Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

KINH NGHIỆM DẠY HỌC - HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.48 KB, 12 trang )

A/ MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mục tiêu chính của đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là nhằm góp
phần thực hiện mục tiêu đổi mới nền giáo dục nước nhà. Theo Luật Giáo dục
Việt Nam: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học
tập cho học sinh”.
Muốn đổi mới giáo dục thì phải tích cực đổi mới cách dạy và cách học,
thay đổi nhận thức về chất lượng dạy và học. Như vậy, đổi mới PPDH phải
chống thói quen áp đặt, “rót kiến thức” và tạo ra cơ hội cho học sinh tiếp cận
và phát hiện kiến thức, biết giải quyết các vấn đề một cách linh hoạt và sáng
tạo.
Ngày nay, việc đổi mới trong các bài giảng lý thuyết đã được áp dụng
một cách rộng rãi và có hiệu quả. Tuy nhiên, đổi mới trong phương pháp bồi
dưỡng kỹ năng hoạt động theo nhóm, kỹ năng tự mình phân tích, nghiên cứu
vấn đề khoa học cho học sinh vẫn còn nhiều hạn chế; giáo viên vẫn còn
chưa phát huy hết tiềm lực về tư duy, tính sáng tạo và trí thông minh của học
sinh.
Trong 03 năm Sở GD&ĐT Quảng Trị triển khai cuộc thi “Nghiên cứu
khoa học kỹ thuật” cho học sinh khối THPT - VISEF, tôi nhận thấy học sinh
vẫn còn nhiều lúng túng khi tiến hành bắt đầu nghiên cứu một đề tài.
Với lý do trên, tôi đã nghiên cứu, tham khảo tư liệu và áp dụng đề tài
“Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh làm nghiên cứu khoa học” nhằm giúp cho
các em khắc phục những sai lầm; biết cách tiến hành làm nghiên cứu khoa
học một cách tự tin và hiệu quả.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
• Cung cấp một số kinh nghiệm của bản thân nhằm hướng dẫn học sinh tự
tiến hành nghiên cứu khoa học.
• Cung cấp một số kinh nghiệm của bản thân trong việc hướng dẫn học sinh


nghiên cứu khoa học.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
• Các bước tiến hành nghiên cứu khoa học.
• Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh làm nghiên cứu khoa học.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài, tôi sử dụng phương pháp chủ yếu là tổng kết kinh
nghiệm, được thực hiện theo các bước:
- Xuất phát từ những khó khăn vướng mắc trong công tác hướng dẫn học
sinh nghiên cứu khoa học.
- Trong quá trình vận dụng đề tài, tôi đã áp dụng nhiều biện pháp, như: trao
đổi với đồng nghiệp, trò chuyện cùng học sinh; kiểm tra, đánh giá, so sánh
kết quả.
Ngoài ra, tôi còn dùng một số phương pháp hỗ trợ khác như phương
pháp nghiên cứu tài liệu, điều tra nghiên cứu…
V. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
Đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu trong phạm vi của môn Hóa học và đối
với học sinh của trường THPT Tân Lâm.
B/ NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Nghiên cứu là quá trình mà con người khám phá hoặc tạo ra tri thức
mới về thế giới mà chúng ta đang sống. Cuộc thi VISEF là những cuộc thi
hướng nghiên cứu (dữ liệu). Học sinh thiết kế các dự án nghiên cứu nhằm
cung cấp các dữ liệu mang tính định lượng thông qua các thí nghiệm, phân
tích và ứng dụng các dữ liệu đó. Các dự án mang tính chứng minh, sưu khảo
“thư viện” hay thông tin, các mô hình “giải thích” hoặc các mô hình xây dựng
công cụ không phù hợp với những hội thi khoa học dựa trên nghiên cứu thực
nghiệm.
Hội thi khoa học và kỹ thuật của Intel (ISEF) là hội thi khoa học dành
cho học sinh phổ thông có quy mô lớn nhất thế giới, tạo điều kiện cho các
nhà khoa học và sáng chế trẻ đến với nhau để trao đổi ý kiến, trình bày

những dự án khoa học tiên tiến.
Việc tham gia vào một đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH) đối với học
sinh khi còn ở trường là một việc rất bổ ích và ngày càng được nhiều học
sinh hưởng ứng. Để thực hiện một NCKH đòi hỏi học sinh phải vận dụng
những kiến thức học được và chính học sinh sẽ thực hành chúng trong thực
tế. NCKH rất phù hợp với nhu cầu học và phải ứng dụng được thực tế của xã
hội ngày nay.
Một NCKH có thể được gọi là một dự án đầu tư nhỏ. Mỗi một “dự án”
kết thúc đều giúp cho những người chủ của nó thu về cho mình được rất
nhiều kinh nghiệm.
II. THỰC TRẠNG
1) Thực trạng về điều kiện học tập
a) Thuận lợi:
Là giáo viên trong nhà trường đã được đào tạo chính quy, có nhiều
năm kinh nghiệm, được giảng dạy đúng chuyên môn của mình, được bồi
dưỡng chuyên môn thường xuyên.
Nhà trường luôn tạo điều kiện mọi mặt cho các giáo viên trau dồi kiến
thức, học hỏi phương pháp nhằm nâng cao tay nghề.
Tài liệu tham khảo trong nhà trường được quan tâm nhiều hơn, mỗi
năm đều mua bổ sung thêm, Đồ dùng dạy học tương đối đầy đủ, từ đó làm
cho bộ môn hóa không còn trừu tượng đối với học sinh. Hơn thế nữa giáo
viên tự tìm tòi, nghiên cứu làm ra một số đồ dùng dạy học thiết thực làm cho
tiết học sinh động hơn.
Đa số học sinh nhận thức được môn Hóa học rất quan trọng và có tính
thực tế cao, nhiều em có biểu hiện hứng thú học tập bộ môn, chuẩn bị bài
không những rất tốt mà còn rất sôi nổi trong tiết học, một số học sinh còn tỏ
ra yêu thích môn học hơn.
b) Khó khăn:
Đầu vào về trình độ học sinh của trường tương đối thấp. Một số học
sinh ỷ lại, lười suy nghĩ, trong giờ học thường lơ là, không tập trung, không

học bài và làm bài trước khi đến lớp… làm kiến thức bị thiếu hụt, mất dần.
Lâu dần tỏ ra sợ học, chán học từ đó bị hổng về kiến thức.
Hầu hết các em đều cho rằng nghiên cứu khoa học đối với học sinh
khối THPT là khó quá, thường tỏ ra rất ngại khi tham gia.
Là học sinh vùng nông thôn còn nhiều khó khăn, vì vậy điều kiện học
tập của các em còn rất hạn chế.
Còn có một số giáo viên ngại, không hứng thú hoặc với việc hướng dẫn
học sinh nghiên cứu khoa học. Nhiều giáo viên chưa nắm rõ các vấn đề quan
trọng trong việc hướng dẫn học sinh tiến hành nghiên cứu khoa học.
2) Chuẩn bị thực hiện đề tài:
Để áp dụng đề tài, tôi thực hiện một số khâu quan trọng như sau:
• Điều tra trình độ, tình cảm thái độ của học sinh về việc nghiên cứu khoa
học.
• Tham khảo tài liệu, trao đổi với đồng nghiệp, các văn bản hướng dẫn để
viết thành tài liệu riêng để truyền đạt cho học sinh.
III. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA BẢN THÂN TRONG QUÁ TRÌNH HƯỚNG
DẪN HỌC SINH LÀM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
a) Thành lập nhóm nghiên cứu:
Người giáo viên nên tham khảo ý kiến của học sinh, GVBM, GVCN về
niềm đam mê môn học, nghiên cứu khoa học của từng học sinh.
Học sinh cần xác định niềm đam mê môn học, khả năng của bản thân
khi làm nghiên cứu khoa học để đăng ký tham gia.
Tập hợp học sinh thành nhóm
b) Xác định và lựa chọn chủ đề :
Đây có lẽ là bước khó khăn nhất. Lựa chọn một chủ đề muốn nghiên cứu
hoặc tìm hiểu. Ý tưởng phải xuất phát từ lĩnh vực mà bạn quan tâm. Một sở
thích của bạn có thể dẫn đến một chủ đề tốt. Có những gì đang xảy ra trong
cuộc sống mà bạn muốn hiểu biết thêm? Quan trọng nhất là lựa chọn một
vấn đề hoặc chủ đề không quá rộng và có thể được giải đáp dựa trên việc

nghiên cứu khoa học.
Giáo viên cần gợi ý, hướng dẫn học sinh qua quá trình trao đổi, thảo
luận để tìm đề tài nghiên cứu phù hợp với khả năng và điều kiện thực tế.
Phải trả lời được các câu hỏi:
* Xác định được vấn đề sẽ nghiên cứu là gì?
• Không nên tiến hành đề tài khi chưa xác định rõ chủ đề có thể sẽ phải đeo
đuổi trong ròng rã hàng tháng trời. Vấn đề không rõ ràng thì sẽ dẫn đến
kết quả chẳng sáng sủa hơn.
• Xác định được vấn đề cần nghiên cứu sẽ giúp bạn tìm ra được tên đề tài
thích hợp.
• Tên đề tài nên ngắn gọn, súc tích và gắn liền với vấn đề đã chọn. lời
khuyên nào khi chọn lựa đề tài?
• Nghiên cứu một vấn đề phổ biến là thế mạnh của bạn. Đây là cách chọn
đề tài theo kiểu an toàn. Tuy nhiên, nghiên cứu theo cách này bạn sẽ
không học hỏi được nhiều.
• Nghiên cứu một vấn đề mới mẻ và có thể mang lại tác động rộng rãi. Tính
mới như thế nào? cũng cần được chỉ rõ. Chắc chắn bạn sẽ nhận được sự
chú ý với dạng đề tài này. Việc nghiên cứu một đề tài mới buộc bạn phải
tìm hiểu và bỏ công sức.
* Xác định được mục tiêu đề tài NCKH đạt được là gì?
• Yếu tố quan trọng tiếp theo là mục tiêu của đề tài, mục tiêu càng cụ thể
càng tốt.
• Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp xác định được thời gian cần phân bổ và những gì
cần chuẩn bị (đối tượng cần tiếp cận; thông tin cần thu thập và phương
pháp xử lí thông tin; cách tiếp cận thực tế; giải pháp cho những mục tiêu
đó; phân công nhiệm vụ cho các từng thành viên trong nhóm,…)
• Mục tiêu của đề tài không nên nhiều quá 3 và tốt nhất bạn không nêu ra
mục tiêu nào không chắc, nếu không muốn cả hội đồng đặt câu hỏi “tại
sao” về nó.
* Chỉ rõ được những lợi ích mà đề tài NCKH sẽ mang lại là gì?

• Bên cạnh mục tiêu vốn sẽ chỉ ra được dường hướng đề tài NCKH sẽ
hướng đến, đề tài cũng cần chỉ rõ những lợi ích, tác động có thể có được
nơi đề tài.
• Vấn đề nào của đề tài sẽ góp phần giúp giải quyết các vấn đề trong thực
tiễn xã hội?
• Những cá nhân, đối tượng xã hội nào sẽ được hưởng lợi nếu đề tài được
ứng dụng?
c) Lập đề cương, dự trù kinh phí, các hồ sơ ban đầu để xin ý kiến của Nhà
trường, phụ huynh:
Học sinh cần trao đổi, thảo luận với người giáo viên hướng dẫn để lập
ra được đề cương, hồ sơ có liên quan và dự trù kinh phí nghiên cứu đề tài
nhằm trình lên BGH Nhà trường phê duyệt, xin ý kiến của phụ huynh để
được tham gia.
d) Lập kế hoạch nghiên cứu đề tài:
Lựa chọn một chủ đề không chỉ vì mối quan tâm, mà còn vì có thể hoàn
thành với lượng thời gian có thể. Xác định vấn đề “có thể kiểm nghiệm”.
Lập một trình tự thời gian để có thể quản lý thời gian một cách hiệu
quả. Dành nhiều thời gian để thử nghiệm và thu thập dữ liệu. Cũng cần sắp
xếp thời gian để viết báo cáo và chuẩn bị sắp đặt gian trưng bày.
* Lập kế hoạch thực nghiệm: Một khi đã có một ý tưởng nghiên cứu
khả thi, hãy lập một kế hoạch nghiên cứu. Kế hoạch này cần phải giải thích
nêu được sẽ thực hiện thí nghiệm như thế nào và cần có chính xác những gì.
Lưu ý: phải thiết kế thí nghiệm theo dạng thí nghiệm “có kiểm soát”.
Điều này có nghĩa là mỗi lúc chỉ có thể thay đổi một thông số trong thí
nghiệm. Kết quả sau đó được so sánh với những dữ liệu “tiêu chuẩn” thu
thập từ đầu, trước khi thay đổi thông số đó.
Cũng cần đảm bảo rằng có đủ số lượng trong cả các nhóm kiểm soát và
các nhóm thí nghiệm để có hiệu lực thống kê. Trong thiết kế thí nghiệm cũng
nên có một danh sách các vật liệu. Khi đã hoàn tất bước thiết kế thí nghiệm
(gọi là“qui trình”) thì phải điền vào các biểu mẫu thích hợp.

Người giáo viên cần hướng dẫn học sinh lập kế hoạch nghiên cứu đề tài
một cách cụ thể nhất: Theo tháng, theo tuần, theo ngày,…
e) Tìm hiểu những kiến thức có liên quan về chủ đề:
Hãy đến thư viện hoặc mạng Internet để tìm hiểu về chủ đề của nhóm.
Luôn luôn hỏi Tại sao? hoặc Điều gì sẽ xảy ra nếu? … Hãy tìm những kết
quả chưa được giải thích hoặc bất ngờ.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chia lĩnh vực, công việc để phân công
cụ thể cá nhân phụ trách.
Có nhiều vấn đề người học sinh cần tham khảo, trao đổi với giáo viên
hướng dẫn, giáo viên bộ môn.
f) Tổ chức:
Sắp xếp tổ chức tất cả những gì tìm hiểu được về chủ đề. Đến thời điểm
này, nên giới hạn phạm vi nghiên cứu và tập trung vào một ý tưởng cụ thể.
g) Tiến hành nghiên cứu đề tài:
* Trong quá trình tiến hành nghiên cứu đề tài:
• Người giáo viên hướng dẫn cần phải theo dõi kịp thời, hướng dẫn và bổ
sung những vấn đề mà học sinh còn tiến hành chưa chính xác.
• Cần tập trung nhóm đề thảo luận các vấn đề nảy sinh trong quá trình
nghiên cứu.
• Đánh giá các kết quả của đề tài theo từng giai đoạn cụ thể để chỉnh sữa,
bổ sung những vấn đề theo định hướng ban đầu.
* Trong đó, cần chú ý:
• Thực hiện thí nghiệm: Trong quá trình thí nghiệm, ghi chép chi tiết tất cả
những thí nghiệm, số liệu đo đạc và hiện tượng quan sát vào một cuốn sổ
ghi. Đừng dựa vào trí nhớ. Sử dụng các bảng dữ liệu hoặc biểu đồ để ghi
lại các dữ liệu định lượng.
• Phân tích kết quả: Khi đã hoàn tất các thí nghiệm, hãy kiểm tra và
sắp xếp các kết quả. Sử dụng các biểu đồ thích hợp để tạo các hình ảnh về
dữ liệu. Xác định các mẫu hình từ những biểu đồ đó. Điều này sẽ giúp trả lời
cho câu hỏi có thể kiểm chứng. Thí nghiệm có đem lại kết quả mong đợi

không? Tại sao có hoặc tại sao không? Thí nghiệm có được tiến hành với
cùng những bước hoàn toàn giống nhau không? Có những cách giải thích
khác chưa nghĩ đến hay quan sát thấy không? Có những sai sót thực
nghiệm nào trong quá trình thu thập dữ liệu, tiến hành thí nghiệm hay quan
sát không? Nhớ rằng việc hiểu ra những sai sót là một kỹ năng cơ bản mà
nhà khoa học phải phát triển. Thêm vào đó, việc báo cáo rằng có một thông
số không rõ ràng nhưng không làm thay đổi kết quả nghiên cứu có thể là
một thông tin giá trị. Điều đó cũng mang ý nghĩa một “khám phá” như việc
tìm ra một sự thay đổi nào đó do thông số gây ra. Ngoài ra, hãy phân tích dữ
liệu qua thống kê có thể hiểu và giải thích ý nghĩa của nó.
• Đưa ra kết luận: Những thông số được thử nghiệm có tạo ra sự thay
đổi so với tiêu chuẩn ban đầu sử dụng không? Có thể thấy được mẫu hình
nào giữa các thông số qua việc phân tích biểu đồ? Những thông số nào là
quan trọng? Đã thu thập đủ dữ liệu chưa? Có cần phải tiến hành thử nghiệm
thêm nữa hay không? Giữ một cách nhìn cởi mở - đừng bao giờ thay đổi kết
quả cho phù hợp với một lý thuyết. Nếu kết quả không hỗ trợ giả thuyết,
điều đó là bình thường và trong nhiều trường hợp là một điều tốt! Cố gắng
giải thích tại sao thu được kết quả khác so với những tài liệu tham khảo đã
tiên liệu. Có những sai sót đã gây ra sự khác biệt này hay không? Nếu có,
hãy tìm ra chúng. Cho dù kết quả khác biệt, nghiên cứu khoa học này cũng
đã thực hiện thành công vì đã đề ra một vấn đề và cố gắng tìm câu trả lời
thông qua kiểm tra thực nghiệm định lượng. Đây là cách lĩnh hội tri thức
trong thế giới khoa học. Hãy nghĩ đến các ứng dụng thực tế có thể có từ
nghiên cứu này. Công trình này có thể được sử dụng vào thực tế như thế
nào? Cuối cùng, hãy giải thích sẽ cải tiến thí nghiệm này như thế nào và
cách này sẽ thay đổi như thế nào.
h) Kết thúc đề tài, hoàn thành hồ sơ, báo cáo:
Khi hoàn thành giai đoạn thực nghiệm, nghiên cứu, thu thập thông tin, số
liệu của đề tài, toàn bộ nhóm nghiên cứu cần tập trung để trao đổi, thảo luận
những vấn đề còn thắc mắc; đồng thời phân công mỗi người trong nhóm

hoàn thành công việc làm báo cáo đề tài:
• Phân tích, xử lý số liệu thực nghiệm.
• Làm báo cáo đề tài.
• Làm bài thuyết trình về đề tài.
• Hoàn thành các hồ sơ còn lại.
• Thiết kế ý tưởng của gian trưng bày.
• Báo cáo đề tài trước hội đồng khoa học
* Cần chú ý một số vấn đề trong trước và trong khi thuyết trình
• Bài thuyết trình cần ngắn gọn, súc tích, đầy đủ, dễ hiểu.
• Trình chiếu với cỡ chữ vừa đủ, màu sắc hài hòa; hiệu ứng phù hợp,…
• Người thuyết trình cần phải tự tin, giọng và ngữ điệu rõ ràng.
• Cần phải chia một số phần trả lời bổ sung cho các thành viên khác làm
nhiệm vụ trả lời.
• Chuẩn bị chu đáo: Không chuẩn bị là chuẩn bị cho sự thất bại. Để có một
bài thuyết trình bảo vệ thành công, phải chuẩn bị rất kỹ lưỡng từ nội dung,
những tình huống có thể phát sinh trong quá trình thuyết trình.
• Hãy chuẩn bị trước phương án trả lời các câu hỏi mà các thành viên Hội
đồng giám khảo có thể đưa ra cho bài thuyết trình. Hãy hỏi trực tiếp giáo
viên hướng dẫn để biết dạng câu hỏi. Bên cạnh đó, hãy soạn trước cho
mình một bản slide, bản tóm tắt và các tài liệu liên quan có thể dùng trong
khi bảo vệ.
• Luyện tập trước khi diễn: Càng tập luyện kỹ bao nhiêu, càng có cơ hội
thành công bấy nhiêu trong quá trình thuyết trình.
• Bình tĩnh trả lời các câu hỏi. Với những câu hỏi quá khó mà không có
phương án trả lời, hãy thành thật.
2. Các yếu tố tạo nên một công trình thành công
a) Sổ ghi dữ liệu công trình:
Cuốn sổ ghi dữ liệu công trình là công việc có giá trị nhất. Những ghi
chép chính xác và chi tiết đem đến một công trình lôgic và thành công. Việc
ghi chép tốt sẽ thể hiện cho giám khảo thấy sự nhất quán và chu đáo và sẽ

giúp hoàn thiện hơn việc viết báo cáo nghiên cứu.
Các bảng dữ liệu cũng rất hữu ích. Chúng có thể trông hơi “rối” nhưng
hãy đảm bảo tính chính xác của các dữ liệu định lượng được ghi nhận và
các bảng dữ liệu đều có kèm đơn vị đo lường. Lưu ý ghi ngày tháng mỗi khi
nhập dữ liệu.
b) Báo cáo Nghiên cứu:
Báo cáo nghiên cứu phải được chuẩn bị cùng với sổ ghi dữ liệu công
trình và bất cứ biểu mẫu hay giấy tờ cần thiết khác. Báo cáo nghiên cứu sẽ
giúp sắp xếp dữ liệu và những ý tưởng. Một báo cáo thường có những mục
sau:
* Trang bìa và Mục lục: Trang bìa và mục lục giúp người đọc có thể theo sát
cấu trúc của báo cáo một cách nhanh chóng.
* Phần giới thiệu: Phần giới thiệu tạo bối cảnh cho báo cáo. Phần giới thiệu
bao gồm mục đích, giả thiết, vấn đề hoặc mục tiêu nghiên cứu, giải thích lý
do nảy sinh ý tưởng nghiên cứu và những điều kỳ vọng đạt được.
* Vật liệu và phương pháp: Miêu tả chi tiết phương pháp sử dụng để thu
thập dữ liệu, quan sát và chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm,… Báo cáo phải đủ
chi tiết để người khác cũng có thể lặp lại thí nghiệm từ những thông tin trong
báo cáo. Kèm theo ảnh chi tiết hoặc bản vẽ của những dụng cụ tự chế. Chỉ
bao gồm công trình của năm nay.
* Kết quả: Kết quả bao gồm dữ liệu và phân tích. Kết quả phải kèm theo số
liệu thống kê, biểu đồ, dữ liệu thô thu thập,…
* Thảo luận: Đây là trọng tâm của báo cáo. So sánh kết quả với những giá
trị lý thuyết, những dữ liệu đã công bố, những kết quả kỳ vọng. Thêm vào
phần thảo luận những sai sót có thể có. Dữ liệu thay đổi thế nào giữa những
lần lặp lại thí nghiệm về cùng một hiện tượng? Kết quả đã bị ảnh hưởng
như thế nào bởi những yếu tố không được kiểm soát? Sẽ làm gì khác đi nếu
thí nghiệm được lặp lại? Những thí nghiệm nào khác cần được tiến hành?
* Kết luận: Tóm tắt ngắn gọn các kết quả. Phát biểu kết quả tìm được dựa
trên quan hệ giữa các thông số. Hỗ trợ báo cáo với những dữ liệu thực

nghiệm (thí dụ: một giá trị trung bình so với một giá trị trung bình khác). Cần
phải cụ thể, không thể nói chung chung. Không bao giờ đưa vào phần kết
luận một điều gì chưa đề cập đến ở phần thảo luận. Cũng nên nhắc đến
những ứng dụng thực tế.
* Lời cám ơn: Luôn luôn nên bày tỏ sự biết ơn đối với những người đã hỗ
trợ. Tuy nhiên, những lời cảm ơn đưa lên bảng trưng bày là một sự vi phạm
các qui định Trưng bày & An toàn cần phải tránh.
c) Phần tóm tắt:
Sau khi đã hoàn tất nghiên cứu và thí nghiệm, cần phải viết một bản
tóm lược. Bản tóm lược dài tối đa là 250 từ trong một trang.
Bản tóm lược thường bao gồm:
• Mục đích của thí nghiệm
• Cách thức tiến hành,
• Dữ liệu, và kết luận.
Tóm tắt cũng có thể bao gồm những ứng dụng có thể có của nghiên
cứu. Chỉ nên có một phần nhỏ nhắc lại các công trình trước.
d) Trưng bày công trình:
Muốn thu hút và giới thiệu đề tài. Hãy tạo thuận lợi cho những khán
giả quan tâm và giám khảo có thể tiếp cận công trình và những kết quả đạt
được.
Muốn thu hút sự chú ý của ban giám khảo và thuyết phục họ là nghiên
cứu có giá trị và đáng được xem xét kỹ hơn.
Hầu hết các gian trưng bày đều có 3 phần và được đặt theo kiểu tự
do. Các mô hình trưng bày thường được đặt trên bàn. Hầu hết giám khảo
thường nhìn vào bảng trưng bày trước khi phỏng vấn. Tận dụng tối đa diện
tích sử dụng phần minh họa rõ ràng và gọn gàng.
* Gợi ý đối với phần trưng bày:
• Năm hiện tại: Đảm bảo rằng bảng trưng bày chỉ phản ánh công trình
của năm nay thôi. Sổ ghi dữ liệu của các năm trước thì được cho phép tại
công trình của bạn.

• Tựa đề hay: Tựa đề là một hình thức thu hút sự quan tâm rất quan
trọng. Một tựa đề hay phải thể hiện một cách đơn giản và chính xác công
trình nghiên cứu và tính chất của nó. Tựa đề cũng phải khiến cho người xem
bình thường muốn tìm hiểu thêm.
• Kèm theo ảnh: Nhiều công trình kèm theo những yếu tố có thể không
an toàn nếu trưng bày tại Triển lãm, nhưng là một phần quan trọng của công
trình. Có thể chụp ảnh những phần quan trọng đó/ những giai đoạn của thí
nghiệm để sử dụng trong phần trưng bày, ảnh hoặc những hình minh họa
của những vật thí nghiệm là con người cần phải có giấy chấp thuận. Phải
ghi rõ nguồn cho các bức ảnh.
• Cần phải ngăn nắp: Đảm bảo là phần trưng bày theo một qui trình và
được trưng bày một cách hợp lý và dễ đọc. Lưu ý đến cả những người hay
đọc lướt. Chỉ cần một ánh mắt, ai cũng có thể (đặc biệt là các giám khảo)
tìm được nhanh chóng tựa đề của công trình, bản tóm tắt, thí nghiệm, kết
quả, và kết luận. Khi sắp xếp phần trưng bày, hãy tưởng tượng mình mới
nhìn lần đầu. Làm nổi bật kết quả bằng những biểu đồ chủ chốt thể hiện
quan hệ giữa hai thông số thử nghiệm. Sử dụng biểu đồ để minh họa dữ liệu
cho người xem. Những biểu đồ cho một phương thức dễ dàng hơn để nhìn
thấy được các dữ liệu hơn là chỉ xem những số liệu định lượng thu thập
được.
• Gây sự chú ý: Hãy làm cho khu trưng bày nổi bật. Sử dụng những tựa
đề, bảng và biểu đồ nhiều màu sắc và rõ ràng để trình bày công trình. Đặc
biệt chú ý đến ghi nhãn (tựa đề) cho các biểu đồ, hình vẽ, ảnh, và bảng biểu
để đảm bảo rằng mỗi phần đều có nhãn miêu tả nội dung phần trình bày. Bất
cứ ai cũng phải hiểu được phần minh họa mà không cần giải thích thêm.
• Trình bày chính xác và đầy đủ: Cần tuân theo các qui định về giới hạn
kích thước và an toàn khi chuẩn bị phần trưng bày. Trưng bày tất cả những
biểu mẫu được yêu cầu. Đảm bảo rằng khu vực trưng bày được giữ kiên cố,
vì nó cần phải được giữ nguyên vẹn trong thời gian tương đối dài.
Lưu ý: Giám khảo sẽ chấm điểm công trình, chứ không phải phần

trưng bày. Không sử dụng quá nhiều thời gian và tiền bạc trong việc chuẩn
bị phần trưng bày. Bạn được đánh giá trên những tiêu chí khoa học, không
phải là sự phô diễn!
e) Phần đánh giá:
Giám khảo đánh giá và tập trung vào:
• Những gì thí sinh đã tiến hành trong năm hiện tại
• Thí sinh đã tuân thủ các phương pháp khoa học, kỹ thuật, lập trình phần
mềm hoặc toán học tốt đến mức nào
• Chi tiết và độ chính xác của nghiên cứu được ghi nhận trong sổ dữ liệu
• Những qui trình thí nghiệm có được tiến hành theo cách tốt nhất chưa.
Giám khảo sẽ đánh giá cao một công trình được chuẩn bị kỹ càng. Họ
sẽ đánh giá tầm quan trọng của công trình trong lĩnh vực đó; sự chu đáo và
bao nhiêu phần trăm trong ý tưởng và thiết kế thí nghiệm.
Ban đầu, giám khảo sẽ lấy thông tin từ bảng trưng bày, bảng tóm lược
và báo cáo nghiên cứu để hiểu được nội dung công trình, nhưng phần
Phỏng vấn sẽ quyết định kết quả của công trình. Giám khảo sẽ đánh giá cao
những thí sinh có thể diễn giải và thuyết trình một cách thoải mái và tự tin về
dự án của mình. Họ không quan tâm đến những bài thuyết trình học thuộc
lòng - họ chỉ muốn nói chuyện để xem người thuyết trình nắm vững nội
dung công trình thế nào từ đầu đến cuối. Quan trọng là cần phải bắt đầu
cuộc phóng vấn đúng cách. Đầu tiên là chào hỏi giám khảo và giới thiệu về
bản thân. Hình thức, thái độ tốt, trang phục và sự nhiệt tình sẽ gây ấn tượng
cho giám khảo.
IV) KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Đề tài này đã góp phần nâng cao rất đáng kể chất lượng các nghiên
cứu khoa học của học sinh.
Đề tài đã giúp các em tích cực hơn, tự tin hơn, biết cách thu thập, tập
hợp, xử lý thông tin để hoàn thành công việc nghiên cứu khoa học.
Qua đề tài này, kiến thức, kỹ năng của học sinh khi tiến hành nghiên
cứu khoa học được củng cố một cách vững chắc; kết quả học tập của học

sinh được nâng cao.
* Kết quả: Qua 2 năm hướng dẫn học sinh làm nghiên cứu khoa học,
đã có 2 đề tài nghiên cứu được chọn tham gia hội thi cấp tỉnh và đã đạt giải
cao.
- Năm 2012, đề tài “Tăng sự hứng thú học môn Hóa học bằng cách thực
hiện các thí nghiệm vui và có liên quan trong cuộc sống” đã đạt giải
Khuyến khích.
- Năm 2013, đề tài “Xử lý hóa chất vô cơ sau khi làm thí nghiệm trong
phòng thực hành” đã đạt giải Ba.
C/ KẾT LUẬN
Những kinh nghiệm nêu trong đề tài nhằm mục đích bồi dưỡng và phát
triển kiến thức, kỹ năng cho học sinh vừa bền vững, vừa sâu sắc; phát huy
tối đa sự tham gia tích cực của người học. Học sinh có khả năng tự tìm ra
kiến thức, tự mình tham gia các hoạt động để vừa làm vững chắc kiến thức,
vừa rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Đề tài này còn tác động rất lớn đến việc phát triến triển tiềm lực trí tuệ,
nâng cao năng lực tư duy độc lập và khả năng tìm tòi sáng tạo cho học sinh.
Trong khi viết đề tài này, chắc chắn tôi chưa thấy hết được những ưu
điển và tồn tại trong tiến trình áp dụng, tôi rất mong muốn được sự góp ý của
các đồng nghiệp để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA BGH NHÀ TRƯỜNG Người viết đề tài
HIỆU TRƯỞNG
Lương Đức Long Bùi Xuân
Đông
D/ TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa, sách bài tập môn Hóa lớp 11, 12 – NXB GD.
2. Báo Hóa học và Ứng dụng
3. Sưu tầm thông tin ở Internet.
4. Các văn bản chỉ đạo hội thi Nghiên cứu khoa học kỹ thuật của Sở và

trường.
5. Sổ tay và cẩm nang Intel Isef.
E. PHỤ LỤC

×