Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

HƯỚNG dẫn tìm HIỂU về sàn GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TPHCM, hà nội và sàn UPCOM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.15 KB, 16 trang )

BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
I.
1. KHÁI NIỆM
Thị trường chứng khoán (TTCK) trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là
nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứ khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được
tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát
hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành
ở thị trường sơ cấp.
Như vậy, xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán,
chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán.
2. CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA TTCK
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
3. CÁC CHỦ THỂ THAM GIA TTCK
- Tổ chức phát hành
+ Chính phủ và chính quyền địa phương
+ Công ty
+ Các tổ chức tài chính
- Nhà đầu tư
+ Nhà đầu tư cá nhân
+ Nhà đầu tư có tổ chức
- Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
+ Công ty chứng khoán
+ Quỹ đầu tư chứng khoán
+ Các trung gian tài chính
- Các tổ chức có liên quan đến TTCK
+ Cơ quan quản lý Nhà nước
+ Sở giao dịch chứng khoán/ Trung tâm giao dịch chứng khoán


+ Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
+ Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
+ Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
+ Các tổ chức tài trợ chứng khoán
+ Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
4. CẤU TRÚC VÀ PHÂN LOẠI CƠ BẢN CỦA TTCK
TTCK là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu,
các khoản vay ngân hàng có kỳ hạn trên 1 năm).
- Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn:
+ Thị trường sơ cấp
Trang 1
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
+ Thị trường thứ cấp
- Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
+ Thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán)
+ Thị trường phi tập trung (thị trường OTC)
- Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
+ Thị trường cổ phiếu
+ Thị trường trái phiếu
+ Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH SÀN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TP HCM, HÀ NỘI VÀ
SÀN UPCOM
1. SÀN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TP HCM
Thực hiện chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, từ đầu những năm thập niên
90 Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu đề án xây dựng và phát
triển TTCK ở Việt Nam. Trên cơ sở đề án của các Bộ, Ngành, ngày 28/11/1996 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 75/1998/NĐ-CP về việc thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và
giao cho đơn vị này chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc ra đời TTCK.
Ngày 11/07/1998, với Nghị định số 48/CP về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán,
TTCK Việt Nam chính thức được khai sinh. Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ cũng ký Quyết

định số 127/1998/QĐ-TTg thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh. Hai năm sau, vào ngày 28/07/2000, phiên giao dịch đầu tiên với 2 mã cổ phiếu niêm yết
đã chính thức được tổ chức tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM, đánh dấu một bước
ngoặt lịch sử của TTCK Việt Nam.
Sau 7 năm hoạt động, đến thời điểm tháng 08/2007 đã có 111 doanh nghiệp niêm yết và 55
công ty chứng khoán thành viên, 18 công ty quản lý quỹ, 61 tổ chức lưu ký. Cấu trúc thị trường
đã được rõ ràng và chuyên biệt hơn với sự tách ra hoạt động độc lập của Trung tâm Lưu ký
Chứng khoán Việt Nam trong năm 2005.
Nhằm đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của thị trường, đáp ứng quá trình đổi mới nền kinh
tế, tái cơ cấu các doanh nghiệp, ngày 11/05/2007 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số
599/QĐ chuyển Trung Tâm thành Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE),
hoạt động theo mô hình Công ty TNHH Một Thành viên (100% vốn chủ sở hữu thuộc Bộ Tài
chính). Việc chuyển đổi mô hình đã giúp HOSE có một vị trí tương xứng với các Sở Giao dịch
khác trên thế giới trong mối quan hệ và hợp tác quốc tế, từ đó, nâng cao vị trí và tầm ảnh hưởng
của TTCK Việt Nam.
Trong năm 2011, HOSE đã nghiên cứu và xây dựng chỉ số VN30 bao gồm 30 cổ phiếu hàng
đầu về giá trị vốn hóa, chiếm khoảng 80% giá trị vốn hóa toàn thị trường, 60% về giá trị giao
dịch. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu thị trường, HOSE cũng đã triển khai lệnh MP và đang trong
quá trình nghiên cứu xây dựng sản phẩm ETF (Exchange Traded Fund) để đưa vào giao dịch.
2. SÀN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN HÀ NỘI
Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (Sở GDCK Hà Nội) được thành lập theo Quyết định số
01/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao
dịch chứng khoán Hà Nội(thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg và khai trương hoạt
động vào ngày 08/03/2005). Ngày 24/06/2009, Sở GDCK Hà Nội chính thức ra mắt, hoạt động
Trang 2
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
với mô hình Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước (đại diện là Bộ Tài chính) làm chủ sở
hữu.
Với chức năng là đơn vị chịu trách nhiệm tổ chức quản lý và điều hành thị trường giao dịch
chứng khoán, Sở GDCK Hà Nội đã tổ chức hoạt động đấu giá cổ phần, tổ chức đấu thầu trái

phiếu Chính phủ, huy động vốn cho ngân sách Nhà nước và vận hành 03 thị trường giao dịch
trên một nền công nghệ: thị trường cổ phiếu niêm yết, thị trường trái phiếu Chính phủ chuyên
biệt (TPCP) và thị trường giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCOM).
Mục tiêu hoạt động của Sở GDCK Hà Nội là tổ chức vận hành thị trường giao dịch chứng
khoán minh bạch, công bằng, hiệu quả; phát triển hạ tầng cơ sở và các sản phẩm mới phục vụ
cho thị trường, tăng cường thu hút đầu tư trong nước và quốc tế, thể hiện vai trò là kênh huy
động vốn quan trọng của nền kinh tế, đảm bảo lợi ích cao nhất cho nhà đầu tư và doanh nghiệp
tham gia thị trường.
3. SÀN UPCOM
Ngày 20/11/2008, Bộ Tài Chính ban hành quyết định số 108/2000 - QD-BTC về việc ban
hành quy chế tổ chức và quản lý giao dịch chứng khoán công ty đại chúng (CTĐC) chưa niêm
yết tại Trung Tâm Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội (HASTC). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng
để triển khai thị trường UPCOM (thị trường giao dịch chứng khoán của CTĐC chưa niêm yết).
Việc quản lý và tạo môi trường thuận lợi cho mua/bán, chuyển nhượng chứng khoán của các
công ty đại chúng chưa niêm yết và các loại hình doanh nghiệp được phép chuyển nhượng chứng
khoán khác là vô cùng cần thiết.
Trên cơ sở thị trường UPCOM ra đời và khai trương vào ngày 24/06/2009. Ở thời điểm đó
thị trường chỉ có 10 thành viên tham gia trong đó có 5 công ty Chứng khoán bao gôm một số cty
như: Công ty Cổ Phần Chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, Công ty cổ phần CAFICO Việt
Nam, Công ty cổ phần Dược – Thiết bị y tế Đà Nẵng…
Khi mới mở ra một thời gian dài khối lượng giao dịch trên sàn UPCOM luôn ở mức thấp
trung bình mỗi phiên đạt gần 520.000 đơn vị, giá trị đạt hơn 7,6 tỷ đồng.
Ngày 19/07/2010 sở GDCK Hà Nội đã thay đổi phương thức giao dịch và kéo dài thời gian
giao dịch để tăng tính thanh khoản cho thị trường nhưng đã không đem lại được nhiều kết quả tốt
như mong muốn: ngay sau khi có tin UPCOM sẽ có thay đổi dòng tiền đã chảy mạnh vào thị
trường khiến khối lượng và giá trị giao dịch tăng vọt. Nhà đầu tư chanh nhau đặt lệnh kịch trần
khiến cả thị trường đi lên trong 11 phiên liên tiếp, hàng chục cổ phiếu tăng trần bất chấp quy chế
giao dịch chưa hề thay đổi, chỉ trong 19 phiên giao dịch (từ 22/6 đến 16/7) thị trường đã có 15
phiên tăng điểm, 4 phiên giảm điểm( có 11 phiên tăng điểm liên tiếp). chỉ số UPCOM – Index
tăng hơn 30,57% từ 46,02 điểm lên 60,09 điểm, nhiều cổ phiếu trên sàn UPCOM đã tăng giá hơn

100% như NBW, BTW, TNB …
Khi sàn UPCOM chính thức khớp lệnh liên tục thì trong hơn một tháng sau đó thị trường lại
liên tục giảm điểm khiến những nhà đầu tư không kịp chở tay để cắt lỗ. trong 24 phiên giao dịch
chỉ số UPCOM đã mất 19,7% khi có tới 18 phiên giảm điểm, giá trị giao dịch bình quân chỉ còn
15,9 tỷ đồng.
Ngày 30/09/2010 giao dịch bị giảm mạnh và rơi xuống mức thấp, UPCOM-Index đóng cửa
phiên giao dịch cuối tháng 9/2010 tiếp tục mất thêm 0,97 điểm( tương đương 2,08%) xuống còn
45,67 điểm. Tổng khối lượng giao dịch của toàn thị trường chỉ còn 300 ngàn cổ phiếu, tương
đương giá trị giao dịch chỉ còn 4,46 tỷ đồng.
Đến thời điểm ngày 29/10/2010, sàn UPCOM đã có 104 mã được niêm yết và phiên giao
dịch đã có những phục hồi nhẹ giúp UPCOM-Index đảo chiều thành công lên 42,35 điểm. Tuy
Trang 3
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
nhiên tính thanh khoản vẫn chưa có sự cải thiện, tiếp tục ở mức thấp. Tổng khối lượng giao dịch
toàn thị trường chỉ đạt 243.700 đơn vị, tương đương giá trị giao dịch là 4,05 tỷ đồng.
III. CƠ CẤU TỔ CHỨC
1. CƠ CẤU TỔ CHỨC SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TP.HCM (HOSE)
1. HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Ông Trần Đắc Sinh
Chủ tịch HĐQT
Bà Phan Thị Tường Tâm
Phó Chủ tịch HĐQT
Ông Lê Hải Trà
Ủy viên HĐQT
2. BAN TỔNG GIÁM ĐỐC
Ban Tổng Giám đốc gồm Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc phụ trách gồm:
Trang 4
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
Bà Phan Thị Tường Tâm
Tổng Giám Đốc

Ông Lê Hải Trà
Phó Tổng Giám Đốc
Bà Ngô Viết Hoàng Giao
Phó Tổng Giám Đốc
Ông Trầm Tuấn Vũ
Phó Tổng Giám Đốc
2. CƠ CẤU TỔ CHỨC SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN HÀ NỘI (HOSE)
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ

Ông Trần Văn Dũng – Chủ tịch HĐQT
Bà Nguyễn Thị Hoàng Lan – Phó Chủ tịch HĐQT
Ông Nguyễn Văn Dũng - Ủy viên HĐQT
Ông Nguyễn Vũ Quang Trung - Ủy viên HĐQT
Ông Phạm Dương Linh - Ủy viên HĐQT

BAN KIỂM SOÁT

Ông Nguyễn Tuấn Anh – Trưởng Ban Kiểm soát
Ông Đào Việt Cường – Thành viên BKS
Bà Nguyễn Thị Kiều Hương – Thành viên BKS

BAN TỔNG GIÁM ĐỐC

Ông Trần Văn Dũng – Tổng Giám đốc
Ông Nguyễn Vũ Quang Trung – Phó Tổng Giám đốc
Ông Nguyễn Văn Dũng – Phó Tổng Giám đốc
Bà Nguyễn Thị Hoàng Lan– Phó Tổng Giám đốc
Ông Nguyễn Anh Phong – Phó Tổng Giám đốc
Trang 5
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1

IV. CHỨC NĂNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ CHO NỀN KINH TẾ
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được
đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua
TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho
mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
2. CUNG CẤP MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ CHO CÔNG CHÚNG
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn
phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro,
cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở
thích của mình.
3. TẠO TÍNH THANH KHOẢN CHO CÁC CHỨNG KHOÁN
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt
hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính
hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của
vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng
khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
4. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp
và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng
và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Trang 6
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
5. TẠO MÔI TRƯỜNG GIÚP CHÍNH PHỦ THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác.
Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại
giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi
là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các
chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ

để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có
thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo
cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
V. CÁC CHỈ SỐ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. CHỈ SỐ VN-INDEX:
• Khái ni ệ m:
Chỉ số VN - Index thể hiện biến động giá cổ phiếu giao dịch tại TTGDCK TP.HCM. Công
thức tính chỉ số áp dụng đối với toàn bộ các cổ phiếu niêm yết tại TTGDCK nhằm thể hiện xu
hướng giá cổ phiếu hàng ngày.
Chỉ số VN -Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày
gốc 28-7-2000, khi TTCK chính thức đi vào hoạt động.
Giá trị thị trường cơ sở trong công thức tính chỉ số được điều chỉnh trong các trường hợp như
niêm yết mới, huỷ niêm yết và các trường hợp có thay đổi về vốn niêm yết.
• Công th ứ c tính ch ỉ s ố VN - Index:
Chỉ số VN -Index = (Giá trị thị trường hiện hành / Giá trị thị trường cơ sở) x 100
Trong đó:
Pit: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu i
Qit: Số lượng niêm yết hiện hành của cổ phiếu i
Pi0: Giá thị trường vào ngày gốc của cổ phiếu i
Qi0: Số lượng niêm yết vào ngày gốc của cổ phiếu i
Chỉ số phản ánh sự thay đổi giá cả của chứng khoán. Vì vậy trong quá trình tính toán chỉ số,
người ta phải loại bỏ những yếu tố làm thay đổi giá trị của chỉ số mà không phải do giá cả thay
đổi, vd như: có cổ phiếu mới được niêm yết, việc tách, gộp cổ phiếu …
Trang 7
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
Trong những trường hợp trên, số chia sẽ được điều chỉnh để đảm bảo chỉ số có tính liên tục
và phản ánh đúng những thay đổi về giá cả trên thị trường.
Ví dụ: Trường hợp có thêm cổ phiếu mới được niêm yết thì số chia sẽ được điều chỉnh:
2. CHỈ SỐ HNX30 I NDEX:
• Khái niệm:

Chỉ số HNX 30 là chỉ số giá của Top 30 cổ phiếu được lựa chọn dựa vào tính thanh khoản.
Chỉ số HNX 30 áp dụng phương pháp tính giá trị vốn hóa thị trường có điều chỉnh tỷ lệ tự do
chuyển nhượng (free float) và sử dụng kỹ thuật giới hạn tỷ trọng vốn hóa 15% để xác định tỷ lệ
vốn hoá tối đa (là tỷ lệ lớn nhất mà giá trị thị trường của một cổ phiếu được tính trong tổng thể
giá trị thị trường của chỉ số). Chỉ số HNX 30 lấy ngày 03/01/2012 là ngày cơ sở với điểm cơ sở
là 100.
• Công thức:

Trong đó: MV =
MV : giá trị thị trường tại thời điểm hiện tại (Market Value)
N : số cổ phiếu trong rổ chỉ số
P
i
: giá giao dịch gần nhất của cổ phiếu i
Trang 8
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
Q
i
: khối lượng cổ phiếu lưu hành đã điều chỉnh tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển
nhượng của cổ phiếu i được tham gia tính chỉ số
Hệ số chia : trong ngày cơ sở, Hệ số chia bằng giá trị thị trường của ngày cơ sở
Điểm cơ sở : điểm cơ sở của chỉ số
• Tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng (free float)
Tỉ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng là tỉ lệ khối lượng cổ phiếu tự do chuyển nhượng so
với với khối lượng cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường.
Công thức tính (f):

Tỉ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng sẽ được tính lại định kỳ theo quý đối với 30 cổ phiếu
được chọn trong rổ chỉ số, và được công bố tối thiểu 7 ngày làm việc trước ngày hiệu lực.
• Tỷ lệ vốn hoá tối đa

Tỉ lệ vốn hóa tối đa là tỉ lệ lớn nhất mà giá trị thị trường của một cổ phiếu có giá trị trường
lớn được tính trong tổng thể giá trị thị trường của chỉ số, có tác dụng làm giảm ảnh hương của cổ
phiếu đó đối với chỉ số qua việc điều chỉ khối lượng tham gia tính chỉ số.
Bất kỳ cổ phiếu nào có tỷ trọng lớn hơn 15% sẽ được đặt ngưỡng bằng 15%. Tỷ trọng của
các cổ phiếu còn lại sẽ được tăng tương ứng. Sau khi tăng tỷ trọng của các cổ phiếu còn lại, nếu
vượt ngưỡng thì lại được đặt bằng 15%. Kỹ thuật này được lặp lại cho đến khi không còn cổ
phiếu thành phần nào có tỷ trọng vượt ngưỡng 15% so với toàn bộ giá trị thị trường của rổ chỉ
số.
3. CHỈ SỐ VN30 I NDEX:
• Khái ni ệ m:
VN-30 chỉ là một trong nhiều chỉ số khác, sẽ phản ánh tốt nhất mối quan hệ giữa cung và cầu
cổ phiếu. Chiều ngày 03/02/2012, Sở Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh (HOSE) đã tổ
chức lễ Tổng kết thị trường năm 2011 và Công bố chỉ số VN30.
Do phương pháp tính VN Index chỉ đơn thuần dựa trên giá trị vốn hóa thị trường của các cổ
phiếu thành phần mà chưa tính đến lượng cổ phiếu thực sự tự do lưu hành trên thị trường, cũng
như chưa hạn chế sự ảnh hưởng quá mức của những cấu phần có tỷ trọng quá cao trong chỉ số.
VN-30 được xem là giải pháp dung hòa giữa yêu cầu cấp thiết của thị trường về một chỉ số phản
ánh chính xác hơn biến động giá cả chứng khoán và sự cần thiết phải chuẩn bị một tiền đề nền
tảng cho chiến lược phát triển các sản phẩm mới của Sở như các sản phẩm tái sinh và các quỹ
đầu tư mới trong tương lai.
• Đ ặ c đi ể m c ủ a VN-30:
Trang 9
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
Chỉ số VN-30 , bao gồm 30 cổ phiếu thành phần, đại diện cho hoạt động của 30 công ty được
niêm yết trên sàn HOSE, chiếm khoảng 80% tổng giá trị vốn hóa và 60% tổng giá trị giao dịch
toàn thị trường.
Tất cả công ty niêm yết trên HOSE thỏa mãn điều kiện về giá trị vốn hóa thị trường, tỉ lệ free
float (tỉ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng), thanh khoản (tỉ lệ thanh khoản và giá trị giao dịch
hàng ngày bình quân) đều đủ tư cách tham gia vào tính toán chỉ số. Mỗi cổ phiếu thành phần
được giới hạn ở mức 10% nhằm loại trừ sự ảnh hưởng quá mức của một cổ phiếu thành phần đối

với chỉ số.
• Nh ữ ng nh ượ c đi ể m c ủ a Vn-Index mà VN30 đã kh ắ c ph ụ c đ ượ c:
Giá trị vốn hóa của cấu phần chỉ số VN30 được tính dựa trên khối lượng cổ phiếu thực sự tự
do lưu hành trên thị trường (free float). VN30 không những loại trừ các cổ phiếu bị hạn chế
chuyển nhượng theo quy định mà còn loại trừ cả những đối tượng ít có khả năng giao dịch như
cổ đông thuộc HĐQT, BTGĐ, BKS, và tổ chức liên quan của công ty, cổ đông nhà nước nắm
giữ, cổ đông chiến lược…
Hạn chế sự ảnh hưởng quá mức của những cấu phần có tỷ trọng quá cao trong chỉ số VN30
bằng cách tính đến giới hạn tỷ trọng vốn hóa không vượt quá 10%.
Ngoài ra, do tiêu chuẩn chọn vào rổ VN30 là những cổ phiếu có tính thanh khoản cao nhất
nên giá cả của các cổ phiếu trong rổ VN30 sẽ phản ánh tốt nhất mối quan hệ giữa cung và cầu cổ
phiếu, từ đó hạn chế được sự làm giá vốn thường xảy ra đối với những cổ phiếu có thanh khoản
kém.
VI. MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI SÀN CHỨNG CHỨNG KHOÁN HÀ NỘI, TP HCM VÀ
NỀN KINH TẾ VN
Giá cả chứng khoán là hình ảnh phản chiếu những vấn đề cơ bản của nền kinh tế vĩ mô, mà
đặc biệt là sức khỏe của doanh nghiệp. Giá cả chứng khoán phản ứng với các tin tức và đầy
những sự kiện bất ngờ mà chúng ta khó đoán trước được và cũng là một đại lượng ngẫu nhiên
mà người ta không thể nhận dạng được một cách chắc chắn, mặc dù thông tin vẫn được hấp thụ
một cách nhanh chóng. Giá cả chứng khoán là một vấn đề được nhiều người nhà đầu tư và xã hôi
rất quan tâm.
Giá cả chứng khoán là một chỉ tiêu rất nhạy cảm trong môi trường tổng thể của hệ thống kinh
tế xã hội, trước hết là độ an toàn của nền tài chính quốc gia. Nếu xét một cách tổng hợp, nhân tố
ảnh hưởng đến sự hình thành và biến động giá cả chứng khoán bao gồm: Những nhân tố nội
sinh, những nhân tố ngoại sinh và một số nhân tố ảnh hưởng khác.
1. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ CHỨNG KHOÁN NÓI CHUNG
• Xét về nhân tố nội sinh
Các nhân tố làm tăng, giảm giá trị của cổ phiếu gắn với công ty niêm yết được gọi là nhân tố
nội sinh. Các nhân tố này quyết định sự tồn tại của hàng hóa chứng khoán là lợi thế khai thác sử
dụng các nguồn lực của công ty, lợi thế kinh doanh và các nhân tố lợi thế vô hình khác mà công

ty đã tạo dựng được, kể cả phần tích tụ lợi nhuận không chia của công ty cổ phần để tái đầu tư,
tạo lợi thế so sánh cho hàng hóa của công ty. Nói cách khác, giá trị của hàng hóa chứng khoán là
hình ảnh động phản ánh những giá trị hữu hình, vô hình của hàng hóa thực và xu thế hoạt động
cũng như tình hình năng lực tài chính của công ty niêm yết.
• Xét về nhân tố ngoại sinh
Trang 10
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
TTCK là một bộ phận cấu thành trong thị trường tài chính nên nó bị chi phối trực tiếp từ
những biến cố phát triển lành mạnh hoặc gặp rủi ro có thể xảy ra trên thị trường tài chính. Do
vậy, các nhân tố vĩ mô như chu kỳ phát triển kinh tế, lạm phát, giảm phát, những nhân tố phi
kinh tế khác như thiên tai, chiến tranh, hòa bình…đều ảnh hưởng đến giá chứng khoán. Nếu
TTCK tăng trưởng mạnh, dòng tiền từ các kênh đầu tư khác có xu hướng đổ vào thị trường càng
lớn và ngược lại.
• Xét về nhân tố ảnh hưởng khác
Sự lệ thuộc của công ty vào những yếu tố đầu vào, đầu ra hoặc sự lệ thuộc về tài chính, tiền
tệ bởi một công ty khác, nếu các đối tác đó bị sụp đổ hay khủng hoảng kéo công ty niêm yết
cũng sụp đổ theo. Các nhân tố đầu cơ, móc ngoặc, lũng đoạn chứng khoán của cá nhân, các tổ
chức, các công ty trong hoặc ngoài nước tạo ra cung cầu chứng khoán giả tạo, làm giá cả hàng
hóa chứng khoán bị méo mó, các chính sách can thiệp của chính phủ cũng ảnh hưởng đến giá
chứng khoán.
Ngày nay, kinh tế toàn cầu nói chung và TTCK quốc tế nói riêng đã trở thành bình thông
nhau khổng lồ. Do vậy, TTCK của các quốc gia đều bị chi phối bởi TTCK thế giới, tình hình
kinh tế-chính trị của các nước đứng đầu. Khi một TTCK của các nước lớn suy thoái mạnh sẽ làm
ảnh hưởng đến một loạt các thị trường khác. Ngược lại, nếu quyết định về chính trị, quân sự,
kinh tế, tiền tệ, đầu tư của một quốc gia nào cũng có thể có ảnh hưởng lớn nền kinh tế thế giới
trong đó có TTCK.
Vì vậy, những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến động giá cả chứng khoán bao
gồm những nhân tố nội sinh, những nhân tố ngoại sinh và những nhân tố ảnh hưởng khác.
Những nhân tố này biến đổi không ngừng và liên tục tác động qua lại với nhau để hình thành nên
cung - cầu chứng khoán trên thị trường thứ cấp. Khi cầu chứng khoán tăng cao mà lượng cung

không đáp ứng đủ sẽ dẫn đến tình trạng giá chứng khoán tăng nóng. Khi cung chứng khoán
không đổi nhưng lượng cầu lại giảm mạnh sẽ dẫn đến tình trạng giá chứng khoán sụt giảm. Do
vậy, giá cả các chứng khoán luôn vận động và biến đổi theo quy luật cung cầu và đây cũng là
quy luật phổ biến và đặc trưng của nền kinh tế thị trường nói chung.
2. ĐIỂM QUA CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM THỜI GIAN QUA
• Các nhân tố nội sinh
Trong giai đoạn đầu mới thành lập từ năm 2000 - 2004 và phát triển mạnh trong giai đoạn
trong 2005 - 2007, nhìn chung hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết diễn ra theo chiều
hướng tốt, đó là: Sản xuất kinh doanh có lãi, cổ phiếu được trả cổ tức cao. Lợi nhuận ròng trong
năm 2005 so với những năm trở về trước của các công ty đều tăng, cụ thể là REE tăng 33,8% (cổ
tức 1.500đ/CP), SAM tăng 15,8% (cổ tức 1.500đ/CP), HAP tăng 20,5% (cổ tức 3.700đ/CP),
TMS tăng 67,5% (cổ tức 1.800đ/CP), LAF tăng 78,2% (cổ tức 1.200đ/CP)…. Nền kinh tế đạt
được tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, trung bình GDP tăng 7,5%/năm
(đặc biệt năm 2005 là 8,4%). GDP bình quân đầu người năm 2005 tính bằng USD theo tỉ giá hối
đoái đã đạt 638 USD, vượt khá xa so với mức 288 USD của năm 1995 và 402 USD của năm
2000. Nguồn lực trong và ngoài nước được huy động tích cực, đưa tỉ lệ vốn đầu tư so với GDP
lên 38,4%. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài theo số đăng ký mới và bổ sung lên đến trên 60 tỉ
USD, thực hiện đạt khoảng 33 tỉ USD; nguồn vốn ODA đạt trên 30 tỉ USD, giải ngân đạt khoảng
16 tỉ USD. Cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường. Nếu như cuối
năm 2005 HOSE có 32 loại cổ phiếu và 1 chứng chỉ quỹ niêm yết thì trong năm 2006 số lượng
Trang 11
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
các loại cổ phiếu niêm yết tăng mạnh, đặc biệt là vào những ngày cuối năm do các công ty cổ
phần phải chạy đua niêm yết với mốc thời gian 1/1/2007 - mốc chính thức bãi bỏ ưu đãi thuế ở
mức giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm kể từ thời điểm lên sàn.
Cung chứng khoán tăng mạnh không chỉ cung ứng cho nhà đầu tư ngày càng nhiều sự lựa
chọn, giảm tính rủi ro cho thị trường, mà về lâu dài, nó có tác động rất lớn tới thị trường, kích
thích lượng cầu chứng khoán tăng lên vì các nhà đầu tư đang chờ đợi cơ hội kiếm lời từ những
cổ phiếu của những ngành nghề có tiềm năng phát triển cao. Các cổ phiếu trên HOSE không

những là của các doanh nghiệp lớn có tiềm năng mà còn là những cổ phiếu có mức thu nhập trên
một cổ phiếu (EPS) rất cao. Đây được xem là một trong những nhân tố chính làm cho giá cổ
phiếu tăng vọt nhiều phiên liền trong những ngày đầu năm 2007 và trụ hạng ở mức giá cao. Điều
này đồng nghĩa với việc VN-Index thăng hoa rồi dao động quanh mặt bằng giá mới rất cao so với
giai đoạn trước.
Với kết quả kinh doanh của các công ty niêm yết như trên thì các nhân tố nội sinh không giải
thích được hiện tượng tăng giá đến chóng mặt làm cho VN-Index tăng từ 100 điểm lên 998,72
(27/11/2007), lại càng không thể giải thích được hiện tượng giảm giá thê thảm để VN-Index rớt
xuống còn 203,12 điểm trong thời gian sau đó và tính đến 20/10/2012 VN-Index cũng chỉ xoay
quanh ở mức 390 điểm.Lúc này, mọi suy luận tính toán logic trên cơ sở các số liệu và thông tin
về các hoạt động kinh doanh của công ty đều phá sản. Các chỉ số P/E, ROA, ROE không còn ảnh
hưởng đến sự tăng hay giảm giá cổ phiếu và chiến lược đầu tư, danh mục đầu tư cũng không còn
có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư trong giai đoạn này nữa. Sự biến động giá chứng khoán trong
giai đoạn hiện nay đã tách khỏi những giá trị nội tại của cổ phiếu. Các nhân tố nội sinh không
giúp chúng ta tìm ra nguyên nhân thật của sự “sốt cao” cũng như sự “đột quỵ” hiện nay của giá
chứng khoán niêm yết.
• Các nhân tố ngoại sinh
Trong giai đoạn 2000-2007, các nhân tố vĩ mô của nền kinh tế VN tương đối ổn định. Nếu
lấy giá tiêu dùng năm 2000 làm gốc là 19%; năm 2004 chỉ tăng 0,95%, năm 2007 chỉ tăng 0,6%.
Năm 2006 được đánh giá là năm khởi đầu cho thời kỳ cất cánh của kinh tế VN, hầu hết các chỉ
tiêu kinh tế năm 2006 đều đạt và tăng trưởng khá, ổn định được kinh tế vĩ mô. Kinh tế VN năm
2006 tăng trưởng ngoạn mục, đạt 8,2% (kế hoạch 8%; GDP bình quân đầu người đạt 720 USD.
Đặc biệt hơn là VN vào WTO, thời cơ mới cho nền kinh tế được ví như “Thuyền ra biển lớn”.
VN đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới - tổ chức
thương mại lớn nhất hành tinh – VN thực sự bơi ra “biển lớn”. Một sân chơi tự do, sòng phẳng,
song thách thức trong cạnh tranh sẽ gay gắt hơn bao giờ hết đang chờ đón các doanh nghiệp VN.
Quốc hội Hoa Kỳ cũng đã chính thức thông qua Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh
viễn (PTNR) với VN làm cho kinh tế VN hoàn toàn hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Chính sự ổn định của nền kinh tế làm cho các kênh đầu tư như vàng, USD, bất động sản trở
nên rất hạn chế vì không thu được mức lợi nhuận cao. Trong giai đoạn này đầu tư vào chứng

khoán được xem như một kênh đầu tư mới và đầy hấp dẫn. Sự quan tâm của nhà đầu tư và lượng
tiền đổ vào chứng khoán quá nhiều có thể được coi là yếu tố ngoại sinh làm cho giá cổ phiếu
tăng “cực nóng” trở thành giá ảo rồi “rơi tự do” sau đó như là một quy luật tất yếu.
Kể từ khi ảnh hưởng của thị trường bất động sản Mỹ năm 2008 và khủng hoảng kinh tế thế
giới xảy ra, đặt biệt là diễn biến của nợ công châu Âu cho đến ngày 20/10/2012, giá chứng khoán
cứ xập xình giống như “chợ chiều” ảm đạm.
• Các nhân tố ảnh hưởng khác
Trang 12
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
Lý giải cho sự tăng giá chứng khoán nhanh ở mức cao trong giai đoạn 2005 - 2007 có thể
thấy có một nguyên nhân chính thuộc các nhân tố can thiệp đó là yếu tố tâm lý nhà đầu tư. Trong
giai đoạn này các nhà đầu tư (phần đông là nhà đầu tư nhỏ lẻ) chưa có nhiều kiến thức về chứng
khoán và việc đầu tư chưa chuyên nghiệp nên đầu tư theo tâm lý đám đông hay tâm lý bầy đàn,
làn sóng người ồ ạt đổ xô vào TTCK, trong đó phần lớn không mấy am hiểu gì về tính đặc thù và
các yếu tố kỹ thuật của thị trường này, thậm chí cũng không cần biết đến thực chất của những
doanh nghiệp mà họ chọn mặt gửi vàng để đầu tư.
Trong phiên giao dịch đầu tiên, ngay từ sáng sớm ngày 28/7/2000, chỉ lác đác một số ít người
từ các nơi đến tập trung ở văn phòng các công ty chứng khoán để đặt lệnh mua bán chứng khoán,
trong đó có một số người đến để tham quan và tìm hiểu về hoạt động của TTCK. Những ngày
tiếp theo là hiện tượng xếp hàng của các nhà đầu tư tại các công ty chứng khoán từ lúc 5, 6 giờ
sáng để chờ đặt lệnh mua. Điều đặt biệt, hiện tượng khá phổ biến trong việc đầu tư theo tâm lý
đám đông là khi giá đang lên từng ngày, mọi người thường giả định giá ngày mai sẽ lên tiếp, họ
đổ xô đi mua và kết quả là giá càng lên. Cùng lúc đó trong tâm lý đám đông xuất hiện sự cả tin
một cách kỳ lạ trước mọi thông tin và kể cả tin đồn. Cứ mua là thắng – đó là một đặc tính của
tâm lý đám đông trên TTCK VN trong giai đoạn 2004 – 2007. Khi giá xuống, ban đầu người ta
vẫn kỳ vọng đó chỉ là cơn đỏng đảnh nhất thời của thị trường. Nhưng từ năm 2008 – 20/10/2012
ngày, một tuần, rồi hai tuần trôi qua, mọi người lại giả định giá ngày mai sẽ xuống nữa, họ đổ xô
đi bán và kết quả là giá càng xuống. Hầu như ngay lập tức, động tác này ảnh hưởng đến nhiều
nhà đầu tư nhỏ lẻ khác. Với tâm lý chuyển từ lo âu sang hoang mang, từ hoang mang đến sợ hãi,
rồi từ sợ hãi đến sợ bị bỏ rơi, họ cũng vội vàng bán ra các cổ phiếu của mình làm cho giá chứng

khoán hiện nay rẻ hơn “bó rau”.
Cũng tương tự như khi mua vào, các nhà đầu tư nhỏ lẻ lại đổ xô đi bán tháo cổ phiếu, dẫn
đến tình trạng khủng hoảng thừa cổ phiếu trên thị trường và càng làm chỉ số chứng khoán sa sút
hơn nữa. Khi gió đổi chiều, thị trường tuột dốc không phanh thì người người cùng bán, tranh
nhau mà bán nhưng chẳng thấy ai mua làm giá cổ phiếu giảm kịch sàn, kết hợp tình hình kinh tế
khó khăn trong năm 2011 cho đến nay đã dẫn đến tình trạng giá cổ phiếu “đột quỵ” như hiện
nay.
3. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý ĐẾN GIÁ CHỨNG KHOÁN TRONG THỜI GIAN
TỚI
Muốn TTCK phát triển ổn định thì các nhân tố nội sinh, ngoại sinh phải là những nhân tố ảnh
hưởng quyết định đến sự biến động giá chứng khoán. VN hiện nay, những nhân tố nội sinh,
ngoại sinh và một số nhân tố khác có ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán trong thời gian tới, đó
là:
Thứ nhất, hàng hoá trên TTCK phải có chất lượng tốt. Hiện tại trong thời gian qua, các
doanh nghiệp huy động vốn cho các dự án đầu tư mới thông qua TTCK giúp nhằm giúp doanh
nghiệp phát triển tốt hơn, tính rủi ro thấp hơn khi có thêm nhiều đối tác tham gia. Chúng ta cần
lưu ý rằng Ủy ban chứng khoán chỉ cấp phép cho các doanh nghiệp nộp đơn xin phát hành cổ
phiếu tăng vốn khi đơn vị có phương án khả thi nhằm sử dụng vốn hiệu quả để tạo thêm giá trị
gia tăng cho nền kinh tế chứ không phải lạm dụng tín dụng qua TTCK, làm đe dọa đến sự tăng
trưởng của chính công ty phát hành và đe dọa cả sự phát triển lành mạnh và bền vững của TTCK
trong dài hạn.
Thứ hai, chú trọng đến kết quả từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty niêm
yết. Hiện tại, rất nhiều công ty đang niêm yết trên sàn chứng khoán hiện nay làm ăn không hiệu
quả, kế hoạch tăng vốn của các công ty không đi kèm với kế hoạch tăng lợi nhuận hay thực tế tỉ
Trang 13
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
lệ tăng lợi nhuận thấp hơn tỉ lệ tăng vốn, do vậy chỉ số EPS bình quân toàn thị trường trong
những năm tới sẽ giảm. Điều này sẽ dẫn đến chỉ số P/E chung của thị trường sẽ ở mức cao và
TTCK VN sẽ trở nên kém hấp dẫn nhà dầu tư so với các TTCK trong khu vực.
Thứ ba, tăng trưởng kinh tế VN phải đi liền với chất lượng tăng trưởng. Trong những năm

qua, kinh tế VN đạt tốc độ tăng trưởng cao nhưng sự tăng trưởng đạt được chủ yếu do tăng vốn
đầu tư và lao động sống chứ không phải là do nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư. Chỉ số đầu
tư tăng trưởng ICOR của cả nền kinh tế tăng nhanh qua các năm, cụ thể: Từ năm 2000 – 2005 là
4,89, từ 2006 – 2010 là 7,43 và năm 2011 xuống còn 5,9. Đây là điều đáng lo ngại cho quá trình
phát triển bền vững của nền kinh tế VN
Thứ tư, tình trạng tham nhũng và lãng phí. Ở VN hiện nay, tham nhũng và lãng phí có lẽ là
vấn đề cần phải giải quyết một cách triệt để. Nếu không có những quyết sách đúng đắn thì tham
nhũng và lãng phí sẽ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển dài hạn.
Thứ năm, tăng trưởng với lạm phát. Kinh tế VN đạt mức tăng trưởng cao, nhưng vấn đề
người dân quan tâm là sự tăng trưởng đó gắn với sự bền vững, nâng cao chất lượng sống của
người dân như thế nào trong khi chỉ số giá (CPI) tăng cao hơn nhiều so với những năm gần đây,
dự kiến dừng ở mức 8,2% - 8,3% , đang gây khó khăn cho đời sống nhân dân và nền kinh tế, đặc
biệt ảnh hưởng rất lớn đến giá chứng khoán. Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), lạm
phát trung bình của VN là 8,3% (2005), 7,5% (2006) và 7,3% (2007) và 18,75% (2011), dự kiến
năm 2012 xuống còn 9,5%.
Thứ sáu, ảnh hưởng của các kênh đầu tư khác. Trong một nền kinh tế, những kênh đầu tư
như bất động sản, vàng, ngoại tệ luôn cùng chia sẻ và cạnh tranh dòng vốn đầu tư trong xã hội
với kênh đầu tư chứng khoán. Đây chính là sự vận động mang tính quy luật của dòng vốn đầu tư
trong nền kinh tế thị trường. Trên thực tế hai thị trường bất động sản và chứng khoán luôn có
những tác động mạnh mẽ đến nhau. Sự tác động này luôn tạo nên những rủi ro đồng thời cũng
kèm theo những cơ hội cho sự phát triển của một trong hai thị trường. TTCK đi lên sẽ vực dậy
thị trường bất động sản và khi thị trường bất động sản suy sụp sẽ ảnh hưởng xấu đến TTCK. Vì
thế, mỗi biến động trên thị trường này sẽ đều có những tác động cụ thể lên thị trường kia, và rõ
ràng, hai thị trường này sẽ ngày càng phải “nhìn nhau” để tự điều chỉnh. Gần đây, thị trường
vàng cũng hết sức hấp dẫn khi liên tục lập các kỷ lục mới về giá. Vàng được xem là tài sản
phòng ngừa rủi ro hiệu quả
VII. XU HƯỚNG CỦA SGD CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI
Thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCKVN) chính thức đi vào hoạt động vào năm 2000
với việc vận hành sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK) TP.HCM vào ngày 20/07/2000 và
SGDCK Hà Nội vào ngày 08/03/2005 (trước đó các SGDCK hoạt động với mô hình là các

Trung tâm Giao dịch chứng khoán và tổ chức dưới hình thức đơn vị sự nghiệp có thu thuộc Ủy
ban Chứng khoán Nhà nước). Hiện nay kênh đầu tư chứng khoán tỏ ra vẫn là kênh huy động vốn
khá hiệu quả. Một số xu hướng của TTCK và định hướng phát triển TTCKVN giai đoạn 2011-
2020
Trong thập kỷ tới, TTCKVN có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh.
Tuy nhiên, cơ hội phát triển luôn đồng hành cùng với những thách thức. Vì vậy, mục tiêu của
TTCKVN trong giai đoạn tới được đặt ra như sau:
Một là, phát triển TTCK phải dựa trên chuẩn mực chung của thị trường và các thông lệ quốc
tế tốt nhất, phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước,
tích cực hội nhập với thị trường tài chính khu vực và quốc tế.
Trang 14
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
Hai là, phát triển TTCK đồng bộ, toàn diện, hoạt động hiệu quả, vận hành an toàn, lành
mạnh, vừa góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển của xã hội vừa tạo ra những cơ hội đầu
tư sinh lợi, góp phần nâng cao mức sống và an sinh xã hội.
Ba là, phát triển TTCK nhiều cấp độ, bảo đảm chứng khoán được tổ chức giao dịch theo
nguyên tắc thị trường, có sự quản lý, giám sát của Nhà nước; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và
có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia TTCK.
Bốn là, đa dạng hóa các sản phẩm, nghiệp vụ của thị trường, đảm bảo cho các tổ chức kinh
doanh, dịch vụ chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả dựa trên nền tảng quản trị rủi ro và phù
hợp với các chuẩn mực chung và thông lệ quốc tế. Từng bước tái cơ cấu hệ thống các trung gian
thị trường trên nguyên tắc không gây xáo trộn lớn và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các
thành viên thị trường.
Năm là, phát triển TTCK trong mối tương quan với việc phát triển thị trường tiền tệ, thị
trường bảo hiểm, nhằm tạo ra một hệ thống thị trường tài chính thống nhất, đồng bộ có sự quản
lý, giám sát của nhà nước. Hoạt động quản lý, giám sát, điều hành và phát triển của các cơ quan
quản lý nhà nước phải thống nhất về mục tiêu, mục đích, định hướng và giải pháp thực hiện.
Sáu là, chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh, từng
bước thu hẹp về khoảng cách phát triển giữa TTCK Việt Nam so với các thị trường khác trong
khu vực và trên thế giới.

• Trên cơ sở những mục tiêu trên, giải pháp cụ thể sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, tăng quy mô, củng cố tính thanh khoản cho TTCK, phấn đấu đưa tổng giá trị vốn
hóa thị trường cổ phiếu đạt từ 80% đến 110% GDP vào năm 2020. Phát triển thị trường trái
phiếu trở thành một kênh huy động và phân bổ vốn quan trọng cho phát triển kinh tế. Chú trọng
đặc biệt phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho Ngân sách nhà nước và
đầu tư xây dựng cơ bản. Củng cố một cách căn bản cầu đầu tư chứng khoán; phát triển và đa
dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, phát triển hệ thống nhà đầu tư tổ chức, khuyến khích nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư dài hạn, tiếp tục phát triển hệ thống nhà đầu tư cá nhân. Ngoài ra, một thị trường
dựa trên nền tảng vững chắc tạo ra bởi hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức trong nước chắc chắn
sẽ trở nên linh hoạt hơn trước những cú sốc kinh tế và tài chính. Do đó, việc phát triển hệ thống
các nhà đầu tư có tổ chức trong nước cũng là một vấn đề then chốt cần được lưu ý để có thể giúp
hệ thống tài chính phòng vệ chống lại ảnh hưởng của các cú sốc bên ngoài.
Thứ hai, tăng tính hiệu quả của thị trường trên cơ sở tái cấu trúc TTCK, hiện đại hóa cơ sở hạ
tầng, chuyên nghiệp hóa việc tổ chức và vận hành hạ tầng công nghệ thông tin. Từng bước hiện
đại hóa các SGDCK với các hệ thống giao dịch, giám sát và công bố thông tin hiện đại và có khả
năng kết nối với các SGDCK quốc tế; đa dạng hóa phương thức giao dịch và sản phẩm thị
trường đáp ứng nhu cầu của thị trường. Việc tái cấu trúc TTCK phải có bước đi thích hợp nhằm
phát huy tối đa vai trò của 2 SGDCK đối với sự phát triển của thị trường trong giai đoạn trước
mắt, tiến tới thống nhất thị trường trong dài hạn.Kiện toàn và phát triển hệ thống lưu ký, đăng ký,
thanh toán, bù trừ theo chuẩn mực quốc tế; hiện đại hóa hoạt động của Trung tâm Lưu ký Chứng
khoán, từng bước tham gia và kết nối vớiTTLKCK quốc tế và trong khu vực. Hiện đại hóa hạ
tầng công nghệ thông tin tại các SGDCK, TTLKCK, cũng như các công ty chứng khoán và các
tổ chức khác có liên quan, nhằm bảo đảm hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ, thống nhất,
tương thích và an toàn.
Thứ ba, nâng cao sức cạnh tranh của các định chế trung gian thị trường và các tổ chức phụ
trợ.Hệ thống các tổ chức trung gian chứng khoán phải được củng cố chuyên nghiệp hơn, có đủ
năng lực tài chính, công nghệ và nguồn nhân lực để cạnh tranh với các tổ chức kinh doanh chứng
Trang 15
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NHÓM 1
khoán trong khu vực và phù hợp với xu hướng chung trên thế giới là mô hình tổ chức các công ty

chứng khoán theo mô hình đa năng và củng cố hệ thống quản trị rủi ro các định chế.
Thứ tư, tăng cường năng lực quản lý, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi của cơ quan
quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán trên cơ sở phân định rõ chức năng giám sát giữa
Bộ Tài chính/UBCKNN với các bộ ngành, giữa các cấp giám sát khác nhau theo hướng chuyên
biệt hóa; tăng cường vai trò giám sát của các tổ chức tự quản và tổ chức hiệp hội; thiết lập cơ chế
chính thức phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong và ngoài nước trong lĩnh vực
chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động giám sát, cưỡng chế thực
thi, bảo đảm an toàn cho hoạt động chứng khoán trên TTCK Việt Nam.
Thứ năm, chủ động hội nhập quốc tế, có lộ trình phù hợp với trình độ phát triển của thị
trường. Hội nhập quốc tế là một xu hướng tất yếu hiện nay nhằm nâng cao vai trò, vị thế, tăng
khả năng cạnh tranh của TTCK Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Để có được những lợi
ích lớn nhất từ hội nhập quốc tế và giảm thiểu được những rủi ro khi tham gia quá trình này, cơ
quan quản lý cần chủ động xây dựng một chính sách hội nhập, lộ trình hội nhập có tính đến yếu
tố trình độ phát triển của TTCK và nền kinh tế Việt Nam trong từng giai đoạn.
Trang 16

×