Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp ở thái bình giai đoạn 2009 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.22 KB, 76 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Khu công nghiệp (KCN) là một mô hình kinh tế mới ở Việt Nam, nó
xuất hiện trong những năm đầu của thập kỷ 90. Tuy thời gian phát triển chưa
dài nhưng cũng đủ để KCN kịp khẳng định vai trò to lớn của mình trong công
cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong những đóng góp của KCN
đó phải kể đến sự xuất hiện của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
đây là một bộ phận hết sức quan trọng mà bất cứ KCN nào khi xây dựng đều
đặt mục tiêu tăng cường thu hút nguồn vốn đó để phát triển. Chính vì vậy,
Nghị quyết đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
“kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phần cấu thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta, được khuyến
khích lâu dài. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ trương quan trọng,
góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc
tế, tạo nên sức mạnh tồng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hóa đất nước, xây dựng nền sản xuất hiện đại, vững mạnh phục vụ cho cả nhu
cầu trong nước và xuất khẩu, có khả năng hỗ trợ và kích thích phát triển năng
lực cho các ngành khác, tiến tới đổi mới toàn bộ xã hội”
Trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình kinh tế thế giới đang lâm vào
khủng hoảng thì việc thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI vào các KCN nói
chung đều hết sức khó khăn do vậy cần có những giải pháp, chính sách cụ thể
nhằm đẩy mạnh việc thu hút đó.
Qua thời gian thực tập ở sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Bình, được tiếp
cận nguồn tài liệu của cơ quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh, đặc biệt
là vào các khu công nghiệp đã giúp tôi có được cái nhìn tổng quan nhất về thực
trạng việc thu hút FDI vào các KCN trong thời gian qua từ đó đưa ra những
giải pháp cụ thể nhằm cải thiện thực trạng đó. Do vậy, tôi đã quyết định lựa
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư


trực tiếp nước ngoài vào các Khu công nghiệp ở Thái Bình giai đoạn 2009
-2015”. Đề tài nghiên cứu góp phần giải quyết vấn đề đang được quan tâm nhất
hiện nay trong phát triển các khu công nghiệp đó là: “Làm thế nào để tăng
cường thu hút nguồn vốn FDI vào các KCN trên địa bàn tỉnh Thái Bình?”.
Việc trả lời câu hỏi đó được cụ thể hóa trong các chương của đề tài. Do đó kết
cấu của đề tài là:
Chương I: Lý luận chung về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và khu
công nghiệp
Chương II: Thực trạng thu hút FDI vào các KCN ở Thái Bình giai đoạn
2002 – 2008
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường thu hút
FDI vào các KCN ở tỉnh Thái Bình.
Để hoàn thiện đề tài này trở thành chuyên đề tốt nghiệp chuyên ngành của
mình, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ nhiệt tình từ khi định hướng đề tài
đến khi hoàn thiện chuyên đề. Vì vậy, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Cô giáo – Thạc sỹ Nguyễn Thị Hoa, Khoa Kế Hoạch và Phát triển đã
hướng dẫn tôi về mặt lý luận và việc vận dụng nó vào giải quyết vấn đề
nghiên cứu.
Các cán bộ của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Bình tạo điều kiện cho tôi
hoàn thành thực tập chuyên ngành tại cơ quan.
Các cán bộ phòng quản lý đầu tư – Ban quản lý các KCN tỉnh Thái
Bình đã cung cấp tài liệu và hướng dẫn việc xử lý số liệu phục vụ cho phân
tích vấn đề.

Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀ KHU CÔNG NGHIỆP

I. VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thực tế đã chứng minh rằng trong xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa
hiện nay, không một quốc gia nào trên thế giới có thể phát triển được mà không
sử dụng nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Tuy nhiên, vốn đầu tư nước ngoài
được chia làm hai loại là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư gián tiếp
nước ngoài (bao gồm các nguồn viện trợ chính thức ODA, viện trợ của các tổ
chức phi chính phủ NGO, Vay thương mại) do đó phải biết cách cân đối giữa
các nguồn vốn đầu tư nước ngoài sao cho thật hợp lý. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài luôn được quan tâm hơn bởi nó không mang tính ràng buộc về chính trị
giữa các quốc gia, vì vậy tăng cường thu hút FDI là một chủ trương quan trọng
của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới góc nhìn của quỹ tiền tệ quốc tế IMF
là đầu tư có lợi ích lâu dài của một Doanh nghiệp tại nước khác (nước nhận
đầu tư), không phải tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi đầu
tư) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả Doanh nghiệp.
Còn theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc thì, Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là đầu tư có mối liên hệ, lợi ích và sự kiểm sóat lâu dài của một pháp
nhân hoặc một thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối
với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (Doanh nghiệp FDI hoặc chi
nhánh nước ngoài).
Việt Nam cũng đưa ra quan điểm riêng của mình về đầu tư trực tiếp
nước ngoài được thể hiện trong luật đầu tư 2005 như sau: Đầu tư trực tiếp
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của
luật này.
Tuy có nhiều khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI nhưng đều

mang ý nghĩa tương tự, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc
tế mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn đầu tư,
công nghệ, kỹ thuật, chuyên gia, nguyên vật liệu…của một dự án để khai thác
một số lĩnh vực nào đó nhằm thu lợi nhuận. Và nó mang những đặc điểm sau:
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của nhà đầu tư, họ tự chịu trách
nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả cao.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu
là Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp
hoạt động theo tỷ lệ góp vốn của mình.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp
nhận được công nghệ tiên tiến, học hỏi được kinh nghiệm tổ chức, quản lý là
mục tiêu mà các hình thức khác không giải quyết được.
- Nguồn này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của hoạt động mà
nó còn bao gồm cả vốn của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án
cũng như đầu tư từ lợi nhuận thu được.
Như vậy dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, nó không những giúp chúng ta giải quyết được vấn đề thiếu vốn
đầu tư mà còn góp phần giải quyết công ăn việc làm, đẩy mạnh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đặc biệt là kênh hiệu quả để thực hiện chiến
lược chuyển giao công nghệ đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
2. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong thực tiễn có nhiều hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được áp
dụng là:
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
a. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
Là văn bản được ký kết của hai hay nhiều bên quy định trách nhiệm và
phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở
Việt Nam mà không cần thành lập một tư cách pháp nhân. Do đó nó mang

đặc điểm sau:
- Không ra đời một pháp nhân mới.
- Cơ sở hình thành của hình thức này là hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Trong hợp đồng nội dung chính phản ánh trách nhiệm và quyền lợi giữa các
bên với nhau.
- Thời hạn cần thiết của hợp đồng do các bên thỏa thuận phù hợp với tính
chất mục tiêu kinh doanh và được cơ quan cấp giấy phép kinh doanh chuẩn.
- Hợp đồng phải do đại diện của các bên có thẩm quyền ký, trong quá
trình hợp tác kinh doanh các bên giữ nguyên tư cách pháp nhân của mình.
b.Doanh nghiệp liên doanh.
Theo khoản 2 điều 2 luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam quy
định doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hay nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng kinh doanh hoặc hiệp định ký
giữa chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam và chính phủ nước
ngoài; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt
Nam; các doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ
sở hợp đồng liên doanh. Hình thức này có đặc điểm:
+ Thành lập pháp nhân mới hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc
lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Các bên chịu trách nhiệm về
phần vốn của mình.
+ Phần góp vốn của bên hoặc của các bên nước ngoài không hạn chế
mức tối đa nhưng tối thiểu không dưới 30% vốn pháp định và trong quá trình
hoạt động không giảm vốn pháp định.
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Cơ quan cao nhất của doanh nghiệp liên doanh là hội đồng quản trị
mà thành viên của nó do mỗi bên chỉ định tương ứng với tỷ lệ góp vốn của
mỗi bên nhưng ít nhất phải hai người. Hội đồng quản trị có quyền quyết định
những vấn đề quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp theo nguyên tắc

nhất trí.
+ Các bên tham gia liên doanh phân chia lợi nhuận và phân chia rủi ro
theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong vốn pháp định hoặc theo thỏa thuận giữa
các bên.
+ Thời hạn hoạt động không quá 50 năm trong trường hợp đặc biệt
được kéo dài hơn nhưng không quá 20 năm nữa.
c. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Theo điều 26 Nghị định 12 CP quy định: Doanh nghiệp 100% vốn đầu
tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành
lập tại Việt Nam, tự quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh
doanh. “Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt
Nam. Thời gian hoạt động không quá 50 năm kể từ ngày được cấp giấy
phép”.
d. Hợp đồng Xây dựng – vận hành – chuyển giao ( BOT)
Theo điều 12 khoản 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì Hợp
đồng xây dựng – vận hành – chuyển giao là văn bản ký giữa cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kinh doanh công
trình kết cấu hạ tầng trong thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao không bồi thường công trình đó cho Việt Nam.
e. Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – vận hành.
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – vận hành là văn bản ký kết giữa
cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài xây
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt
Nam dành cho nhà đầu tư kinh doanh trong một thời gian nhất định để thu hồi
vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.

f. Hợp đồng xây dựng chuyển giao (BT)
Theo khoản 13 điều 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì: Hợp
đồng xây dựng chuyển giao là hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kết cấu hạ
tầng. Sau khi xây dựng xong nhà đầu tư chuyển giao công nghệ đó cho nhà
nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài
thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
II. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA KHU CÔNG NGHIỆP TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở THÁI BÌNH
1. Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của khu công nghiệp (KCN)
1.1 Khái niệm
Mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ đều có chủ trương xây dựng những
khu vực tập trung để thu hút vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Trước nhu cầu đó việc xây dựng các Khu công nghiệp bùng nổ ở các
nước phát triển và đang phát triển nhằm hình thành các khu phát triển khoa
học – kỹ thuật – công nghệ và thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước, do
vậy Khu công nghiệp xuất hiện ở hầu hết các quốc gia. Mặc dù thuật ngữ
KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng nó bao gồm nhiều loại hình, nhiều
mô hình tổ chức có tính chất hoạt động khác nhau. Một số loại hình KCN phổ
biến trên thế giới là:
+ Công viên công nghiệp ( Industrial park).
+ Vùng công nghiệp (Industrial districts).
+ Khu công nghiệp (Industrial zones).
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Khu chế xuất (Export Processing zones).
+ Khu công nghệ cao (High tech centres).
+ Đặc khu kinh tế (Special economic zones)…
Như vậy, KCN là một thuật ngữ để chỉ một vùng lãnh thổ quốc gia

được xác định ranh giới địa lý rõ ràng trong đó các Doanh nghiệp công
nghiệp tập trung đầu tư, hoạt động, phát triển do đó có cơ sở vật chất hạ tầng
tốt, có môi trường kinh doanh tốt và thị trường tốt.
Khu công nghiệp là mô hình mới đối với nước ta ra đời cùng với chủ
trương mở cửa và đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986
khởi xướng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996 xác định “Hình
thành các KCN tập trung (bao gồm Khu chế xuất và khu công nghệ cao), tạo
địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển
mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị ở các thành phố, thị xã nâng cấp,
cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý
ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới
xen lẫn với khu dân cư”.
Nghị định 36/CP của Chính Phủ ngày 24/4/1997 có đề cập: Khu công
nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng
công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới
xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ
quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất.
Theo định nghĩa trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì: Khu
công nghiệp là một lãnh địa được phân chia và phát triển có hệ thống theo
một kế hoạch tổng thể nhằm cung ứng các thiết bị kỹ thuật cần thiết, cơ sở hạ
tầng, phương tiện công cộng phù hợp sự phát triển của một liên hợp các
ngành công nghiệp.
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Như vậy có thể hiểu KCN là một quần thể liên đoàn các xí nghiệp công
nghiệp xây dựng trên một vùng có điều kiện thuận lợi về các yếu tố tự nhiên,
về kết cấu hạ tầng xã hội … để thu hút vốn đầu tư (đặc biệt là vốn FDI) và
hoạt động theo một kết cấu hợp lý các doanh nghiệp công nghiệp và các
doanh nghiệp dịch vụ nhằm đạt kết quả cao trong sản xuất công nghiệp và

kinh doanh.
1.2 Những đặc trưng cơ bản của khu công nghiệp
Thứ nhất, về bản chất các KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công
nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ công nghiệp.
Thứ hai, KCN được chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ ra quyết định
thành lập do vậy có việc tạo môi trường đầu tư được cụ thể hóa trong các
chính sách pháp luật, như những chính sách ưu đãi về thuế, hải quan, giá thuê
đất, áp dụng những thủ tục hành chính đơn giản…nhằm tạo môi trường pháp
lý và kinh doanh thuận lợi chó các nhà đầu tư để thu hút vốn đầu tư và công
nghệ kỹ thuật mới của nước ngoài.
Thứ ba, KCN thực chất là hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp trên
lãnh thổ, hàng rào ngăn cách với phần lãnh thổ còn lại của vùng và nó được
xây dựng cơ sơ hạ tầng và những tiện ích công cộng (điện, nước, giao thông,
bưu điện ) hiện đại và thuận lợi với mục đích hấp dẫn các nhà đầu tư. Kinh
nghiệm của thế giới cho thấy, diện tích hợp lý với một KCN khoảng từ 10 ha
đến 300 ha. Thông thường việc phát triển cơ sơ hạ tầng do một công ty xây
dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng đảm nhiệm. Các công ty này có thể là
doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp
trong nước. Các công ty phát triển cơ sở hạ tầng khi xây dựng xong kết cấu hạ
tầng được phép cho các doanh nghiệp khác thuê lại.
Cuối cùng, KCN chịu sự quản lý trực tiếp của Ban quản lý các KCN
cấp tỉnh nằm tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đây là cơ quan
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trực tiếp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với sự hoạt động sản xuất
kinh doanh trong các KCN, ngoài ra tham gia vào quản lý các KCN tập trung
còn có nhiều Bộ như Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, Bộ Thương Mại, Bộ Xây
Dựng…
2. Vai trò của KCN (đặc biệt là các KCN sử dụng FDI) đối với sự

phát triển kinh tế xã hội ở Thái Bình
2.1 KCN là khu vực thu hút FDI quan trọng nhất của tỉnh
Trong quá trình thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước,
việc thu hút và sử dụng vốn FDI là một đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội và thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Do
đó Nhà nước ta áp dụng nhiều chính sách để thu hút FDI bao gồm cả việc
thành lập các khu vực tập trung mọi điều kiện tốt để thu hút FDI, như vậy
KCN ra đời như một công cụ để tăng cường thu hút FDI vào địa phương.
Để có được cái nhìn tổng quát nhất về đóng góp của KCN trong việc
thu hút FDI vào toàn tỉnh Thái Bình ta có bảng sau:
Bảng 1.1: Tổng hợp đầu tư nước ngoài vào KCN và vào toàn tỉnh Thái
Bình lũy kế đến 31/12/2008
Đơn vị tính:
USD
Chỉ tiêu Số dự án FDI Vốn đăng ký Vốn thực hiện
Toàn tỉnh 45 254.254.391 113.940.024
KCN 35 227.988.311 80.780.370
Nguồn: Sở Kế hoạch và đầu tư Thái Bình và Ban quản lý các KCN.
Tính đến 31/12/2008 toàn tỉnh thu hút được 45 dự án FDI vào các lĩnh
vực sản xuất và kinh doanh với tổng số vốn đăng ký là 254.254.391 USD.
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong đó, có 35 dự án được đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh
với tổng số vốn đăng ký là 227.988.800 USD. Như vậy phần lớn số dự án được
đầu tư vào các KCN, với tổng số vốn FDI đăng ký và vốn thực hiện chiếm trên
83% tổng số vốn FDI vào toàn tỉnh. Đây là một tỷ lệ khá lớn giúp ta khẳng
định phát triển các KCN là một biện pháp quan trọng để thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Điều này cũng dễ hiểu bởi từ chính những đặc điểm và mục tiêu
của KCN đã giúp chúng có khả năng thu hút FDI hơn so với các khu vực khác.

KCN được đầu tư xây dựng và quản lý một cách tập trung với cơ sở hạ tầng
hiện đại và đầy đủ hơn các vùng khác đi kèm với các chính sách hỗ trợ riêng
như chính sách về thuế, chính sách đào tạo lao động, chính sách đất đai…Nhờ
quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng và Nhà nước, Thái Bình
đã chủ động xây dựng các KCN thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư đặc biệt là nhà
đầu tư nước ngoài, KCN đã góp phần hết sức to lớn trong việc huy động nguồn
vốn FDI vào tỉnh. Như vậy, phát triển KCN trở thành một trong những phương
thức huy động và khai thác có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư vào quá trình
phát triển kinh tế xã hội ở Thái Bình cũng như trong cả nước.
Một đóng góp quan trọng của KCN trong quá trình phát triển là đã thu
hút được nhiều nguồn vốn FDI vào phát triển hạ tầng cơ sở. Nó cũng xuất
phát từ phương hướng chung của toàn tỉnh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực xây dựng hạ tầng cơ sở. Khi
nhà đầu tư quyết định đầu tư vào một khu vực nào đó thì việc trước tiên là họ
phải đầu tư cải thiện môi trường xung quanh như xây dựng đường xá để vận
chuyển hàng hóa nguyên vật liệu, hệ thống dẫn điện, nước, dây cáp….
Tại bốn khu công nghiệp của Thái Bình là KCN Phúc Khánh, Nguyễn
Đức Cảnh, Cầu Nghìn, và Gia Lễ đã xây dựng đựoc gần 20km đường giao
thông, 31 Km cống thoát nước mưa, lắp đặt 13,6 Km đường ống cấp thoát
nước, lát hàng trăm m
2
vỉa hè và toàn bộ hệ thống chiếu sáng. Tổng số vốn
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
FDI đầu tư vào kết cấu hạ tầng trong khu công nghiệp lên đến vài chục tỷ
đồng. Như vậy KCN với vai trò quan trọng trong thu hút FDI đã có những
đóng góp to lớn với sự phát triển kinh tế xã hội của Thái Bình.
2.2 Góp phần tăng giá trị sản xuất công nghiệp và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế toàn tỉnh

KCN được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh như giao thông,
điện, nước cùng các chính sách ưu đãi, khuyến khích của Nhà nước nên đã
thu hút được phần lớn các dự án đầu tư tập trung vào ngành công nghiệp và
dịch vụ công nghiệp cũng như khuyến khích xuất khẩu. Các KCN đã góp
phần tạo nên các khu kinh tế trọng điểm, phát huy lợi thế so sánh và hiện tại
của tỉnh để phát triển nhanh các ngành kinh tế đặc biệt là ngành công nghiệp.
Như vậy có thể nói KCN tập trung thể hiện được tiềm năng phát triển công
nghiệp của một địa phương và góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Năm 2002 là năm đầu tiên có dự án FDI đầu tư vào KCN ở Thái Bình,
đến năm 2008 số dự án đã tăng lên thành 35, đều tập trung trong lĩnh vực
công nghiệp với quy mô tăng dần, trong đó có 14 dự án đã đi vào sản xuất
mang lại cho tỉnh giá trị sản xuất công nghiệp đáng kể:
Bảng 1.2: Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp trong các KCN ở tỉnh
Thái Bình
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm
2005 2006 2007 2008
Doanh thu của các DN KCN 388,6 515,2 604,2 721,9
GTSX của toàn tỉnh 6.455 7.156 7.950 8.912
Tỷ trọng (%) 6,02 7,2 7,6 8,1
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Bình
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Doanh thu của các doanh nghiệp trong KCN tăng dần qua các năm và
đóng góp vào giá trị sản xuất của Thái Bình ngày càng tăng, tỷ lệ đóng góp
này từ năm 2005 luôn chiếm hơn 6% giá trị sản xuất toàn tỉnh.
Từ những đóng góp của KCN trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đã

giúp cho cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Bình không ngừng chuyển dịch theo xu
hướng chung – tăng tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ lệ nông nghiệp
trong GDP toàn tỉnh.
Bảng 1.3: Cơ cấu GDP toàn tỉnh Thái Bình phân theo ngành lĩnh vực
giai đoạn 2003 -2008
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
Năm
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng GDP 100 100 100 100 100 100
Nông, lâm ngư nghiệp 45,79 45,56 42,27 39,86 37.08 36,85
Công nghiệp và xây dựng 19,35 21,22 22,86 24,98 27,03 28,12
Dịch vụ 34,86 33,22 34,87 35,16 35,89 35,03
Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu tư Thái Bình
Cơ cấu GDP chuyển dịch theo xu hướng và ổn định, tuy sự chuyển dịch
này không hoàn toàn do các KCN mang lại nhưng KCN cũng đóng vai trò hết
sức to lớn. Năm 2003, cơ cấu GDP của tỉnh còn khá mất cân đối (tỷ trọng
nông nghiệp trong GDP chiếm gần một nửa 45,79% trong khi đó công nghiệp
chỉ khiêm tốn với 19,35%. Sau 5 năm phát triển thì cơ cấu này đã có sự
chuyển biến rõ rệt, tỷ trọng nông nghiệp giảm xuống còn 36,85%, tỷ trọng
công nghiệp tăng lên 28,12 %. Do đó tỷ trọng của ba ngành lĩnh vực của tỉnh
cân đối hơn, kết quả này đã giúp cho tỉnh khẳng định mình không những là
một tỉnh nông nghiệp hàng đầu mà còn có tiềm năng phát triển công nghiệp
cao.
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Như vậy, các doanh nghiệp trong khu công nghiệp kể cả doanh
nghiệp trong và ngoài nước đã góp phần làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp
cũng đồng thời làm tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế

của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.3 Giải quyết công ăn việc làm cho người dân trong tỉnh
Như ta đã biết, KCN là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp sản xuất có
quy mô lớn do đó nó đòi hỏi một lượng lớn lao động vào làm việc, góp phần
giải quyết công ăn việc làm của một bộ phận lớn lao động trẻ trong tỉnh mới
thoát ly lao động trong nông nghiệp. Thái Bình là một tỉnh thuần nông tuy
nhiên đi cùng xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước, Thái
Bình ngày càng khởi sắc với việc phát triển mạnh các KCN, cụm công nghiệp
và làng nghề thủ công. Một bộ phận lớn lao động trong tỉnh được thu hút vào
làm việc ở đây, giải quyết tạm thời vấn đề thất nghiệp mùa vụ đặc trưng của
sản xuất nông nghiệp. Sau lực lượng này trở thành lao động chính trong khu
công nghiệp do việc đẩy mạnh cơ khí hóa trong nông nghiệp.
Hằng năm, số dự án đầu tư vào KCN của tỉnh tăng lên từ 8 đến 10 dự
án kèm theo vấn đề tuyển dụng và sử dụng lao động do đó giải quyết được
một phần nhu cầu về việc làm của người dân trong tỉnh. Trong số các dự án
đầu tư vào KCN ở Thái Bình thì đóng góp phần lớn là của các dự án FDI với
quy mô lớn và khả năng thu hút nhiều lao động, mỗi dự án FDI đầu tư vào
khu công nghiệp đều đăng ký sử dụng lao động trung bình khoảng 755 người.
Dưới đây là bảng tổng hợp đóng góp của các dự án FDI ở KCN trong việc
giải quyết công ăn việc làm cho người dân trong tỉnh:
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảng 1.4: Bảng tổng hợp tình hình sử dụng lao động tại các khu công
nghiệp với các dự án FDI
Đơn vị: Người
KCN/ chỉ tiêu
Số dự án
FDI
Số lao động

Đăng ký Sử dụng
KCN Nguyễn Đức Cảnh 3 5.800 2.026
KCN Phúc Khánh 29 16.258 6.635
KCN Gia Lễ 2 4.000 800
KCN Cầu Nghìn 1 400 0
Tổng 35 26.458 8.661
Nguồn: Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Bình.
Theo số theo thống kê ở trên cho thấy, nhu cầu lao động trong các khu
công nghiệp rất lớn tuy nhiên số lượng lao động đi vào sản xuất lại rất hạn
chể (số lao động sử dụng chỉ bằng 32,73% số lao động đăng ký), một nguyên
nhân dễ nhận thấy nhất là còn nhiều dự án đang triển khai xây dựng hoặc đã
xây dựng nhưng chưa đi vào sản xuất. Điều này thể hiện khả năng tiếp tục thu
hút nhiều lao động trong thời gian tới vào các khu công nghiệp để đảm bảo
cho việc triển khai sản xuất các dự án FDI cũng như các dự án đầu tư trong
nước khác.
Khu công nghiệp với đóng góp to lớn trong việc giải quyết công ăn
việc làm có ý nghĩa quan trọng về cả hai mảng phát triển kinh tế và xã hội.
Phần lớn lao động ở Thái Bình được thu hút vào các KCN được chuyển đổi từ
lao động nông nghiệp sang, mà như đã biết ngành nông nghiệp thường có thu
nhập không cao do phải làm việc theo mùa vụ và phải sử dụng nhiều yếu tố
trung gian. Giờ đây được chuyển sang làm việc trong các xí nghiệp công
nghiệp với quy mô và thời gian làm việc cố định nên thu nhập tương đối cao
và ổn định. Trung bình mỗi lao động trong các KCN có thu nhập từ 1.2 triệu
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đến 1.5 triệu, thời gian bắt đầu làm việc cũng hưởng lương từ 800 nghìn đến 1
triệu đồng, sau một thời gian ngắn khi tay nghề đã ổn định họ sẽ được tăng
lương dần, thời gian và chế độ làm việc đều được tuân theo luật lao động quy
định và của doanh nghiệp FDI đã được điều chỉnh hợp lý. Do vậy đời sống

của người lao động không ngừng được nâng cao, đời sống được cải thiện tạo
điều kiện cho việc phát triển con người và nâng cao chất lượng xã hội.
2.4 Đẩy nhanh việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ và học hỏi
kinh nghiệm quản lý của các nước đầu tư tiên tiến
Các KCN được đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại nhằm thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào hợp tác kinh doanh, ngoài nguồn vốn mà các đối tác nước
ngoài mang vào thì họ còn mang theo cả hệ thống công nghệ và trình độ sản
xuất hiện đại, tiên tiến đi cùng một hệ thống quản lý khoa học, do vậy các
KCN có vai trò rất lớn trong việc đẩy nhanh việc áp dụng tiến bộ công nghệ
vào địa phương nơi mà xây dựng các khu công nghiệp đó. Ngoài ra còn có thể
học hỏi được kinh nghiệm làm việc và quản lý của các nước tiên tiến
Điều này được thể hiện rõ nét trong bảng tổng hợp sau:
Bảng 1.5: Bảng phân loại trình độ công nghệ các doanh nghiệp trong khu
công nghiệp Việt Nam.
Đơn vị: %
Thành phần kinh tế
Trình độ công nghệ so với thế giới
Hiện đại Trung bình Lạc hậu
Doanh nghiệp trong nước 11 35,6 53,4
Doanh nghiệp có vốn đâu tư
nước ngoài
45,4 54,6 0
Nguồn: Vụ KCN, KCX , Bộ Kế Hoạch và Đầu tư năm 2004
Như vậy, đối với doanh nghiệp nước ngoài trong các khu công nghiệp
ở Việt Nam không tồn tại trình độ công nghệ lạc hậu. Trong khi đó đối với
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
doanh nghiệp trong nước thì tỷ lệ công nghệ lạc hậu chiếm quá nửa (53.4%).
Con số này khiến chúng ta phải tự hỏi rằng các DN trong nước đến khi nào

mới đuổi kịp được các doanh nghiệp nước ngoài? Có sự so sánh đó mới xác
định được chúng ta đang đứng ở đâu và còn thiếu những gì? Do vậy cần phải
tăng cường áp dụng tiến bộ công nghệ và học hỏi kinh nghiệm của các nước
tiên tiến.
Các nhà đầu tư nước ngòai vào các Khu công nghiệp tại Thái Bình đều là
các nước có trình độ cao về công nghệ, sản xuất và kinh nghiệm quản lý như Đài
Loan, Hồng Kông, Trung Quốc, Hàn Quốc do đó ta có nhiều khả năng học hỏi
và tiếp thu công nghệ để phát triển sản xuất kinh doanh trong tỉnh.
Khu công nghiệp chính là cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước và
nước ngoài trong việc đẩy nhanh áp dụng tiến bộ Khoa học công nghệ và học
hỏi kinh nghiệm.
III. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THU HÚT FDI VÀO
CÁC KCN NÓI CHUNG.
1. Khung pháp lý.
a. Các doanh nghiệp và các lĩnh vực được phép đầu tư trong KCN
Theo quy định của nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 do Chính phủ ban
hành kèm theo quy chế KCN thì KCN có các loại hình doanh nghiệp sau:
- Doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam.
Các doanh nghiệp muốn thành lập trong KCN phải đáp ứng được các
điều kiện phù hợp với quy hoạch về ngành nghề, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm,
đảm bảo môi trường sinh thái và vệ sinh an toàn lao động.
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
KCN tập trung các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đặc biệt là các
doanh nghiệp nước ngoài và các doanh nghiệp này được phép đầu tư vào các
lĩnh vực sau:

+ Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng.
+ Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và
tiêu thụ ở trong nước; phát triển và kinh doanh bằng phát minh sáng chế, bí
quyết kỹ thuật và quy trình công nghệ.
+ Nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng
sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới.
+ Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp
Trong đó ngành công nghiệp được Nhà nước khuyến khích đầu tư là cơ
khí, luyện kim, công nghệ thông tin, hóa chất, công nghệ hàng tiêu dùng và
một số ngành khác.
g. Quản lý Nhà nước đối với KCN tập trung.
Tham gia quản lý Nhà nước đối với KCN bao gồm Bộ Kế hoạch & Đầu
tư, Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và môi trường,
Bộ công nghiệp và Thương mại và chịu trách nhiệm trực tiếp trong khâu quản
lý là Ban quản lý các KCN tỉnh, thành phố nơi có KCN.
Về cơ bản, quản lý Nhà nước đối với KCN cũng có những nội dung
chủ yếu như quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tuy nhiên xét dưới góc độ quá trình hình thành và phát triển của KCN và
doanh nghiệp có thể chia làm ba giai đoạn:
+ Vận động đầu tư thành lập KCN và doanh nghiệp trong đó.
+ Thẩm định và cấp giấy phép đầu tư.
+ Quản lý hoạt động của KCN sau khi đã thành lập.
KCN tập trung phải được quản lý theo cơ chế “một cửa”. Quản lý theo
cơ chế “một cửa” là tạo ra một cơ quan quản lý Nhà nước có thể đứng ra giải
quyết, hoặc phối hợp với các cơ quan khác giải quyết mọi công việc liên quan
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu công
nghiệp. Mục đích của cơ chế này là giúp các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu

tư vào KCN có một con đường đi thông thoáng nhất, tránh thủ tục rườm rà và
quan liêu…Thời gian giải quyết các thủ tục hành chính là rất quan trọng. Để
doanh nghiệp nhanh chóng tiến hành sản xuất kinh doanh thì thời gian phê
duyệt, quyết định cấp giấy phép đầu tư, cũng như thời gian thẩm định thiết kế
kỹ thuật, thẩm định môi trường cho các dự án trong các KCN phải nhanh
chóng. Cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian phê duyệt sẽ là một
yếu tố giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu được chi phí giao dịch trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
Ban quản lý các KCN là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp các
hoạt động sản xuất kinh doanh trong các KCN, và Ban được ủy quyền cấp
giấy phép đầu tư cho các loại dự án:
+ Phù hợp với quy hoạch của KCN
+ Doanh nghiệp chế xuất có quy mô vốn đến 40 triệu USD.
+ Các dự án sản xuất có quy mô vốn đến 10 triệu USD.
+ Các dự án dịch vụ công nghiệp có quy mô vốn đến 5 triệu USD.
+ Các dự án không thuộc danh mục các dự án có khả năng gây ảnh
hưởng đến môi trường.
2. Đất đai và cơ sở hạ tầng
a. Đất đai:
Về giá thuê đất: Để tiến hành sản xuất kinh doanh trong KCN, các nhà
đầu tư phải thuê lại đất từ các công ty phát triển hạ tầng KCN. Như vậy giá thuê
đất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư đặc biệt là các
nhà đầu tư nước ngoài. Do đó các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét hỗ
trợ các doanh nghiệp thuê đất trong KCN để đảm bảo giá thuê đất hợp lý thì
cũng là một cách tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó phải
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
gắn liền với việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhanh chóng và linh
hoạt, giúp cho việc đầu tư và giải ngân vốn đầu tư gặp nhiều thuận lợi.

Về quy hoạch:
Quy hoạch là vấn đề nổi cộm ở nhiều địa phương trong cả nước. Quy
hoạch phải bao quát tổng thể về ngành nghề, về vị trí xây dựng sao cho phù
hợp. Tránh quy hoạch rồi lại điều chỉnh sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp
muốn đầu tư vào đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng trong
việc tạo mặt bằng sản xuất. Do đó quá trình quy hoạch nếu được công khai,
dân chủ, nhất quán và khoa học thì thuận lợi cho quá trình giải phóng mặt
bằng, thu hút và giải ngân vốn đầu tư đúng tiến độ.
b. Về cơ sơ hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng trong KCN bao gồm cơ sở hạ tầng trong hàng rào và
ngoài hàng rào.
Cơ sở hạ tầng trong hàng rào KCN bao gồm: hệ thống cấp thoát nước, hệ
thống điện, hệ thống xử lý chất thải, hệ thống thông tin … tất cả các yếu tố này
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp KCN.
Cơ sở hạ tầng ngoài KCN bao gồm: các vấn đề liên quan đến quá trình vận
chuyển, tiêu thụ, cung cấp nguyên vật liệu … cho các doanh nghiệp trong KCN.
Vấn đề đặt ra là cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào phải đồng bộ với
nhau, điều đó thúc đẩy tiến độ triển khai KCN và tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp cả sản xuất và tiêu thụ. Chất lượng cơ sở hạ tầng cũng là một
yếu tố quan trọng đối với quyết định của nhà đầu tư. Nó được thể hiện ở chỗ:
các công trình trong và ngoài hàng rào có hiện đại, đồng bộ, thuận tiện và có
ổn định không? Ví dụ như trong vìệc cung cấp điện, nước nếu thất thường
cũng sẽ là một nhân tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp trong KCN đặc biệt là doanh nghiệp kỹ thuật cao vì thế nó ảnh
hưởng không nhỏ đến việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN.
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3. Dịch vụ trong các KCN
Một trong những yếu tố quan trọng để tăng tính hấp dẫn của môi

trường đầu tư trong các KCN là điều kiện cung cấp dịch vụ ở KCN. Hầu hết
vị trí của các KCN thường ở vùng ngoại thành, vì vậy muốn thu hút lao động
đặc biệt là các lao động tay nghề cao ở nội thành thì các loại dịch vụ phục vụ
đời sống phải đa dạng và giá cả dịch vụ hợp lý như dịch vụ nhà ở, bệnh viện,
chợ, siêu thị, ngân hàng…
Bên cạnh chi phí quản lý KCN, doanh nghiệp trong KCN còn phải chịu
cước dịch vụ (điện, nước, viễn thông, phí vận chuyển,…), do đó giá cả các
loại dịch vụ này tuy không ảnh hưởng quá nhiều đến việc ra quyết định của
nhà đầu tư nước ngoài nhưng cũng góp phần làm tăng chi phí sản xuất cho
doanh nghiệp, tăng giá thành sản phẩm dẫn đến giảm tính cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Về việc tuyển dụng lao động đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp
FDI trong KCN: lao động là một trong những yếu tố đầu vào của sản xuất,
như vậy chất lượng lao động và giá cả lao động cũng sẽ quyết định hiệu quả
sản xuất của doanh nghiệp nhất là đối với doanh nghiệp công nghệ cao. Lao
động ở Thái Bình tuy dồi dào nhưng phần lớn là lao động tay nghề thấp và
chưa được qua đào tạo cả về chuyên môn, kỹ năng và tính kỷ luật. Do vậy,
khả năng đáp ứng nhu cầu về lao động có tay nghề cao ở một số lĩnh vực, đặc
biệt là ngành công nghệ cao ở đây còn hạn chế. Hầu hết các doanh nghiệp
trong KCN đều tự đào tạo lao động cho phù hợp với yêu cầu sản xuất của
mình. Quá trình đào tạo và đào tạo lại lao động thường tốn nhiều thời gian và
chi phí do đó sẽ làm chậm quá trình đi vào sản xuất của các dự án. Nếu trong
các KCN có dịch vụ cung cấp lao động thỏa mãn nhu cầu của doanh nghiệp
thì sẽ thu hút thêm nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào KCN với đa dạng
ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh.
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Dịch vụ cung cấp thông tin cho các Doanh nghiệp FDI:
Trong thời đại bùng nổ của thông tin như hiện nay thì việc sở hữu và

quản lý được nguồn thông tin chính là bí quyết thành công của doanh nghiệp
bởi nó giúp Doanh nghiệp củng cố vị thế, quảng bá hình ảnh và nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình, điều này còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trên lãnh thổ nước khác.
Hệ thống thông tin trong doanh nghiệp sẽ hỗ trợ tích cực cho việc
quản lý hành chính, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với khách hàng ở mọi
lúc mọi nơi. Điều quan trọng nhất hệ thống thông tin chính là cầu nối giữa
doanh nghiệp và các lãnh đạo trong quá trình quản lý, ra quyết định và các
chính sách mới.
Hệ thống thông tin hiện đại nhất hiện nay là thông qua internet, có thể
nói đây là một dịch vụ không thể thiếu, do vậy tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng
để lắp đặt hệ thống internet rộng khắp cho các doanh nghiệp trong khu công
nghiệp chính là một ưu đãi lớn của Ban quản lý đối với các doanh nghiệp.
Trên đây là những lý luận chung nhất về khu công nghiệp và nguồn vốn
FDI, qua đó ta thấy được mối quan hệ giữa chúng, KCN là bộ phận quan
trọng nhất để thu hút FDI cho toàn tỉnh, còn FDI là nguồn vốn quan trọng
giúp các KCN phát triển. Trên cơ sở những lý luận đó, ta có thể đưa ra những
đánh giá về thực trạng thu hút FDI vào các KCN ở tỉnh Thái Bình trong thời
gian qua.
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TRONG CÁC
KCN Ở THÁI BÌNH GIAI ĐOẠN 2002-2008
I. TỔNG QUAN VỀ CÁC KCN SỬ DỤNG NGUỒN VỐN FDI Ở TỈNH
THÁI BÌNH
1. Tiềm năng để phát triển các KCN ở Thái Bình
1.1 Điều kiện tự nhiên
Thái Bình là một tỉnh ven biển, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng,
năm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế: Hà Nội,

Hải Phòng, Quảng Ninh. Đây là một yếu tố thuận lợi để phát triển mạnh
ngành công nghiệp của tỉnh trên cơ sở học hỏi, giao lưu và hưởng tác động
lan tỏa của các khu vực lân cận.
Vị trí địa lý: 20.17 – 20.44 độ vĩ bắc; 106.06 – 106.39 độ kinh đông,
phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hải Phòng. Phía tây
nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam; phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ. Do vậy
Thái Bình có khả năng lưu thông cả đường bộ và đường thủy,
Thái Bình là một trong hai tỉnh trong cả nước (cùng với Hưng Yên) có
địa hình tương đối bằng phẳng không có núi với độ dốc nhỏ hơn 1 %, rất
thuận lợi cho việc giao thông đi lại, vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ nên
có tiềm năng phát triển các cơ sở sản xuất như chế biến thực phẩm, may mặc,
thức ăn chăn nuôi, và kinh doanh các ngành dịch vụ.
Do là một tỉnh đồng bằng tuyệt đối nên Thái Bình không có các tiềm
năng về khoáng sản như than đá, quặng sắt, tuy nhiên lại có mỏ khí đốt Tiền
Hải (C) đã được khai thác và sử dụng từ năm 1986 với sản lượng khai thác
bình quân mỗi năm hàng chục triệu m
3
khí thiên nhiên phục vụ cho sản xuất
đồ sứ, thủy tinh, gạch ốp lát, xi măng trắng thuộc khu công nghiệp Tiền Hải.
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tổng diện tích đất toàn tỉnh hiện nay là 153.596 ha trong đó có 96.391
ha là đất nông nghiệp (chiếm hơn 62% tổng diện tích đất tự nhiên). Tỷ lệ này
tương đối lớn đang cần đầu tư để chuyển phần có năng suất thấp, giá trị thu
nhập không cao thành đất công nghiệp, do nông nghiệp đang được phát triển
theo chiều sâu. Trên cơ sở đó có thể mở rộng thêm các khu công nghiệp hoặc
xây dựng thêm khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh phục vụ cho các dự án đầu
tư kinh doanh có quy mô lớn.
1.2 Điều kiện về kinh tế xã hội

Tình hình xã hội - kinh tế - chính trị của Thái Bình có thể nói là ở mức
ổn định. Tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 8 -10%, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng hiện đại hóa, phù hợp với xu hướng chung của cả
nước (như đã phân tích ở chương I), đời sống nhân dân ngày càng được cải
thiện do đó môi trường sống không ngừng được cải thiện và lành mạnh hơn.
Dưới góc độ chính trị, tỉnh cũng không có điểm gì nổi bật do người dân đều ý
thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình mọi nguyên tắc, luật pháp về cơ
bản đều được chấp hành nghiêm chỉnh. Với những yếu tố đó cũng tạo nên
hình ảnh một Thái Bình tốt đẹp trong mắt các nhà đầu tư trong và ngoài nước
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng với dân số tương đối đông nếu không
muốn nói là “đất chật người đông”,(với dân số 1868,5 nghìn người, mật độ
dân số 1183 người/1km
2
) đây chính là tiền đề để xác định tiềm năng về cung
lao động của tỉnh. Thái Bình có nguồn lao động dồi dào, do đó chi phí nhân
công cũng tương đối rẻ là một điểm mạnh để thu hút các nhà đầu tư vào sản
xuất vì họ có thể tiết kiệm được nhiều chi phí sản xuất từ việc thuê lao động
tại địa phương. Dân số đông không những là tiềm năng về cung lao động mà
còn mang lại tiềm năng về thị trường tiêu thụ cho các doanh nghiệp trong tỉnh
do vậy có thể gây sự quan tâm chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài có ý định
đầu tư vào lĩnh vực tiêu thụ trong nước.
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Là một tỉnh đứng đầu trong cả nước về sản xuất nông nghiệp và chế
biến nông sản nên mức giá cả tiêu dùng tại Thái Bình rẻ tương đối so với các
tỉnh lân cận. Các nhà đầu tư có thể nắm lấy đặc điểm này để sản xuất kinh
doanh trên địa bàn tỉnh nhằm giảm được chi phí sản xuất. Gía cả và dịch vụ
tiêu dùng rẻ làm cho chi phí lao động cũng rẻ hơn so với các vùng khác do đó
có thể tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.

1.3 Chất lượng nguồn lao động
Hiện nay tổng dân số của Thái Bình là 1863,5 nghìn người, tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên 1,02%, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 1.730 nghìn
người, tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 23,5% - thống kê của sở lao động và
thương binh xã hội tỉnh Thái Bình năm 2007. Dựa vào các số liệu đó có thể
đánh giá được Thái Bình có nguồn lao động trẻ và dồi dào tuy nhiên phần lớn
lao động trước làm việc trong khu vực nông nghiệp, đang chuyển đổi dần sang
hoạt động ở lĩnh vực công nghiệp. Tuy chưa có tay nghề chuyên môn và chưa
qua đào tạo nhưng lực lượng này vẫn là một điểm nhấn quan trọng. Do trong
một số ngành công nghiệp như dệt may, chế biến thực phẩm và thức ăn chăn
nuôi thì lại không đòi hỏi tay nghề nhiều rất phù hợp với lao động nữ có sức
khỏe và tính cần cù chăm chỉ. Hơn nữa các Doanh nghiệp FDI trong KCN hoạt
động ở lĩnh vực này thường sản xuất dưới dạng dây chuyền chuyên môn hóa
cao độ nên họ chủ yếu tuyển lao động phổ thông chưa qua đào tạo.
Đối với các ngành yêu cầu, đòi hỏi lao động được đào tạo đúng chuyên
môn thì hiện tại Thái Bình chưa đáp ứng đủ tuy nhiên trong tỉnh đã có những
chính sách hỗ trợ việc đào tạo lao động cho sản xuất công nghiệp như liên kết
với các trường dạy nghề, trường trung học đào tạo nghề tại tỉnh. Việc đào tạo
nghề không đòi hỏi quá nhiều thời gian (chỉ từ 1 – 2 năm) do đó trong thời
gian tới có thể nói Thái Bình sẽ đào tạo được những lực lượng lao động trẻ có
tay nghề và sẵn sàng làm việc trong các KCN. Năm 2004 tỉnh ủy Thái Bình
Phạm Thị Ngát Kế hoạch 47B
25

×