Led (Light Emitter Diode) là một mối nối bán
dẫn PN, khi bị kích thích bởi dòng điện thì nó
phát ra sáng. Như vậy có thể xem Led là một
linh kiện chuyển đổi trực tiếp điện năng ra
quang năng, không như bóng đèn tìm phải
chuyển điện năng ra dạng nhiệt, cho đốt nóng
một sợi kim loại trong môi trường khan khí oxy
và chờ khi sợi kim loại nóng lên mới phát ra
sáng. Từ đó, chúng ta thấy Led có các đặc tính
sau:
* Có hiệu suất rất cao, vì nó chuyển thẳng điện
năng ra quang năng.
* Có quán tính nhỏ, nghĩa là tắt là tắt ngay và
cho sáng là sáng ngay, nhấp nháy nhịp rất
nhanh.
* Có thể làm việc ở mức volt DC thấp và dòng
nhỏ, chỉ vài Volt và vài mA.
* Kích thước của điểm sáng có thể làm rất nhỏ,
lại có nhiều màu.
* và điều không kém quan trọng nữa là giá
tiền rất rẽ, lại rất bền, nên trở thành rất phổ
biến.
Với những đặc tính như vậy, Led ngày càng có
nhiều ứng dụng rất đặc sắc. Có thể dùng Led
làm bảng đèn chữ và hình, có thể dùng Led làm
màn hình rộng để hiện hình ảnh, có thể dùng
Led để chiếu sáng, dùng Led chỉ thị, dùng Led
tạo hình 2D, 3D, 4D
Tôi nghĩ không ai làm nghề điện tử mà không
hiểu rõ về Led, nó là một đề tài nhập môn của
ngành điện tử học, hôm nay chúng ta sẽ cùng
nhau tìm hiểu các cách dùng Led để phục vụ
cho cuộc sống hiện thực.
Vài hình ảnh cho thấy cấu tạo của Led và các cách dùng
Led:
Hình vẽ cho thấy Led được cấu tạo từ một mối nối bán dẫn PN,
khi chất bán dẫn Silicon cho pha Indium (có 3 nối hóa trị, khi
gắn nó vào mạng Silicon cần 4 nối, sẽ có một nối thiếu điện tử
và cho ra 1 lỗ trống) chúng ta sẽ có chân bán dẫn loại P và khi
cho pha với Phosphor (có 5 nối hóa trị, khi gắn nó vào mạng
Silicon cần 4 nối, sẽ dư ra 1 hạt điện tử), chúng ta có chân bán
dẫn loại N.
Chất bản dẫn loại P tạo điều kiện dẫn điện bằng các lỗ trống
(Hole), đó chính là các nối hóa trị thiếu điện tử. Còn chất bán
dẫn loại N có điểu kiện dẫn điện là do các điện tử tự do (điện tử
dư ra do phosphor có 5 điện tử hóa trị mà trong kết nối tinh thể
chỉ cần có 4 ).
Khi mối nối PN được cho phân cực thuận với nguồn pin ngoài,
một dòng điện kích thích khi chảy qua mối nối bán dẫn PN sẽ
tạo các dao động của các điện tử (Bạn xem hình) và các dao
động này sẽ phát ra sóng điện từ trường đó chính là các tia
sáng. Tóm lại Led có 2 chân, gọi là chân âm cực hay Cathode
( do chân này cho nối vào cực âm của pin) và chân dương
cực hay Anode (do chân này cho nối vào cực dương của pin),
khi chúng ta cho dòng điện chảy qua một Led nó sẽ phát ra
chùm tia sáng, và để có điềm sáng đủ mạch, chúng ta dùng
vật liệu nhựa trong suốt làm kính hội tụ (Bạn xem hình cấu tạo
của Led).
Hình chụp trên đây cho Bạn thấy các Led màu có nhiều kích cở,
các Led này thường là các điểm sáng nhỏ thường dùng làm
các Led chỉ thị. Như:
* Chỉ thị mức âm lượng mạnh yếu, người ta tạo ra các vạch
sáng bằng Led hình dẹp.
* Chỉ thị 3 tranh thái của máy: Đỏ - Xanh - Vàng, người ta dùng
Led đôi ra 3 chân.
* Chỉ thị máy có mở nguồn hay tắt, người ta dùng Led tròn đỏ,
trắng
Dĩ nhiên, mỗi Led được xem là một điểm sáng, mà Ban biết
hình ảnh chữ sổ đều có thể tạo ra từ các điểm sáng nhỏ này,
do đó Bạn có thể dùng nhiều Led để ghép theo hình và theo
chữ, theo số, như vậy Bạn đã có một bảng đèn hay một vật thể
phát sáng nhiều màu, lung linh nhấp nháy trông rất đẹp mắt.
Ngày nay người ta muốn dùng Led làm nguồn chiếu sáng mạnh
để thay thế các đèn chiếu sáng cổ điển, vì Led có hiệu suất rất
cao, an toàn, tuổi thọ dài, ít hao điện và rất dễ dùng. Hình trên
đây cho thấy hình dạng của các Led công suất lớn, hiện nó đã
là nguồn sáng lạnh rất mạnh và trong một tương lai gần thôi
nó sẽ thay thế các đèn chiếu sáng nóng như loại đèn sợi
nung, loạiđèn chiếu sáng ồn, gây nhiều nhiễu, như đèn ống
huỳnh quang.
Do Led có quán tính nhỏ, nghĩa là nó có thể nhấp nháy với nhịp
nhanh, nói cho dễ hiểu, là nó tắt nhanh và sáng nhanh, không
như loại đèn sợi nung có quán tính nhiệt quá chậm. Với Led
người ta có thể dùng làm loại đèn số theo mã 7 đoạn, dùng loại
đèn này để làm các mạch đếm rất tiện (Bạn xem hình, một
khối đèn số 7 đoạn có thể cho hiện ra các số thập lục phân).
Nhiều Bạn trẻ thích "ngông", dùng Led tạo hình rồi dùng
transistor điều khiển cho các hình nhấp nháy, tạo ra các hình
đèn động rất ngộ nghĩnh, như hình đứa trẻ, hình người đạp
xe Còn hình gì nữa, tôi nghĩ chắc Bạn sẽ tự nghĩ ra thôi.
Người ta còn dùng Led để tạo ra hình khối 3D và dùng mạch
điện tử làm cho các Led này sáng nhấp nháy rất sinh động.
Dùng Led làm đèn giao thông
Trước mắt cho dùng nhiều Led siêu sáng ghép lại để làm đèn
chiếu sáng mạnh, thay thế các đèn chiếu sáng cổ điển (sắp
vào viện bảo tàng).
Một chút tính toán để biết cách
dùng Led.
Đặc tính của môn điện tử là "tính tính toán toán". Khi đã nghĩ
ra một mạch điện rồi thì phải biết:
* Biết tính toán dòng, áp, công suất tiêu thụ, tính an toàn, độ
bền
* Biết tìm linh kiện, làm bo mạch in.
* và phải biết ráp mạch
* và nếu giỏi nữa thì phải biết dùng kiến thức của mình tạo ra
kinh tế cho bản thân.
Ở đây tôi trình bày các mạch điện kinh điển dùng Led và một
số tính toán có liên quan (để việc tính toán nhanh và dễ làm
tôi dùng phần mềm PSpice của OrCAD).
Do có ý là chỉ dùng các linh kiện dễ tìm, tôi chọn kiểu mạch
điều khiển kích sáng chủ yếu dùng transistor và chỉ dùng thêm
một vài loại ic logic thông dụng.
Trước hết là vấn đề kiểm tra các Led mà Bạn có:
Khi dùng Ohm kế để kiểm tra Led Bạn nhớ các điểm sau:
(1) Lấy thang đo Rx1 để có dòng chảy ra trên dây đo lớn, lúc
này dòng ngắn mạch (chập 2 dây đo lại) , dòng chảy trên dây
đo sẽ lớn nhật và thường ở thang Rx1 là 150mA (con số này có
ghi trên máy đo).
(2) Do dây đo màu đỏ nối vào cực âm của pin (pin 3V trong
máy đo), nên dòng điện tử chảy ra từ dây đen và do dây màu
đỏ nối vào cực dương của pin nên dòng điện tử sẽ bị hút vào ở
dây đỏ.
(3) Khi đo Led (hay nói chung là khi Bạn đo các linh kiện có tính
phi tuyến như diode, transistor, IC) Bạn nên xem kết quả trên
vạch chia LV, vạch LV cho Bạn biết mức volt hiện có trên vật
đo và khi đọc kết quả trên vạch chia LI, vạch LI cho Bạn biết
cường độ dòng điện đang chảy qua vật đo.
Vậy với Led, khi dây đen đặt trên chân Cathode và dây đỏ trên
chân Anode, Led sẽ sáng. Đọc kết quả trên vạch chia LV Bạn
biết điện áp có trên 2 chân của Led và đọc trên vạch chia LI,
Bạn biết cường độ dòng điện đang chảy qua Led.
Đảo chiều 2 dây đo Led sẽ không sáng, vì nó bị phân cực
ngược, khi mối nối bán dẫn PN bị phân cực ngược nó sẽ không
cho dòng chảy qua.
Tóm tắt cách đo Led bằng hình động sau:
Bạn thấy gì: Khi dây đen đặt trên chân cathode của led và dây
đỏ trên anode thì Led sáng (vì Led được cho phân cực thuận)
và khi đảo dây lại thì Led tắt (vì Led bị phân cực nghịch).
Lúc đo theo phân cực thuận, Bạn hãy nhìn kim dừng trên vạch
chia LV sẽ biết mức ghim áp của Led. Các Led chiếu sáng
thông thường thường có mức ghim áp khoảng 2V, với loại Led
siêu sáng có mức ghim áp khoảng 3V.
Ghi nhận: Với các VOM kế có lỗ cắm dùng đo hệ số khuếch đại
dòng của các transistor, Bạn có thể cắm Led vào các lỗi này để
kiểm tra Led, làm như vậy sẽ nhanh hơn.
Tiếp theo chúng ta sẽ dùng trình PSpice của
OrCAD để khảo sát các mạch điện kinh điển dùng Led.
Thực hành 1: Dùng luật Ohm để tính trị của điện trở hạn dòng
R
(Xem sơ đồ mạch thực hành 1).
Trong mạch này dùng 3 chủng loại linh kiện, đó là: Led chiếu
sáng, điện trở và nguồn điện năng của pin.
Trong mạch Bạn luôn phải nhớ dùng điện trở hạn dòng hay còn
gọi là điện trở định dòng làm việc cho Led. Các Led chiếu sáng
thường có mức ghim áp là 2V (loại Led siêu sáng có mức ghim
áp là 3V) và dòng làm việc lấy 10mA là đủ sáng. Vậy chúng ta
có thể dùng luật Ohm để tính được trị của điện trở R.
Dùng trình PSpice để tính nhanh, từ các trị in ra trong hình,
chúng ta thấy với Led có tính ghim áp là 1.18V và trong mạch
dùng điện trở hạn dòng R1 là 1K thì dòng chảy qua led sẽ là
10.82mA, lúc này công suất tiệu thụ trên Led là 12.76mW, rất
nhỏ so với công suất làm nóng điện trở R1 là 117.1mW. Vậy
nếu muốn giảm dòng chảy qua Led Bạn cho tăng trị của điện
trở R1.
Điều tối kỵ: Không bao giờ, không bao giờ cho Led nối thẳng
vào nguồn pin, không có điện trở hạn dòng, dòng qua Led quá
lớn, Led sẽ bị cháy và hư tức khắc (nếu không tin, Bạn có thể
làm thử để lấy kinh nghiệm).
Thực hành 2: Khảo sát các Led mắc nối tiếp.
Chúng ta tạo ra 4 nhánh với số Led tăng dần, và dùng PSpice
để tìm kết quả về dòng và áp trên mạch, chúng ta nhận thấy:
* Điện áp của các Led được cho cộng vào nhau.
* Do điện trở hạn dòng không thay đổi trị số, nên dòng ở các
nhành có nhiều Led sẽ giảm.
* Dòng cung cấp của nguồn pin bằng tổng các dòng qua các
nhánh cộng lại.
Vậy khi mắc nhiều Led nối tiếp chúng ta phải nhớ điều chỉnh lại
trị của điện trở hạn dòng để dòng qua Led đủ lớn để cho Led
sáng mạnh (dòng làm việc của các Led chiếu sáng thường lấy
trong khoảng từ 5mA đến 10mA là đủ).
Thực hành 3: Khảo sát các Led vừa mắc nối tiếp vừa mắc
song song.
Bạn mô tả mạch điện muốn ráp trong trình PSpice, và kết quả
phân tích của PSpice cho chúng ta số liệu như hình sau:
Qua các số liệu chúng ta thấy: Dòng qua nhánh 2 Led là
4.87mA, và dòng tồng cộng là 9.74mA. Nhánh 3 Led không có
dòng.
* Các nhánh có Led cùng loại, có số Led bằng nhau mắc song
song thì có dòng làm sáng Led.
* Nhánh có số Led nhiều hơn, như nhánh 3 Led, nó cần mức áp
cao hơn mức ghim áp của nó, do đó nhánh này thiếu áp và sẽ
không được cấp dòng, nên các Led không sáng.
Tóm lại, Bạn cần nhớ chỉ dùng cùng loại Led cho mắc nối tiếp
và rồi mắc song song, số Led trên các nhánh phải bằng nhau,
lúc đó các nhánh này mới có dòng và Led sẽ sáng .
Thực hành 4: Hãy làm quen với tụ điện và mạch RC.
Trong mạch điện tụ điện là kho chứa điện, do vậy khi có một tụ
điện Bạn phải biết:
* Điện dung của tụ, đơn vị tính là Faraday, thường dùng ở cấp
uF (micro Farad), hay nF (nano Farad) hay pF (pico Farad).
* Sức chịu áp của tụ, trên tụ thường ghi mức áp làm việc (WV,
Working Volt), đừng cho tụ nạp ở mức áp quá cao, tụ sẽ bị nổ.
Hình vẽ cho thấy hình dạng các loại tụ điện: Thường có 3
nhóm:
(1) Nhóm tụ hóa, loại tụ có dung lượng lớn (chứa được nhiều
điện tích), loại tụ này có cực tính, khi mắc vào mạch dấu dường
ghi trên tụ phải cho bên có mức áp cao.
(2) Nhóm tụ thường, loại tụ này có điện dung nhỏ, nhưng sức
chịu áp cao. Loại tụ thường không có cực tính.
(3) Nhóm tụ xoay, loại tụ này có điện dung thay đổi được, nó
thường dùng trong các mạch cộng hưởng dùng làm bẩy sóng.
Để hiểu nguyên lý làm việc của tụ trong mạch, tôi trình bày
bằng hình động, trong hình cho thấy 2 quá trình: Quá trình nạp
điện và quá trình xả điện.
* Khi S1 đóng và S2 hở, lúc này tụ C1 ở quá trình cho nạp điện,
dòng điện tích từ nguồn pin cho bơm vào tụ, dòng chảy qua
điện trở R1 và mức volt trên tụ tăng dần lên cho đến lúc đầy, tụ
đầy được hiểu là mức áp trên tụ đã lên rất gần bằng 12V của
nguồn.
* Khi S2 đóng và S1 hở, lúc này tụ C1 ở quá trình xả điện, dòng
điện sẽ chảy qua điện trở R2 và mức áp trên tụ sẽ giảm dần
xuống. Khi mức áp trong tụ bằng 0V, chúng ta nói tụ đã xả hết
điện.
Vậy xuất hiện câu hỏi: Khi nào và bao lâu thì tụ C1 mới nạp
đầy? Và phải bao lâu thì tụ C1 mới xả hết điện?
Nhìn vào mạch Bạn cũng thấy, nếu dùng tụ C1 có dung lượng
lớn và điện trở R1 làm ống dẫn có sức cản dòng quá lớn thì thời
gian để tụ nạp đầy mức áp của nguồn sẽ rất lâu. Cũng vậy, tụ
lớn, điện trở R2 có trị lớn thời gian để tụ xả hết điện cũng sẽ rất
lâu. Người ta đưa ra một định nghĩa về thời hằng:
Thời hằng của mạch nạp xả của tụ C qua R là thời gian t =
RxC. Với thời gian này tụ sẽ nạp được 63% mức điện của
nguồn nuôi hay đã xả được 63% lượng điện mà tụ có. Và mội
người đều cho là sau 5t (tức 5xRxC) thì xem như tụ đã nạp đầy
hay tụ đã xả hết điện.
Thực hành 5: Bây giờ nói đến linh kiện có tính tích cực đây, đó
là transistor.
Transistor là một linh kiện rất quan trọng, nó tạo ra cuộc cách
mạng lông trời lỡ đất của ngành điện tử. Transistor được xếp
vào loại linh kiện tích cực vì nó có tính khuếch đại. Ở đây
chúng ta chỉ dùng transistor như những khóa điện bán dẫn
đóng mở mạch theo mức áp cao hay thấp. Có 2 loại transistor,
loại NPN và loại PNP.
Mô hình bán dẫn cho thấy người ta sắp xếp các chân bán dẫn
loại N, loại P để tạo ra các mối nối EB cà CB và tạo ra các
transistor nhị cực NPN hay PNP.
Trong hình N là chất bán dẫn Silicon pha Phospho (Phospho với
5 điện tử hóa trị tạo nối), nên khi gắn vào tinh thể Silicon sẽ
để dư ra một điện tử tự do, và chính điện tử dư ra này là phần
tử dẫn điện trong chất bán dẫn loại N, khi cho N pha đậm,
người ta sẽ ghi là n+ và pha nhạt hơn thì ghi là n Tương tự
chất P là chất bán dẫn Silicon cho pha Indium ( Indium có 3
điện tử nối hóa trị nên khi gắn vào tinh thể Silicon sẽ có một
nối trống vì thiếu điện tử), chính các lỗ trống này tạo ra điều
kiện dẫn điện trong chất bán dẫn loại P.
Bạn thấy chân E có kích thước thu nhỏ, vì sao?. Vì nó là chân
dùng cho phun ra các hạt tải điện, chân C có kích thước rộng là
vì nó là chân được dùng để thu gốp các hạt điện phun ra từ
chân E.
Trên đây là hình vẽ cấu trúc bán dẫn của một transistor NPN.
Trong chất bán dẫn loại N phần tử làm công việc dẫn điện là
các hạt điện tử (dư ra do phospho cho) và trong chất bán dẫn
loại P phần tử dẫn điện là các lỗ trống trên các nối (do Indium
tạo ra), các lỗ được cho đồng nghĩa là các hạt tải điện dương
(nên ghi bằng dấu +). Vậy nếu chân E phun ra dòng, dòng này
sẽ chảy vượt qua vùng B và sẽ được thu gốp lại trên chân C.
Nhìn các hình chụp trên Bạn thấy transistor có 3 chân:
* Chân E được pha đậm để có tính dẫn điện tốt, nó là chân
phun ra các hạt tải điện. Với chất bán dẫn loại N thì phun ra
các hạt điện tử dư (do chất pha phospho cung cấp) với chất
bán dẫn loại P thì phun ra các lỗ (các nối trống do Indium tạo
ra). E là Emitter, nghĩa là chân phát, chân phun ra các hạt tải
điện.
* Chân C được pha vừa, nó có tính dẫn điện khá, nó là chân thu
gôm các hạt tải điện phun ra từ chân E, nghĩa la các hạt tải
điện phun ra từ chân E đều được "hút vào" chân C và chảy ra
trên chân C. C là Collector, nghĩa là chân gốp, thu gốp các hạt
điện phun ra từ chân E.
* Chân B được làm rất mỏng, nó là chân nền kẹp giữa chân E
và chân C, người ta thêm chân B ở giữa để "control" dòng điện
chảy từ E vào C. Nó điều khiển dòng điện đi từ E vào C. Người
ta làm chân B thật mỏng để tránh sự thất thoát của điện tử lúc
vượt qua chân này. B là Base, nghĩa là chân nền, kẹp giữa E và
C, dùng kiểm soát cường độ dòng điện chảy từ E vào C.
Nhìn vào cấu trúc bán dẫn của transistor, chúng ta thấy chỉ có
thể có 2 loại sắp xếp, đó là NPN hay PNP. Như vậy dù với kiểu
sắp xếp nào trong transistor cũng có 2 mối nối PN, mối nối EB
và mối nối CB, do đó người ta gọi loại transistor này là
transistor nhị cực hay transistor BJT (BJT, Bipolar Junction
Transistor).
Trên các sơ đồ mạch điện, chúng ta dùng ký hiệu của transistor
để vẽ mạch, với các ký hiệu của các linh kiện bán dẫn, Bạn nhớ
chiều chỉ của mũi tên, mũi tên chỉ vào chân nào chân đó được
hiều là chân có chất bán dẫn loại N.
Transistor là linh kiện thuộc nhóm tích cực (các linh kiện như
điện trở, tụ điện, biến áp thuộc nhóm linh kiện thụ động), có
thể dùng transistor để khuếch đại tín hiệu, nghĩa là biến một
tín hiệu có công suất yếu ra một tín hiệu có công suất mạnh
hơn, transistor còn có thể dùng làm một khóa điện để đóng mở
mạch theo mức áp. Tuy nhiên muốn dùng transistor để khuếch
đại hay làm khóa điện, trước hết Bạn phải cho phân cực các
mối nối trong transistor. Người ta phân ra 4 vùng tùy theo tính
phân cực của 2 mối nối bán dẫn EB và CB.
* Nếu cả 2 mối nối EB và CB đều cho phân cực ngược, người ta
nói transistor ở trong vùng ngưng dẫn (Cut-off), lúc này không
có dòng chảy trên các chân của transistor. Nếu xem nó như
một khóa điện, thì transistor ngưng dẫn giống như một khóa
điện làm hở mạch.
* Nếu cả 2 mối nối EB và CB đều cho phân cực thuận, người ta
nói transistor ở trong vùng bão hòa (Saturation), lúc này dòng
chảy ra ở chân C đã đặt đến mức không thể tăng hơn được
nữa. Nếu xem nó như một khóa điện, thì transistor bão hòa
xem như một khóa điện đóng lại, cho dòng chảy qua.
* Nếu chân EB cho phân cực thuận và chân CB cho phân cực
nghịch, người ta nói transistor ở trong vùng khuếch đại
(Action), lúc này chỉ với một tác động điện áp nhỏ trên chân B
cũng sẽ kiểm soát được dòng chảy mạnh yếu ra trên chân C,
trạng thái này của transistor được dùng nhiều nhất.
* Nếu chân EB cho phân cực nghịch và chân CB cho phân cực
thuận, người ta nói transistor ở trong vùng khuếch đại ngược
(Rev-Action), lúc này chỉ với một tác động điện áp nhỏ trên
chân B cũng sẽ kiểm soát được dòng chảy mạnh yếu ra trên
chân E, Bạn thấy người ta đã cho đảo ngược, lấy chân C làm
chân phun hạt tải điện và lấy chân E làm chân gốp. Trạng thái
khuếch đại này của transistor ít được dùng vì nó cho độ lợi nhỏ.
Hãy tìm hiểu các đo các transistor NPN và PNP, loại
công suất nhỏ:
Đo transistor nhị cực (BJT transistor):
Transistor nhị cực bên trong có hai mối nối PN, quen gọi là transistor
bipolar (BJT). Nó có 2 loại, transistor NPN và transistor PNP. Bạn có
thể dùng một Ohm kế (kim) để kiểm tra các loại transistor bipolar. Trình
tự thường làm là:
(1) Trước hết hãy tìm ra chân B.
Bạn lấy thang đo Rx1, lần lượt tìm đo trên hai chân của transistor, đo
chiều này kim không lên, đảo dây đo, kim cũng không lên, vậy đó là hai
chân E (Emitter) và C (Collector) của transistor. Như vậy có thể nói
chân còn lại sẽ chính là chân B của transistor.
(2) Hãy kiểm tra 2 diode tạo bởi mối nối B-E và mối nối B-C.
Bạn có thể xem transistor tương tự như 2 diode (2 mối nối PN), nên
việc kiểm tra một transistor tốt/xấu trở thành kiểm tra 2 diode (diode B-E
và diode B-C). Với transistor NPN, nếu dây đen (chân hút dòng, vì bên
trong máy đo nó nối vào cực dương của pin) đặt trên chân B, dây đỏ
(nơi dòng điện tử chảy ra) đặt trên chân C, lúc này kim phải lên do
diode được cho phân cực thuận và dây đỏ dời qua chân E kim cũng
phải lên (vì cũng được phân cực thuận). Ngược lại, đặt dây đỏ trên
chân B, dây đen trên chân C rồi qua chân E, cả 2 lần đo này kim đều
không lên, vì cả 2 diode đều bị phân cực nghịch.
Chú ý: với các transistor loại PNP thì kết quả đo sẽ ngược lại. Nghĩa là
dây đỏ trên chân B, dây đen trên chân E, rồi trên chân C, kim sẽ lên là