, các mục tiêu và các chính sách của một
quốc gia.
1.7. TGHĐ tổng hợp
Trong thực tế, hầu như ít có một quốc gia nào áp dụng chế độ tỷ giá cố định
hoặc thả nổi thuần túy mà thay vào đó là một hệ thống tỷ giá kết hợp giữa thả nổi
và cố định với những đặc trưng đa dạng phù hợp với đặc điểm của từng quốc gia.
Sau đây là các kết hợp chủ yếu:
Hệ thống dải băng tỷ giá. Ngày nay có nhiều cách sắp xếp các tỷ giá. Mỗi
cách liên quan đến một chính sách cố định giá trị một đồng tiền đối với đồng tiền
khác hay đối với một đơn vị tiền tệ nào đó. Mặc dù đồng ECU không còn tồn tại
nữa mà thay vào đó là đồng euro nhưng việc nghiên cứu những thỏa thuận tiền tệ
trong các giai đoạn đã qua sẽ rất hữu ích cho những quốc gia đang trong tiến trình
hội nhập. Một trong những cách sắp xếp tỷ giá hối đoái cố định nổi tiếng được
cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) lập tháng 4 năm 1972, khi các nước thành viên
cộng đồng ấn định rằng các đồng tiền của họ sẽ được duy trì trong vòng các giới
hạn được thiết lập đối với nhau. Sắp xếp này được gọi là dãi băng tỷ giá.
Theo thể thức EMS, tỷ giá hối đoái của các nước thành viên cũng được duy
trì trong các giới hạn cụ thể quy định và cũng ràng buộc với đơn vị tiền tệ Châu
Âu (đồng ECU). Đồng ECU không phải là một đồng tiền, mà chỉ là đơn vị tính
toán. Đó là bình quân gia quyền của tỷ giá hối đoái của các nước thành viên, mỗi
quyền số được ấn định bởi tổng sản phẩm quốc dân và hoạt động mậu dịch nội bộ
Châu Âu tương ứng của các nước thành viên. Các đồng tiền của các nước thành
viên này có thể dao động không quá 2,25% (6% cho Ý) từ mức ngang giá được lập
ban đầu. Để tránh việc giá trị đồng tiền biến động vượt khỏi biên độ đã quy định,
các ngân hàng trung ương can thiệp trong các thị trường ngoại hối. Các nước
thành viên hoàn toàn của EMS là Bỉ, Đan Mạch, Đức, Ý, Luxembourg và Hà Lan.
Hy Lạp, Tây Ban Nha và Anh cũng ký hiệp định EMS nhưng lúc đầu quyết định
không tham gia hệ thống tỷ giá hối đoái này.
- 13 -
Tháng 10/1990 Anh đồng ý gia nhập thể thức tỷ giá hối đoái của EMS.

Theo thể thức này, đồng bảng sẽ được phép biến động ± 6% so với tỷ giá 2,95
mark Đức mỗi bảng.
Các tỷ giá trung tâm của vài đồng tiền ràng buộc với đồng ECU đã được
điều chỉnh nhiều lần giữa năm 1986 và 1991. Thí dụ, tháng 4 năm 1986 đồng franc
Pháp giảm giá so với các đồng tiền khác nhằm gia tăng nhu cầu xuất nhập khẩu
của Pháp. Ngoài ra, giá trị của đồng mark Đức và đồng guilder Hà Lan tăng so với
các đồng tiền khác có tương quan với đồng ECU. Trong tháng giêng năm 1990,
đồng lire của Ý giảm giá so với các đồng tiền khác.
Mỗi đồng tiền ràng buộc với đồng ECU được phân bổ một tỷ giá gọi là tỷ
giá hối đoái trung tâm tương ứng với đồng ECU. Từ các tỷ giá này ta có thể xác
định tỷ giá trung tâm giữa hai đồng tiền bất kỳ nào đó. Thí dụ, giả dụ rằng các tỷ
giá hối đoái trung tâm của đồng mark Đức và đồng franc Pháp tương ứng với đồng
ECU là 6,9 và 2,06. Từ thông tin này, chúng ta có thể xác định rằng tỷ giá trung
tâm giữa đồng mark Đức (DEM) và đồng franc Pháp (FRF) là


35,3
06,2
9,6
==
Hoặc tỷ giá trung tâm của đồng mark trong các đơn vị cho mỗi franc có thể
được ấn định bằng cách đảo ngược tỷ lệ trên bằng 0,298.
Với tỷ giá trung tâm của hai đồng tiền này, có thể xác định các giới hạn trên
và dưới bằng cách áp dụng biên độ ± 2,25%. Thí dụ, các giới hạn trên và dưới của
đồng franc Pháp trong các đơn vị cho mỗi mark là:
Giới hạn trên FRF/DEM = tỷ giá trung tâm x (1+ 0,025)
= 3,35 x 1,025= 3,425
Giới hạn dưới FRF/DEM = tỷ giá trung tâm x( 1-0,025)
Tỷ giá trung tâm của FRF trong các =
đơn vị cho mỗi DEM

tỷ giá trung tâm của FRF trong các đơn vị cho mỗi
ECU
tỷ giá trung tâm của DEM trong các đơn vị cho mỗi
ECU
- 14 -
= 3,35 x 0,9775 = 3,275
Nếu tỷ giá giữa đồng franc Pháp và đồng mark Đức tiến gần đến giới hạn
trên hay dưới, các NHTW sẽ can thiệp để duy trì tỷ giá hối đoái trong vòng các
giới hạn này. Nếu điều chỉnh tỷ giá trung tâm của mỗi đồng tiền tương ứng với
đồng ECU.
Hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ.
Hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ còn được gọi là neo tỷ giá có điều chỉnh hay
là các ngang giá trượt. Trong hệ thống này, một quốc gia ấn định một ngang giá
cho đồng tiền của mình và cho phép một thay đổi nhỏ xoay quanh ngang giá chẳng
hạn như cộng trừ 1% so với ngang giá. Lưu ý là trong hệ thống này các giá trị
danh nghĩa sẽ được thay đổi với số lượng nhỏ và thường là có thông báo trước với
khoảng thời gian thật cụ thể, chẳng hạn như mỗi tháng một lần cho đến khi nào đạt
đến tỷ giá cân bằng. Hệ thống này được minh họa ở hình sau, thay vì một quốc gia
phá giá duy nhất một lần 6% trong 3 tháng thì quốc gia đó có thể phá giá 2% mỗi
lần trong 3 tháng liên tục.
Các ngang giá này sẽ được điều chỉnh dần với một số lượng nhỏ tuân theo
những chỉ dẫn trong hành vi các biến số của nền kinh tế như vị thế dự trữ ngoại
hối quốc gia, những thay đổi gần đây của tỷ giá xoay quanh ngang giá. Khi những
biến số này tạo ra những sức ép tiềm ẩn lên quốc gia chẳng hạn như dự trữ ngoại
CB
Tháng
S($/£)
A
D
F G

1 2 3
2,0
1,98
- 15 -
hối quốc gia suy yếu, giá trị ngang giá của đồng tiền sẽ được phá giá một cách
chính thức với một tỷ lệ phần trăm nhỏ. Tất nhiên khi giá trị ngang giá thay đổi thì
biên độ 1% sẽ áp dụng cho ngang giá mới.
Một ví dụ cách điệu về hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ thể hiện trên hình
trên. Đường đậm thể hiện mức trần và sàn gắn liền với con rắn, đường chấm thể
hiện dáng đi thực sự của tỷ giá. Lưu ý rằng tỷ giá thực sự nằm giữa mức sàn và
mức trần cho đến điểm A. Tỷ giá trần sau A chỉ có thể được duy trì bằng việc sử
dụng các khoản dự trữ ngoại hối quốc gia; nhưng việc sử dụng tiếp tục dự trữ
ngoại hối sẽ châm ngòi cho một sự thay đổi của ngang giá, thể hiện ở dải băng cao
hơn (phản ánh đồng nội tệ bị phá giá) sau điểm B. Quá trình này sẽ tiếp diễn ở
điểm C và D. Sau đó, nếu dự trữ ngoại hối quốc gia tăng lên có thể tạo ra một sức
ép làm tăng giá trị ngang giá trở về điểm F và sau đó là điểm G, vì thế con rắn sẽ
xu hướng trườn xuống.
Để ngăn chặn khả năng đầu cơ gây mất ổn định trong tỷ giá hối đoái, chính
phủ có thể điều chỉnh lãi suất ngắn hạn để cách ly bất kỳ các khoản lợi nhuận nào
có thể có do những thay đổi trong tỷ giá đã được thông báo trước hoặc nhà đầu cơ
có thể dự đóan được từ bản chất của hệ thống tỷ giá này. Chẳng hạn một thông
báo phá giá tiền tệ 2% phải đi kèm theo 2% tăng lên trong lãi suất ngắn hạn, mặc
dù điều này có thể ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tiền tệ của chính phủ.
Những người ủng hộ hệ thống con rắn tiền tệ cho rằng ít nhất về mặt lý
thuyết sự hiện hữu của mức trần và sàn tỷ giá có thể tạo ra tính kỷ luật trong chính
sách tiền tệ. Ngoài ra, tỷ giá thay đổi một cách định kỳ cũng có nghĩa là vai trò của
chính sách tỷ giá đối với việc điều chỉnh cán cân thanh toán sẽ được duy trì. Cuối
cùng, bởi vì chỉ có mỗi thay đổi với tỷ lệ nhỏ cho nên ít có nguy cơ dẫn đến đầu cơ
tiền tệ. Vào tháng 9/1996 Chilê và Nicaragua đã áp dụng thành công chế độ tỷ giá
con rắn tiền tệ.

Những tranh luận chống lại hệ thống này là một thay đổi lớn trong vị thế
cán cân thanh toán của một quốc gia do các cú sốc bên trong và bên ngoài sẽ cần
có một thay đổi lớn để tái lập thế cân bằng cán cân thanh toán. Nếu cứ duy trì liên
- 16 -
tục hệ thống con rắn tiền tệ một cách nghiêm ngặt thì quốc gia đó có thể hy sinh
các mục tiêu bên trong như công ăn việc làm, sức cạnh tranh hàng xuất khẩu …
Ngoài ra, nếu những thay đổi ngang giá nhỏ xảy ra định kỳ và nếu như không dự
đoán được sẽ làm phát sinh thêm những rủi ro trong đầu tư và thương mại quốc tế.
Cuối cùng trong điều kiện nền kinh tế không ổn định và có lạm phát thì hệ thống
này có thể chuyển sang giống như hệ thống tỷ giá thả nổi. Columbia là một điển
hình về thất bại trong việc áp dụng hệ thống neo tỷ giá theo đồng đô la giai đoạn
1980- 1990.
Hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý.
Hệ thống tỷ giá hối đoái hiện hữu ngày nay đối với một vài đồng tiền nằm
đâu đó giữa cố định và thả nổi tự do. Nó giống hệ thống thả nổi tự do ở điểm các
tỷ giá được cho phép dao động hàng ngày và không có các biên độ chính thức.
Nhưng nó lại giống hệ thống cố định ở điểm các chính phủ có thể và đôi khi đã
can thiệp để tránh đồng tiền nước họ không đi quá xa theo một hứơng nào đó. Loại
hệ thống này được gọi là thả nổi có quản lý, hay thả nổi “không hoàn toàn” ( để
đối lại với thả nổi “hoàn toàn” khi tỷ giá thả nổi tự do không có sự can thiệp của
chính phủ).
Một vài nhà phê bình cho rằng một hệ thống thả nổi có quản lý cho phép
một chính phủ vận dụng các tỷ giá theo một cách thức có thể có lợi cho riêng nước
mình mà làm thiệt hại đến các nước khác. Thí dụ, một chính phủ có thể cố gắng hạ
giá đồng tiền của mình để kích thích một nền kinh tế đình trệ. Một mức tổng cầu
các sản phẩm do hậu quả của chính sách này có thể phản ánh một mức tổng cầu
các sản phẩm này của các nước khác giảm, do đồng tiền giảm giá hấp dẫn nhu cầu
của nước ngoài. Trong khi sự phê bình này có giá trị, nó có thể áp dụng cho cả hệ
thống tỷ giá hối đoái cố định, trong hệ thống đó, các chính phủ cũng có quyền
giảm giá đồng tiền của mình.

Chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ.
Đây là một hệ thống tỷ giá hối đoái đặc biệt đã và đang áp dụng ở các nước
Achentina, Hong Kong, Estonia, Bungari và Lithuania để tạo niềm tin cho các nhà
- 17 -
đầu tư và chống lại những chi tiêu quá mức làm thâm hụt ngân sách dẫn đến lạm
phát cao.
1.8. TGHĐ chính thức và song song
Tỷ giá chính thức là tỷ giá do nhà nước công bố ( thường là NHTW hoặc
do cả thị trường và NHTW quy định ).
Tỷ giá hối đoái song song ( hay tỷ giá chợ đen) do thị trường quyết định.
1.9. TGHĐ song phương và hiệu lực
Tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền được gọi là tỷ giá hối đoái song phương.
Còn tỷ giá hối đoái hiệu lực là tỷ lệ trao đổi giữa một đồng tiền X với nhiều đồng
tiền khác cùng lúc (thông thường là đồng tiền của các bạn hàng thương mại lớn).
Tỷ giá này được tính dựa trên giá trị bình quân gia quyền của các tỷ giá song
phương giữa đồng tiền X với từng đồng tiền kia. Tỷ giá hối đoái hiệu lực cũng có
loại danh nghĩa và loại thực tế.
1.10. TGHĐ danh nghĩa và thực tế
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá hối đoái không xét đến tương quan giá
cả hay tương quan lạm phát giữa hai nước.
Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá hối đoái có xét đến tương quan giá cả giữa hai
nước hoặc tương quan tỷ lệ lạm phát giữa hai nước.
Quan hệ giữa hai loại tỷ giá này được thể hiện qua cách tính sau:
Tỷ giá hối đoái thực tế = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Giá nước
ngoài / Giá nội địa
= Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Tỷ lệ lạm
phát nước ngoài / Tỷ lệ lạm phát trong nước.
1.11. Các yếu tố tác động lên TGHĐ
Sự hình thành TGHĐ là quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ quan và
khách quan. Nhưng nhìn chung, có ba yếu tố chính tác động đến tỷ giá. Đó là mối

quan hệ cung cầu về ngoại tệ, độ lệch về lãi suất và lạm phát giữa các nước.
1.12. Mối quan hệ cung- cầu về ngoại tệ
- 18 -
Như chúng ta đã biết, đối với cung của một loại hàng hoá bất kỳ nào thì sự
thay đổi cung của hàng hoá đó luôn chịu giới hạn nhất định nhưng cung của tiền
có thể tăng đến vô hạn. Ngược lại cầu hàng hoá phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng,
tích trữ, đầu cơ nên chúng ta có thể lượng ước được và tính toán được lượng cầu
hàng hoá nhưng đối với tiền thì không, cầu tiền là vô hạn. Vì lẽ đó cung cầu ngoại
tệ thường xuyên thay đổi và không có giới hạn cho sự thay đổi đó. Khi cung ngoại
tệ vượt quá cầu ngoại tệ ngay lập tức giá ngoại tệ sẽ giảm xuống ngược lại khi cầu
ngoại tệ vượt quá cung ngoại tệ thì giá ngoại tệ sẽ tăng lên và dẫn đến tỷ giá sẽ
thay đổi. Như vậy mọi sự biến đổi của cung ngoại tệ khác với sự biến đổi của cầu
ngoại tệ đều tác động mạnh đến tỷ giá.
1.13. Lạm phát giữa các nước
Nếu như mức độ lạm phát giữa hai nước khác nhau, trong điều kiện các
nhân tố khác không thay đổi, sẽ dẫn đến giá cả hàng hoá ở hai nước đó có những
biến động khác nhau, làm cho ngang giá sức mua của hai đồng tiền đó bị phá vỡ,
làm thay đổi tỷ giá hối đoái.
Giả sử Việt Nam có tỷ lệ lạm phát cao hơn Mỹ. Thì tăng nhu cầu về USD,
cung USD giảm, làm cho đồng VND giảm giá.
Nếu tỷ lệ lạm phát ở một nước cao hơn so với nước khác, giá cả hàng hoá
và dịch vụ nhập khẩu từ nước đó sẽ tăng lên, và do đó nhu cầu về hàng hoá dịch
vụ này ở nước khác sẽ giảm xuống. Cùng với nhu cầu về hàng hoá dịch vụ giảm,
nhu cầu về đồng tiền nước đó ở nước ngoài cũng sẽ giảm xuống. Sự giảm nhu cầu
về đồng nội tệ, tương đương với sự giảm cung trên thị trường ngoại hối. Ngược
lại, nhu cầu hàng hoá dịch vụ của nước ngoài tăng lên, do đó cầu ngoại tệ tăng.
Sự tăng lên nhu cầu ngoại tệ xảy ra cùng với sự giảm xuống của cung ngoại
tệ sẽ gây lên sự giảm giá của đồng nội tệ.
Tương tự như vây, nếu tỷ lệ lạm phát ở nước này tăng lên so với tỷ lệ lạm
phát của nước khác, thì đồng nội tệ sẽ tăng giá.

1.14. Tác động của TGHĐ đến nền kinh tế
- 19 -
TGHĐ chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau nhưng đồng thời nó cũng
tác động tới nhiều mặt khác nhau của nền kinh tế trong đó quan trọng nhất là tới
lạm phát, hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư và tín dụng quốc tế.
1.15. Lạm phát
Việc giảm giá đồng nội tệ sẽ làm tăng giá các mặt hàng nhập khẩu tính
bằng nội tệ. Các hộ gia đình trong nước phải trả hàng tiêu dùng nhập khẩu với
mức giá tăng cùng với tỷ lệ phá giá. Tương tự như vậy, các nhà xuất khẩu sử dụng
các đầu vào nhập khẩu bao gồm nguyên, nhiên, vật liệu máy móc, thiết bị cũng bị
tổn thất vì phải chịu mức giá cao hơn. Kết quả là mức giá chung của nền kinh tế
trở nên cao hơn, đặc biệt trong trường hợp một nền kinh tế nhỏ, mở cửa với thế
giới bên ngoài có xuất khẩu và nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao so với GDP. Tác động
tăng giá ban đầu này có thể khởi động các phản ứng phòng vệ của các nhóm xã
hội, những người tìm cách bảo vệ mức sống của mình. Như vậy việc giảm giá
đồng nội tệ có thể châm ngòi cho sự gia tăng lạm phát, tùy theo bản chất và cơ chế
tác động trong cơ cấu kinh tế xã hội. Ở những nơi xảy ra hiện tượng này, tác dụng
thực tế của biện pháp phá giá tỷ giá hối đoái danh nghĩa sẽ nhanh chóng mất tác
dụng và chẳng bao lâu tỷ giá hối đoái thực tế chẳng còn thấp nữa và khả năng
cạnh tranh quốc tế của hàng hóa trong nước cũng không được cải thiện.
1.16. Cán cân xuất – nhập khẩu
Có thể nói, tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là những công cụ
kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết cán cân thương mại quốc tế theo mục tiêu định
trước của một nước.
Trước hết, tỷ giá và những biến động của tỷ giá có ảnh hưởng trực tiếp đến
mức giá cả hàng hoá dịch vụ xuất nhập khẩu của một nước. Khi tỷ giá thay đổi
theo hướng làm giảm sức mua đồng nội tệ, thì giá cả hàng hoá dịch vụ của nước
đó sẽ tương đối rẻ hơn so với hàng hoá dịch vụ nước khác ở cả thị trường trong
nước và thị trường quốc tế. Dẫn đến cầu về xuất khẩu hàng hoá dịch vụ của nước
đó sẽ tăng, cầu về hàng hoá dịch vụ nước ngoài của nước đó sẽ giảm và tạo ra sự

thặng dư của cán cân thương mại.
- 20 -
Ví dụ: Trước đây 1USD = 14000VND. 1 chiếc máy tính giá 750USD được
nhập khẩu và tính ra đồng nội tệ của Việt Nam là 10.500.000VND. Đến nay, giả
sử giá chiếc máy tính không đổi, trong khi tỷ giá thay đổi 1USD = 15000VND thì
cũng chiếc máy tính đó được nhập khẩu và bán với giá 11.250.000VND. Giá đắt
hơn, nhu cầu nhập máy tính sẽ giảm. Nhưng đối với xuất khẩu thì ngược lại khi tỷ
giá 1USD = l4000VND, giá xuất khẩu 1 tấn gạo với chi phí sản xuất là 3,5 triệu
VND là 250USD, nhưng với chi phí sản xuất không đổi thì giá bán chỉ khoảng
233USD. Giá giảm cầu xuất khẩu sẽ tăng.
Trong trường hợp ngược lại, khi tỷ giá biến đổi theo hướng làm tăng giá
đồng nội tệ. Sự tăng giá của đồng nội tệ có tác động hạn chế xuất khẩu vì cùng
một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi được ít hơn đồng nội tệ. Tuy
nhiên, đây là cơ hội tốt cho các nhà nhập khẩu, nhất là nhập khẩu nguyên liệu,
máy móc để phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong nước. Đồng thời, lượng ngoại tệ
chuyển vào trong nước có xu hướng giảm xuống làm khối lượng dự trữ ngoại tệ
ngày càng bị xói mòn vì khuynh hướng giá tăng nhập khẩu để có được lợi nhuận,
có thể gây nên tình trạng mất cân đối cán cân thương mại quốc tế.
1.17. Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là việc di chuyển vốn từ nước này đến nước khác nhằm thu
được lợi nhuận cao nhất. Có 2 hình thức đầu tư: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp.
Đối với đầu tư trực tiếp, tỷ giá hối đoái sẽ tác động đến giá trị phần vốn mà
nhà đầu tư nước ngoài đầu tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu
sản xuất được đưa vào nước sở tại thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ
giá chính thức. Bên cạnh đó, tỷ giá còn tác động đến chi phí sản xuất và hiệu quả
của các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó sự thay đổi tỷ giá có ảnh hưởng nhất
định đến hành vi của nhà đầu tư nước ngoài trong việc có quyết định đầu tư vào
nước sở tại hay không và đầu tư bao nhiêu.
- 21 -

Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế
cũng như việc mua và bán các loại chứng khoán có giá trị trên thị trường. tổng lợi
tức nhận được từ việc đầu tư quốc tế bao gồm hai bộ phận:
- Lợi tức nhận được từ tài sản tính bằng ngoại tệ.
- Khoản lãi vốn (hay lỗ vốn) phát sinh do việc giảm giá (hay tăng giá)
của đồng nội tệ trong thời gian đó
Lợi tức từ khoản cho vay bằng ngoại tệ = lãi suất ngoại tệ + giảm giá đồng
nội tệ
Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do, sẽ xảy ra tình trạng
là luồng vốn nước ngoài mỗi khi tổng lợi tức từ khoản cho vay bằng ngoại tệ lớn
hơn lãi suất trong nước, chẳng hạn khi mọi người dự tính đồng nội tệ sẽ giảm giá
trong tương lai. Và khi lãi suất trong nước lớn hơn tổng lợi tức từ khoản cho vay ở
nước ngoài thì sẽ có luồng vốn lớn đổ vào trong nước.
Như vậy muốn tìm ra một môi trường đầu tư ổn định nhằm mục tiêu phát
triển kinh tế, đòi hỏi các quốc gia cần xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ
giá ổn định, hợp lý. Sự mất ổn định của tỷ giá hối đoái đồng nghĩa với việc gia
tăng về mức độ rủi ro trong lĩnh vực đầu tư và gây tổn hại đến vốn đầu tư nước
ngoài.
1.18. Tín dụng quốc tế
Nếu tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam hạ, đồng ngoại tệ tăng, thì khoản trả nợ
của Ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp sẽ phải tăng nhưng xuất khẩu hàng
hoá, dịch vụ lại có lợi, đó là một bài toán khó, phải tính xem lợi ích do xuất khẩu
mang lại cho phát triển kinh tế có bù lại được thiệt hại của số tiền ngân sách nhà
nước và doanh nghiệp phải trả nợ cao hơn không?
Thực tế việc điều chỉnh tỷ giá làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài. Tính đến
tháng 10/1998, so với mức nợ nước ngoài 22 tỷ USD, sự thay đổi của tỷ giá đã
làm cho nó tăng thêm 42,86 triệu USD, cộng với 17,86 triệu USD tiền lãi, tổng
cộng là 60,72 triệu USD đã gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp có vốn vay
nước ngoài, thậm chí đẩy thêm nhiều doanh nghiệp vào tình trạng thua lỗ.
- 22 -

1.19. Các công cụ điều hành chính sách tỷ giá
Tại sao chính phủ phải can thiệp vào ngoại hối?
Ba lý do chính để các ngân hàng trung ương quản lý các tỷ giá hối đoái:
- Làm dịu bớt các biến động tỷ giá
- Thiết lập các biên độ tỷ giá hối đoái ẩn
- Ứng phó với các xáo trộn tạm thời
Nếu một ngân hàng lo ngại rằng nền kinh tế của mình sẽ bị ảnh hưởng của
các biến động đột ngột trong giá trị đồng nội tệ, ngân hàng có thể làm dịu bớt các
biến động tiền tệ qua thời gian. Các hành động của ngân hàng có thể giúp cho các
chu kỳ kinh doanh ít thay đổi, là điều thường được chính phủ cảm nhận một cách
thuận lợi. Ngoài ra, việc này có thể làm giảm bớt sự sợ hãi trong các thị trường tài
chính và trong hoạt động đầu cơ có thể làm cho giá của một đồng tiền rơi tự do.
Một vài NHTW nỗ lực duy trì tỷ giá đồng nội tệ trong vòng các biên độ
không chính thức hay ẩn. Báo chí thường trích dẫn là các nhà phân tích dự đoán là
một đồng tiền sẽ không tụt dưới mức hay tăng trên mức chuẩn nào đó vì NHTW
sẽ can thiệp để điều này không xảy ra. Hệ thống Dự trữ liên bang đã can thiệp định
kỳ giữa năm 1983 và năm 1985 trong một nỗ lực đảo ngược áp lực tăng giá của
đồng đô la Mỹ. Từ năm 1986 đến đầu năm 1988 để đảo ngược áp lực giảm giá của
đồng đô la. Điều này cho thấy rằng hệ thống dự trự liên bang có thể thiết lập các
giới hạn ẩn cho đồng đô la. Tuy nhiên ngay cả khi có các giới hạn, các giới hạn
này cũng sẽ được điều chỉnh qua thời gian. Một đồng đô la yếu hay rất mạnh sẽ dễ
được chấp nhận ở một vài thời kỳ hơn là ờ các thời kỳ khác.
Trong một vài trường hợp, một ngân hàng trung ương có thể để cô lập giá
trị của một đồng tiền khỏi sự xáo trộn tạm thời. Thí dụ, tin giá dầu sẽ tăng có thể
đưa đến dự kiến là giá trị đồng yên sẽ giảm trong tương lai, vì Nhật chuyển đổi
đồng yên sang đô la để mua dầu của các nước xuất khẩu dầu. Các nhà đầu cơ thị
trường ngoại hối có thể đổi đồng yên lấy đô la dự phòng cho sự giảm giá này. Vì
vậy chính phủ Nhật có thể can thiệp để bù trừ áp lực giảm giá tức thời của đồng
yên do các giao dịch thị trường này.
- 23 -

Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng sự can thiệp của một chính phủ không có
tác động lâu dài đối với các biến động tỷ giá hối đoái. Trong nhiều trường hợp, sự
can thiệp này bị các lực thị trường áp đảo. Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương
hoạt động dựa trên lý thuyết là tiền tệ sẽ có thể biến động nhiều hơn nếu không có
can thiệp.
1.20. Biện pháp trực tiếp
(Mua hay bán đô la trong thị trường ngoại hối)
Phương pháp can thiệp trực tiếp của hệ thống dự trữ liên bang để buộc đồng
đô la giảm giá là bán đô la ra thị trường, đổi đô la lấy các ngoại tệ khác trong thị
trường ngoại hối. Phương pháp này gọi là “làm tràn ngập thị trường bằng đô la”
này sẽ gây áp lực giảm giá đồng đô la.
Can thiệp trực tiếp thường có hiệu quả nhất là khi có một nỗ lực phối hợp
giữa các NHTW. Nếu tất cả các ngân hàng cùng đồng thời cố gắng tăng giá hay
giảm giá đồng đô la theo cách vừa mô tả trên, họ có thể áp đặt một lực lớn hơn đối
với giá trị đồng đô la.
1.21. Biện pháp gián tiếp
Ngân hàng dự trữ liên bang có thể tác động đến đô la một cách gián tiếp
bằng cách tác động đến các yếu tố có ảnh hưởng đến đồng đô la. Thí dụ, ngân
hàng dự trữ liên bang có thể cố gắng hạ thấp lãi suất ở Mỹ để làm nản lòng các
nhà đầu tư ngoại quốc trong việc đầu tư vào chứng khoán Mỹ, do đó tạo áp lực
giảm giá đồng đô la. Hay để tăng giá đồng đô la, ngân hàng dự trữ liên bang có thể
cố gắng tăng lãi suất. Ngân hàng dự trữ liên bang đã sử dụng chiến lược này trong
suốt những năm 2000 cùng với việc can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối.
Một nghiên cứu mới đây của Batten và Thornton tìm thấy rằng một vài thay
đổi trong suất chiết khấu của ngân hàng dự trữ liên bang đã tạo nên một phản ứng
quan trọng trong các thị trường hối đoái. Điều này cho thấy những người tham gia
thị trường hối đoái nên theo dõi các hành động của ngân hàng dự trữ liên bang để
dự đoán xem những hành động này sẽ tác động thế nào đến các biến số kinh tế có
ảnh hưởng đối với tỷ giá hối đoái (như lãi suất thị trường). Do những người tham
- 24 -

gia thị trường có thể theo dõi sự can thiệp trực tiếp, họ cũng có thể theo dõi sự can
thiệp gián tiếp.
Thí dụ của việc thị trường hối đoái phản ứng thế nào đối với ảnh hưởng
gián tiếp của chính phủ liên bang là việc đồng đô la giảm giá đáng kể ngày 2 tháng
6 năm 1987, khi Paul Volcker sẽ từ chức chủ tịch ngân hàng dự trữ liên bang được
công bố. Volcker rất nổi tiếng do các nỗ lực chống lạm phát. Những người tham
gia thị trường dự đoán lạm phát ở Mỹ sẽ cao hơn - và như vậy đồng đô la có thể sẽ
giảm giá - vì sự từ chức này. Những dự đoán này đã đưa đến việc bán ra một
lượng đô la lớn trong thị trường hối đoái và giá đô la sẽ giảm ngay tức khắc.
Một thí dụ tốt của sự can thiệp để tác động đến các biến động tỷ giá hối
đoái là nỗ lực của Brazil nhằm phá vỡ chu kỳ giữa lạm phát cao và suy thoái liên
tục của đồng tiền Brazil (đồng cruzado). Tháng 3 năm 1990, Fernando Collar de
Mello được bầu làm tổng thống Brazil. Một trong những mục tiêu trước mắt của
ông là làm giảm mức lạm phát, lúc đó trung bình là 70%/tháng. Một lý do chính
của lạm phát cao ở Brazil là thị trường thiếu tính cạnh tranh trong một vài ngành
công nghiệp.
Ông dự định làm gia tăng sức cạnh tranh bằng một số thay đổi lớn trong
chính sách của chính phủ. Đầu tiên, ông dự định giải thể một vài công ty quốc
doanh lớn nhằm khuyến khích cạnh tranh trong các ngành như khoáng sản và thép.
Thứ hai, ông định cắt giảm hạn chế nhập khẩu. Thứ ba, ông định giảm lạm phát
bằng cách thương lượng với các công ty để hạn chế lương bổng và giá cả. ông
cũng muốn cắt giảm mức tăng lượng cung tiền ở Brazil. Với tỷ lệ lạm phát cao
như vậy của Brazil, can thiệp trực tiếp vào thị trường hối đoái không thể có được
một tác động lâu dài. Vì vậy, các nỗ lực của Tổng thống De Mello nhằm khống
chế nguyên nhân cơ bản của việc giảm giá đồng cruzado có thể hiệu quả hơn.
1.22. Tác động thâm hụt của chính phủ đến tỷ giá
Can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung ương vào các thị trường hối đoái
(mua hay bán ngoại tệ).
- 25 -
Tác động của chính phủ đối với các yếu tố khác ảnh hưởng đến tỷ giá hối

đoái (như lãi suất, lạm phát…)
Áp đặt các hàng rào đối với ngoại thương hay đầu tư để tác động đến các
điều kiện cung và cầu một đồng tiền.
Tất cả các phương pháp này có thể được dùng để tác động một cách có chủ
định đến biến động tỷ giá hối đoái. Chính phủ cũng có thể vô tình tác động đến tỷ
giá hối đoái. Thí dụ, khi thâm hụt ngân sách lớn chính phủ bắt buộc phải vay nhiều
ở các thị trường tài chính, điều này sẽ tạo áp lực tăng lãi suất. Chẳng hạn lãi suất
cao hơn sẽ hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài vào chứng khoán Mỹ, làm tăng nhu cầu
đối với đồng đô la và vì vậy làm tăng giá đồng đô la.
Một trong những vấn đề chính trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 1984
là thâm hụt ngân sách liên bang đã bóp nghẹt xuất khẩu nông phẩm của Mỹ và làm
tăng nhập khẩu nông phẩm như thế nào. Lãi suất tương đối cao đã thu hút một
lượng lớn đầu tư nước ngoài vào Mỹ, tạo áp lực tăng giá đồng đô la. Đồng đô la
mạnh đã làm cho người tiêu dùng nước ngoài không muốn mua nông phẩm của
Mỹ và đã khuyến khích người tiêu dùng Mỹ mua nông phẩm ngoại quốc.
Một vài nhà kinh tế tin rằng mức vay nợ cao của chính phủ đã làm cho nhà
đầu tư nước ngoài dự đoán lãi suất Mỹ sẽ tăng cao và vì vậy đã bán trái phiếu Mỹ
do họ nắm giữ (vì cho là giá trị thị trường của những trái phiếu này sẽ giảm khi lãi
suất tăng) và đem tiền tái đầu tư ở các nước khác. Phản ứng này đã giúp đưa đến
sự giảm giá của đồng đô la. Ngoài ra, một vài nhà kinh tế cũng cho là thâm hụt
ngân sách lớn phản ánh thuế suất đánh trên người tiêu dùng và công ty Mỹ thấp
hơn mức thích hợp. Do đó, họ tin rằng chi tiêu của Mỹ quá cao, và một phần của
chi tiêu này dành cho hàng ngoại quốc. Chi tiêu này tạo áp lực hạ giá đồng đô la.
Nhật Bản đã chỉ trích Mỹ vì lý do này, để đáp lại chỉ trích này của Mỹ là Nhật đã
quá hạn chế nhập khẩu làm cho đồng đô la bị giảm giá.
1.23. Điều chỉnh tỷ giá
Chính phủ của bất kỳ nước nào cũng có thể thực hiện các chính sách thuế
khóa và tiền tệ riêng của mình để kiểm soát nền kinh tế mình. Ngoài ra, chính phủ

×