Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Luận văn tôt nghiệp: Nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện mỹ lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.76 KB, 76 trang )

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
MỤC LỤC
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
ST
T
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
1 NHNN Ngân hàng Nhà nước
2 NHNo&PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
3 NHTM Ngân hàng thương mại
4 NSNN Ngân sách nhà nước
5 TCTD Tổ chức tín dụng
6 TSĐB Tài sản đảm bảo
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
Danh mục bảng
Danh mục hình
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước đang chuyển mình với những bước đi đúng hướng, những thành tựu
mới trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Xu hướng toàn cầu hoá trên thế
giới cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã mở ra nhiều cơ
hội mới cho mọi nhà, mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh vực trong đó không thể không nói
tới ngân hàng - một lĩnh vực hết sức nhạy cảm ở Việt Nam. Chúng ta đang bắt đầu
thực hiện các cam kết mở cửa, khiến cho các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh
ngày càng khốc liệt, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Điều này tạo ra
những ảnh hưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vì thế
ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) nói chung và hoạt


động tín dụng ngân hàng nói riêng.
Trong hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay, hoạt động tín dụng là một
nghiệp vụ truyền thống, nền tảng, chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu tài sản và cơ cấu thu
nhập, nhưng cũng là hoạt động phức tạp, tiềm ẩn những rủi ro lớn cho các NHTM. Tín
dụng trong điều kiện trong nền kinh tế mở, cạnh tranh và hội nhập vẫn tiếp tục đóng
một vai trò quan trọng trong kinh doanh ngân hàng và đang đặt ra những yêu cầu mới
về nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Xuất phát từ thực tiễn đó, em quyết định
chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Chi nhánh huyện Mỹ Lộc”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn chi nhánh huyện Mỹ Lộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
- Phạm vi nghiên cứu: tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi
nhánh huyện Mỹ Lộc.
- Thời gian nghiên cứu: giai đoạn 2010 – 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và
luận giải.
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Chi nhánh huyện Mỹ Lộc
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 4
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh huyện Mỹ Lộc

Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Th.s Nguyễn Thị
Hải Yến, sự giảng dạy nhiệt tình của các thầy cô giáo trường Đại học Công nghiệp Hà
Nội, và sự giúp đỡ nhiệt tình các cô chú, anh chị cán bộ nhân viên Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh huyện Mỹ Lộc đã giúp đỡ, chỉ bảo và tạo
điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành chuyên đề này.
Do còn hạn chế về thời gian ngiên cứu, tài liệu thu thập cũng như trình độ hiểu
biết, chuyên đề sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong các thầy cô quan tâm,
đóng góp ý kiến để hoàn thiện bản báo cáo này.
Sinh viên thực hiện
Lê Thùy Linh
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 5
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về tín dụng
1.1.1. Khái niệm
Tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một
tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín) với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp
vụ cho vay, chiết khấu (tái chiết khấu), cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ khác.
1.1.2. Đặc điểm tín dụng
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin. Ngân hàng chỉ cấp tín
dụng khi có lòng tin vào việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả và
có khả năng hoàn trả nợ vay (gốc, lãi) đúng hạn.
Thứ hai, tín dụng là sự chuyển nhượng một tài sản có thời hạn. Ngân hàng là
trung gian tài chính “đi vay để cho vay”, nên mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều
phải có thời hạn, bảo đảm cho ngân hàng hoàn trả vốn huy động. Để xác định thời hạn
cho vay hợp lý, ngân hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn nguồn vốn của mình và
quá trình luân chuyển vốn của đối tượng cho vay. Nếu ngân hàng có nguồn vốn dài
hạn ổn định, thì có thể cấp được nhiều tín dụng dài hạn; ngược lại, nếu nguồn vốn

không ổn định và kỳ hạn ngắn, mà cấp nhiều tín dụng dài hạn thì sẽ gặp rủi ro thanh
khoản. Mặt khác, thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối
tượng vay thì người vay mới có điều kiện trả nợ đúng hạn. Nếu ngân hàng xác định
thời hạn vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay, thì khách hàng
không có đủ nguồn để trả nợ khi đến hạn, gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại,
nếu thời hạn cho vay lớn hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng
sử dụng vốn vay không đúng mục đích, tiềm ẩn rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Thứ ba, tín dụng phải trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Nếu không có sự
hoàn trả thì không được coi là tín dụng. Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho
vay (giá trị gốc), nghĩa là ngoài việc hoàn trả giá trị gốc, khách hàng phải trả cho ngân
hàng một khoản lãi, đây chính là giá của quyền sử dụng vốn vay. Khoản lãi phải luôn
luôn là một số dương, có như vậy mới bù đắp được chi phí hoạt động và tạo ra lợi
nhuận cho ngân hàng, phản ánh bản chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ tư, tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng. Việc thu hồi tín
dụng phụ thuộc không những vào bản thân khách hàng, mà còn phụ thuộc vào môi
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 6
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
trường hoạt động, ngoài tầm kiểm soát của khách hàng như sự biến động về giá cả, lãi
suất, tỷ giá, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, thị trường, thiên tai… Khi khách hàng gặp
khó khăn do môi trường kinh doanh thay đổi, dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ, điểu
này khiến cho ngân hàng gặp rủi ro tín dụng.
Thứ năm, tín dụng phải trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Quá trình xin
vay và cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp lý chặt chẽ như: Hợp đồng tín
dụng, khế ước vay tiền, hợp đồng bảo đảm tiền vay, bảo lãnh…, trong đó bên đi vay
phải cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay cho ngân hàng khi đến hạn.
Từ những đặc điểm trên cho thấy, tín dụng ngân hàng phải đảm bảo được hai
nguyên tắc cơ bản sau:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
- Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đã cam kết trong hợp
đồng.

1.1.3. Vai trò của tín dụng
1.1.3.1. Đối với nền kinh tế
Vai trò kinh tế cơ bản của tín dụng ngân hàng là luân chuyển vốn từ những
người (cá nhân, hộ gia đình, công ty và chính phủ) có nguồn vốn thặng dư (do chi tiêu
ít hơn thu nhập) đến những người thiếu hụt ( do nhu cầu chi tiêu vượt quá thu nhập).
Nhu cầu vay vốn không chỉ để đầu tư kinh doanh mà còn dùng để thỏa mãn nhu cầu
tiêu dùng trước mắt. Việc luân chuyển vốn từ người tiết kiệm sang người sử dụng vốn
lại quan trọng với nền kinh tế vì những người tiết kiệm thường không đồng thời là
những người có cơ hội sinh lời cao. Như vậy, nếu không có ngân hàng, thì việc luân
chuyển vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế sẽ ách tắc. Chính vì vậy, kênh luân
chuyển vốn qua ngân hàng có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy tính hiệu quả của nền
kinh tế.
Tín dụng ngân hàng không giới hạn chỉ trong chức năng truyền thống là luân
chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu mà còn giúp phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài
chính trong nền kinh tế. Thông qua tín dụng ngân hàng mà vốn từ những người thiếu
các dự án đầu tư hiệu quả được chuyển tới những người có các dự án đầu tư hiệu quả
hơn nhưng thiếu vốn. Kết quả là, kinh tế tăng trưởng, tạo công ăn việc làm, và năng
suất lao động cao.
Thông qua việc đầu tư vốn tín dụng vào những ngành, nghề, khu vực kinh tế
trọng điểm sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành, nghề đó, hình thành nên cơ cấu
hiện đại, hợp lý và hiệu quả.
Tín dụng ngân hàng góp phần lưu thông tiền tệ, hàng hóa, điều tiết thị trường,
kiểm soát giá trị đồng tiền và thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế giữa các
nước.
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 7
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
Tín dụng ngân hàng mang lại nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước (NSNN)
thông qua thuế thu nhập và lãi từ ủy thác đầu tư vốn của Chính phủ.
Tín dụng ngân hàng là kênh truyền tải vốn tài trợ của nhà nước đến nông
nghiệp, nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị, xã hội.

1.1.3.2. Đối với khách hàng
Tín dụng ngân hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu về số lượng và chất lượng vốn
cho khách hàng. Với các ưu điểm như an toàn, thuận tiện, nhanh chóng, dễ tiếp cận và
có khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn lớn, tín dụng ngân hàng thỏa mãn được nhu
cầu đa dạng của khách hàng.
Tín dụng ngân hàng giúp nhà đầu tư nắm bắt được những cơ hội kinh doanh,
doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất, các cá nhân có đủ khả năng tài chính để
trang trải cho các khoản chi tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống…
Tín dụng ngân hàng ràng buộc trách nhiệm khách hàng phải hoàn trả vốn gốc
và lãi trong thời hạn nhất định như thỏa thuận. Do đó, buộc khách hàng phải nỗ lực,
tận dụng hết khả năng của mình để sử dụng vốn vay hiệu quả, đẩy nhanh quá trình tái
sản xuất, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho ngân
hàng.
1.1.3.3. Đối với ngân hàng
Tín dụng là hoạt động truyền thống, chiểm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản
có và mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng (từ 70 đến 90%). Mặc dù tỷ
trọng của hoạt động tín dụng đang có xu hướng giảm, nhưng tín dụng ngân hàng vẫn
luôn là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng.
Thông qua hoạt động tín dụng mà ngân hàng đa dạng hóa được danh mục tài
sản có, giảm thiểu rủi ro.
Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng mở rộng được các loại hình dịch vụ
khác, như thanh toán, thu hút tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn…
1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng
Kinh tế thị trường càng phát triển, xu hướng tự do hóa càng sâu sắc, thì các
ngân hàng càng phải nghiên cứu đưa ra các hình thức tín dụng đa dạng nhằm đáp ứng
tốt nhất nhu cầu của khách hàng, từ đó đa dạng hóa danh mục đầu tư, thu hút khách
hàng, tăng lợi nhuận, thực hiện phân tán rủi ro và đứng vững trong cạnh tranh. Chính
vì vậy, ngân hàng cung cấp rất nhiều loại tín dụng, cho nhiều đối tượng khách hàng
với những mục đích sử dụng khác nhau. Để tránh nhầm lẫn và có cái nhìn tổng quát về
các loại tín dụng, người ta phân loại tín dụng theo một số tiêu chí sau:

SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 8
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
1.1.4.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn đến 1 năm và được sử dụng để
bù đắp thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp, phục vụ nhu cầu tiêu
dùng cá nhân và hộ gia đình.
Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm và sử
dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới trang thiết bị, mở
rộng sản xuất và xây dựng công trình vừa và nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Tín
dụng trung hạn còn là nguồn vốn quan trọng hình thành nên vốn lưu động thường
xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với doanh nghiệp mới thành lập.
Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, đáp ứng cho nhu cầu
đầu tư dài hạn như: xây dựng cơ bản (nhà xưởng, dây chuyền sản xuất…), xây dựng
cơ sở hạ tầng (đường xá, cảng biển, sân bay…) , cải tiến và mở rộng sản xuất có quy
mô lớn. Do thời gian đầu tư thường kéo dài, nên tín dụng dài hạn thường áp dụng hình
thức giải ngân nhiều lần theo tiến độ dự án. Nhìn chung, tín dụng dài hạn chịu rủi ro
rất lớn, bởi vì thời hạn càng dài, thì những biến động không dự tính có thể xảy ra càng
lớn.
1.1.4.2. Căn cứ vào bảo đảm tín dụng
Tín dụng có bảo đảm: là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh
của người thứ ba. Hình thức tín dụng này áp dụng đối với những khách hàng không đủ
uy tín, khi vay vốn phải có tài sản đảm bảo hoặc phải có người bảo lãnh. Tài sản bảo
đảm hoặc bảo lãnh của người thứ ba là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn
thu dự phòng khi nguồn thu chính (dòng tiền) của con nợ thiếu hụt, tạo áp lực buộc
con nợ phải trả nợ, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hay
không có bảo lãnh của người thứ ba. Loại tín dụng này áp dụng cho những khách hàng
mới, có hệ số tín nhiệm không cao.
1.1.4.3. Căn cứ vào mục đích tín dụng
- Tín dụng bất động sản: Đây là các khoản tín dụng đầu tư vào bất động sản,

bao gồm:
+ Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai.
+ Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang trại và
bất động sản ở nước ngoài.
- Tín dụng công thương nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các doanh
nghiệp để trang trải các chi phí như mua hàng hóa, nguyên vật liệu, trả thuế, và chi trả
lương.
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 9
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
- Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông
nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia
súc.
- Tín dụng tiêu dùng: Đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân, hộ gia đình để
mua sắm hàng hóa tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà di động, trang thiết bị trong
nhà…
1.1.4.4. Căn cứ vào chủ thể vay vốn
Tín dụng doanh nghiệp (tín dụng bán buôn): Gọi là bán buôn vì những doanh
nghiệp thường có những khoản vay giá trị lớn.
Tín dụng cá nhân, hộ gia đình (tín dụng bán lẻ): Gọi là tín dụng bán lẻ vì những
cá nhân thường vay với những khoản vay có giá trị nhỏ nhằm vào mục đích tiêu dung.
Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp tín dụng cho
các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
Những khoản đi vay này trở thành nguồn vốn của ngân hàng đi vay, nên chúng có thể
dung để trả nợ hay cho vay lại.
1.1.4.5. Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay
Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
vay định kỳ thành những khoản bằng nhau. Loại tín dụng này áp dụng cho những
khoản vay lớn và có thời hạn dài.
Tín dụng hoàn trả một lần: là loại tín dụng mà khách hàng chỉ hoàn trả vốn gốc
và lãi vay một lần khi đến hạn. Loại tín dụng này áp dụng cho những khoản vay nhỏ

và có thời hạn ngắn.
Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại tín dụng mà khách hàng có thể hoàn trả
nợ vay bất cứ khi nào. Loại tín dụng này thường áp dụng cho những khoản vay thấu
chi, thẻ tín dụng.
1.1.4.6. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
Tín dụng bằng tiền: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tiền. Tín
dụng bằng tiền gọi là cho vay.
Tín dụng bằng tài sản: là loại tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tài
sản. Hình thức tín dụng này chính là cho thuê tài chính.
Tín dụng bằng uy tín: Là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng uy tín.
Hình thức tín dụng này chính là bảo lãnh ngân hàng.
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 10
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
1.1.4.7. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
Tín dụng trực tiếp: là hình thức tín dụng, trong đó ngân hàng cấp vốn trực tiếp
cho khách hàng có nhu cầu vay vốn, đồng thời khách hàng hoàn trả nợ vay trực tiếp
cho ngân hàng.
Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua trung gian như: tín dụng
ủy thác, tín dụng thông qua tổ chức đoàn thể.
1.1.4.8. Tín dụng khác
Bao gồm các khoản tín dụng khác chưa được phân loại ở trên (ví dụ: tín dụng
kinh doanh chứng khoán).
1.1.5. Các phương thức cho vay
Cho đến nay, các ngân hàng thường sử dụng các phương thức cho vay phổ biến
dựa trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng gồm:
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện
thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng(TCTD) và khách hàng xác
định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cho vay theo dự án đầu tư: TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiện các

dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời
sống.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm TCTD cùng cho vay đối với một dự án vay vốn
hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, một TCTD làm đầu mối dàn xếp,
phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
- Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thỏa thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều
kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: TCTD cam kết đảm bảo sẵn sàng
cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. TCTD và khách
hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn
mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín
dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín
dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động
hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử
dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của
pháp luật về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà TCTD thỏa thuận bằng
văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 11
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
khách hàng phù hợp với các quy định của pháp luật về hoạt động thanh toán qua các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với quy định
tại Quy chế này và điều kiện hoạt động kinh doanh của TCTD và đặc điểm của khách
hàng vay.
1.1.6. Chính sách tín dụng ngân hàng
Một trong những biện pháp quan trọng để các khoản tín dụng ngân hàng đáp
ứng được các tiêu chuẩn pháp lý và bảo đảm an toàn là việc hình thành một “ chính

sách tín dụng an toàn và hiệu quả”. Chính sách tín dụng cung cấp cho cán bộ tín dụng
và nhà quản lý một khung chỉ dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng
danh mục đầu tư tín dụng của ngân hàng. Thông qua kết cấu danh mục tín dụng của
một ngân hàng, ta có thể biết được chính sách tín dụng của ngân hàng này là như thế
nào. Nếu một chính sách tín dụng hoạt động không hiệu quả thì phải tiến hành kiểm
tra hoặc phải được tăng cường quản lý bởi ban lãnh đạo ngân hàng.
Sau đây là những yếu tố quan trọng nhất thường cấu thành trong chính sách tín
dụng của một ngân hàng:
- Mục đích của danh mục tín dụng ngân hàng, bao gồm các đặc điểm của một
danh mục tín dụng xét theo các tiêu chí như: các loại tín dụng, những kỳ hạn tín dụng,
các độ lớn tín dụng, chất lượng tín dụng, đối tượng khách hàng nòng cốt, khách hàng
mục tiêu…
- Phân cấp thẩm quyền cho vay đối với từng cán bộ tín dụng và từng hội đồng
tín dụng (quy định mức cho vay tối đa, các loại tín dụng được phép, và chữ ký của
người có trách nhiệm).
- Phân cấp chịu trách nhiệm hàng ngày trong công việc và báo cáo thông tin
trong nội bộ phòng tín dụng.
- Quy trình tiếp nhận, kiểm tra, đánh giá và ra quyết định đối với đơn xin vay
của khách hàng.
- Hồ sơ bắt buộc đối với từng đơn xin vay, và những gì phải được lưu giữ tại
ngân hàng (ví dụ như các báo cáo tài chính, hợp đồng bảo đảm tín dụng…)
- Phân cấp chịu trách nhiệm trong nội bộ ngân hàng, cụ thể ai là người chịu
trách nhiệm duy trì và kiểm tra hồ sơ tín dụng.
- Các chỉ dẫn, nhận định, đánh giá và hoàn tất hồ sơ bảo đảm tín dụng.
- Quy định chính sách và quy trình ấn định mức lãi suất tín dụng mức phí và
các điều kiện hoàn trả nợ vay.
- Quy định những tiêu chuẩn chất lượng áp dụng chung cho tất cả các loại tín
dụng.
- Quy định giới hạn tín dụng tối đa cho một khách hàng.
- Quy định lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng, từ đó hướng tín dụng vào

lĩnh vực này.
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 12
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
- Các phương án ưu tiên trong việc phát hiện, phân tích và xử lý tín dụng có vấn
đề.
Tùy theo đặc điểm cụ thể của từng ngân hàng, nhà quản lý có thể bổ sung thêm
những quy định cho phù hợp. Ví dụ, có ngân hàng quy định không cấp một số loại tín
dụng nhất định, nhưng lại quy định ưu tiên đối với một số loại tín dụng khác…
Chính sách tín dụng ngân hàng mang lại nhiều ưu điểm trong quá trình thực
hiện cho vay. Trước hết, đối với cán bộ tín dụng, họ biết được cần phải làm các bước
như thế nào khi tiến hành một khoản cho vay và biết được trách nhiệm của mình đến
đâu; đối với ngân hàng, thông qua chính sách tín dụng, ngân hàng có thể đạt được một
danh mục tín dụng đa dạng mục đích, như làm tăng khả năng sinh lời, kiểm soát được
tiềm ẩn rủi ro và đáp ứng được các đòi hỏi từ phía nhà quản lý. Bất kỳ một sự ngoại lệ
nào trong chính sách tín dụng cũng phải được quy định đầy đủ, các lý do tại sao lại có
sự ngoại lệ cũng phải liệt kê.
1.1.7. Kiểm tra tín dụng
Ngày nay các ngân hàng sử dụng rất nhiều các quy trình khác nhau để kiểm tra
tín dụng, tuy nhiên, những nguyên lý chung đang được áp dụng tại hầu hết các ngân
hàng bao gồm:
Nguyên lý 1: Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định,
ví dụ, đối với các khoản tín dụng nhỏ và vừa thì định kỳ kiểm tra có thể là 30, 60, hay
90 ngày; đối với những khoản tín dụng lớn thì phải kiểm tra thường xuyên hơn.
Nguyên lý 2: Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra
một cách thận trọng và chi tiết, bảo đảm rằng những khía cạnh quan trọng nhất của
mỗi khoản tín dụng phải được kiểm tra, bao gồm:
- Kế hoạch trả nợ của khách hàng, nhằm bảo đảm rằng khách hàng không chậm
trễ trong việc thanh toán nợ theo kế hoạch.
- Chất lượng và điều kiện của tài sản bảo đảm tín dụng.
- Tính đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng, bảo đảm rằng ngân hàng có đầy

đủ thẩm quyền hợp pháp để sở hữu các tài sản bảo đảm tín dụng đối với người vay
trước tòa án nếu cần thiết.
- Đánh giá điều kiện tài chính và những dự báo về người vay, trên cơ sở đó xem
xét lại nhu cầu tín dụng của người vay thay đổi như thế nào.
- Đánh giá xem khoản tín dụng có còn tuân thủ chính sách cho vay của ngân
hàng và các tiêu chuẩn do cơ quan quản lý đặt ra.
Nguyên lý 3: Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn, bởi vì nếu các
“đại gia” bị vỡ nợ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến điều kiện tài chính của ngân hàng.
Nguyên lý 4: Quản lý chặt chẽ và thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề,
tăng cường kiểm tra giám sát khi phát hiện những dấu hiệu không lành mạnh liên quan
đến khoản tín dụng của ngân hàng.
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 13
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
Nguyên lý 5: Tăng cường kiểm tra tín dụng khi nền kinh tế có những biểu hiện
đi xuống, hoặc ngành nghề sử dụng nhiều tín dụng của ngân hàng có biểu hiện những
vấn đề nghiêm trọng trong phát triển (ví dụ như xuất hiện các đối thủ cạnh tranh mới,
hay có sự áp dụng công nghệ mới đòi hỏi phải có sản phẩm mới và các phương pháp
phân phối mới).
Kiểm tra tín dụng không phải là công việc thừa, lãng phí, mà rất cần thiết để
hình thành chính sách cho vay của ngân hàng một cách lành mạnh. Nó không những
giúp cho nhà quản lý nhận ra vấn đề một cách nhanh chóng, mà còn có tác dụng kiểm
tra thường xuyên xem cán bộ tín dụng có chấp hành đúng chính sách cho vay của ngân
hàng. Với lý do này, đồng thời tăng cường tính khách quan của công tác kiểm tra tín
dụng, hầu hết các ngân hàng lớn đều thành lập phòng “kiểm tra tín dụng” độc lập với
“phòng tín dụng”. Kiểm tra tín dụng giúp cho Hội đồng quản trị và Ban giám đốc điều
hành trong việc đánh giá toàn bộ tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng, từ đó đề ra các biện
pháp phòng chống cũng như định hướng chính sách “quỹ dự phòng bù đắp rủi ro” và
chiến lược tăng vốn chủ sở hữu của ngân hàng trong tương lai.
1.1.8. Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng
Trong suốt sự phát triển lâu dài của tín dụng thì hình thức tín dụng ngân hàng tỏ

ra có ưu thế hơn các hình thức tín dụng trước nó như tín dụng cho vay nặng lãi, tín
dụng thương mại.
Hình thức tín dụng ngân hàng ra đời tỏ rõ ưu thế của mình bởi:
- Nguồn vốn cho vay rất lớn vì đó là toàn bộ nguồn vốn trong nền kinh tế mà
ngân hàng có thể tập trung và huy động được.
- Đây là hình thức tín dụng rất linh hoạt vì đối tượng cho vay là tiền.
Hình thức tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế
thị trường và nó luôn luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt
kịp thời.
Là trung gian tài chính, ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên
là những người có tiền cho vay và bên kia là những người có nhu cầu cần vay vốn.
Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp dụng các
phương pháp kỹ thuật hiện đại, tiên tiến Ngân hàng có khả năng thu hút những nguồn
vốn tiền tệ, tiết kiệm, dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc, phù hợp
với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Chính nhờ có tín dụng Ngân hàng mà
những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến những đồng tiền
nằm phân tán thành vốn tiền tệ tập trung phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và
qua đó làm cho phát triển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp cho nền kinh tế
ngày càng phát triển.
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 14
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
1.2. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
Chất lượng, giá cả và lượng hàng hoá là ba chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sức
mạnh và khả năng của doanh nghiệp. Để có thể đứng vững trong hoạt động kinh doanh
thì việc cải thiện chất lượng sản phẩm là điều tất yếu. Các nhà kinh tế nói đến chất
lượng bằng nhiều cách: Chất lượng là "Sự phù hợp với mục đích và sự sử dụng", là"
một trình độ dự kiến trước về độ đồng đều và độ tin cậy với chi phí thấp và phù hợp
với thị trường" hay chất lượng là" năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm
thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng".

1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Nhân tố thuộc về phía ngân hàng
Quy mô và cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn ngân hàng: muốn cho vay được thì
điều kiện trước tiên là ngân hàng phải có vốn. Nhưng chỉ có vốn thôi thì chưa đủ, do
yêu cầu phải đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên nên các khoản vay của ngân
hàng cần phải được tài trợ một cách phù hợp từ nguồn vốn phù hợp. Quy mô các
nguồn vốn là một trong những nhân tố quyết định quy mô cho vay của ngân hàng.
Năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định các hợp đồng: Một trong những
tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng là vốn và lãi được hoàn trả đúng
kỳ hạn. Điều này sẽ không thể có được nếu như việc thực hiện dự án không đạt hiệu
quả như mong muốn, hoặc khách hàng không có thiện chí, cố tình lừa đảo. Để hạn chế
nguy cơ đó ngân hàng cần phải thực hiện tốt công tác thẩm định dự án, thẩm định
khách hàng. Thông thường công tác thẩm định khách hàng được tiến hành trước và
chủ yếu tập trung vào xem xét các mặt: tư cách pháp lý, khả năng tài chính, khả năng
quản lý điều hành sản xuất kinh doanh, năng lực sản xuất kinh doanh, mức độ tín
nhiệm. Nếu khách hàng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu do ngân hàng đặt ra thì dự án đầu
tư sẽ được tiếp tục xem xét để quyết định có cho vay hay không. Vấn đề đặt ra ở đây là
thủ tục và các điều kiện, tiêu chuẩn sử dụng làm căn cứ để đánh giá khách hàng và dự
án đầu tư có hợp lý hay không. Nếu thủ tục rườm rà, các điều kiện, tiêu chuẩn đặt ra
quá khắt khe, không phù hợp với thực tế thì sẽ có rất ít khách hàng bảo đảm thỏa mãn
được yêu cầu của ngân hàng. Điều đó gây cản trở cho ngân hàng trong việc thu hút
thêm khách hàng, mở rộng quan hệ tín dụng. Ngược lại, nếu quy trình điều kiện đặt ra
không chặt chẽ có thể sẽ khiến cho ngân hàng sai lầm trong việc ra quyết định cho
vay, dẫn đến rủi ro tín dụng. Chính vì vậy trong quá trình hoạt động các ngân hàng
phải không ngừng cải tiến, hoàn thiện công tác thẩm định của mình.
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 15
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
Năng lực giám sát và xử lý các tình huống tín dụng của ngân hàng: cho dù công
tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng được tiến hành tốt, giúp cho ngân hàng lựa
chọn được những khách hàng tốt, những dự án khả thi có khả năng sinh lời cao song

đó chưa phải là sự đảm bảo chắc chắn để có được chất lượng tín dụng cao. Bởi lẽ hoạt
động sản xuất kinh doanh luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn không thể lường trước
được. Chính vì vậy mà công tác giám sát và xử lý các tình huống tín dụng sau khi cho
vay có ý nghĩa rất quan trọng. Hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào các vấn đề
như: sự tuân thủ đúng mục đích sử dụng vốn của khách hàng, tình hình hoạt động thực
tế của dự án, tiến độ trả nợ, quá trình sử dụng, bảo quản và biến động tài sản của khách
hàng, những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án. Thực hiện tốt công
tác này sẽ giúp ngân hàng phát hiện và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực
như sử dụng vốn sai mục đích, âm mưu tẩu tán tài sản, lừa đảo ngân hàng.
Chính sách tín dụng của ngân hàng: Chính sách tín dụng của ngân hàng là một
hệ thống các biện pháp nhằm liên quan đến việc mở rộng hoặc hạn chế tín dụng nhằm
đạt được các mục tiêu của ngân hàng đó trong từng thời kỳ.
Với ý nghĩa như vậy, rõ ràng chính sách tín dụng có tác động rất lớn đến chất
lượng tín dụng của ngân hàng. Trước hết về mặt quy mô tín dụng, nếu chính sách tín
dụng của ngân hàng trong một thời kỳ nào đó là hạn chế thì có nghĩa là quy mô tín
dụng của ngân hàng đó sẽ bị thu hẹp. Khi đó không thể nói chất lượng tín dụng của
ngân hàng đó là tốt ít ra về mặt quy mô. Ngoài ra chính sách tín dụng của ngân hàng
còn bao gồm một loạt các vấn đề như quy định về điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng đối
với khách hàng, lĩnh vực tài trợ, biện pháp bảo đảm tiền vay, quy trình quản lý tín
dụng, lãi suất… Nếu chính sách tín dụng được xây dựng và thực hiện một cách khoa
học và chặt chẽ, kết hợp được hài hòa lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và của xã
hội thì sẽ hứa hẹn một chất lượng tín dụng tốt. Ngược lại, nếu việc xây dựng và thực
hiện chính sách tín dụng không hợp lý, không khoa học thì chắc chắn chất lượng tín
dụng của ngân hàng sẽ không cao thậm chí rất thấp.
Thông tin tín dụng: thông tin luôn là yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác quản
lý dù ở bất cứ lĩnh vực nào. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng thế, để thẩm
định dự án, thẩm định khách hàng trước hết phải có thông tin về dự án, về khách hàng
đó, để làm tốt công tác giám sát sau khi cho vay cũng cần có thông tin. Thông tin càng
chính xác, kịp thời thì càng thuận lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cho
vay, theo dõi việc dùng vốn vay và tiến độ trả nợ. Thông tin chính xác kịp thời đầy đủ

còn giúp cho ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chính sách tín
dụng một cách linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều đó góp phần
nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 16
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
Công nghệ ngân hàng, trang thiết bị kỹ thuật cũng là một nhân tố tác động tới
chất lượng tín dụng của ngân hàng, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển
như vũ bão hiện nay. Một ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại được trang bị các
phương tiện kỹ thuật chất lượng cao sẽ tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn
thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là tiền đề để
ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín dụng. Sự hỗ trợ của các phương tiện
kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, công
tác lập kế hoạch, xây dựng chính sách tín dụng cũng có hiệu quả hơn.
Chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự của ngân hàng: Cho dù khoa học kỹ
thuật hiện đại đã mở ra cơ hội tự động hóa trong nhiều lĩnh vực song nhân tố còn
người vẫn luôn giữ vai trò quyết định. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng ngân hàng là
hoạt động phức tạp, có liên quan đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội thì vai trò của
con người lại càng quan trọng. Do đó vấn đề nhân sự là vấn đề cực kỳ quan trọng đối
với mỗi ngân hàng, trong đó nổi bật lên hai vấn đề: chất lượng nhân sự và quản lý
nhân sự. Chất lượng nhân sự ở đây không chỉ đơn thuần đề cập đến trình độ chuyên
môn mà còn bao gồm cả lương tâm, đạo đức, tác phong, kỷ luật lao động của người
cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng. Trong đó vấn đề lương tâm
và đạo đức của cán bộ tín dụng là hết sức quan trọng. Điều này sẽ ảnh hưởng đến trực
tiếp trong quá trình thẩm định tín dụng của Ngân hàng, nếu cán bộ tín dụng có lương
tâm vào đạo đức nghề nghiệp sẽ không dễ bị sa ngã, tránh cho Ngân hàng những hợp
đồng tín dụng kém tính khả thi, tránh việc thua lỗ trong hoạt động tín dụng của Ngân
hàng. Chất lượng nhân sự tốt, biểu hiện ở sự năng động sáng tạo trong công việc, tinh
thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao của các cán bộ, trong một chừng mực
nào đó có thể giúp cho ngân hàng bù đắp lại những hạn chế về công nghệ, kỹ thuật,
nhờ đó mà ngân hàng vẫn có thể tồn tại và phát triển được cho dù phải cạnh tranh với

những đối thủ có tiềm lực mạnh hơn về công nghê, trang thiết bị kỹ thuật. Bên cạnh
chất lượng nhân sự thì công tác quản lý nhân sự cũng cần đặc biệt chú ý, bởi lẽ không
phải cứ có cán bộ tín dụng giỏi là có chất lượng tín dụng cao. Mỗi cán bộ tín dụng đều
có những điểm mạnh và điểm yếu riêng, điều quan trọng là phải bố trí, sắp xếp công
việc của họ sao cho phát huy hết thế mạnh và hạn chế điểm yếu của từng người, đồng
thời có chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, tạo sự phối hợp
nhịp nhàng hoạt động của từng thành viên trong một guồng máy thống nhất cùng
hướng tới mục tiêu chung là nhu cầu chất lượng tín dụng ngân hàng.
1.2.2.2. Nhân tố thuộc về phía khách hàng
Nhu cầu đầu tư của khách hàng: Bất kỳ loại hàng hóa hay dịch vụ nào muốn
tiêu thụ được thì cần phải có người mua. Tín dụng ngân hàng cũng vậy, ngân hàng
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 17
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
không thể cho vay nếu như không có người vay. Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế
thì nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển luôn là cần thiết nhưng với từng ngân hàng thì
không phải lúc nào cũng như vậy. Có những lúc nhu cầu đầu tư của khách hàng không
cao, chẳng hạn trong giai đoạn hoạt động kinh doanh gặp khó khăn, trong trường hợp
đó nhu cầu vay vốn của khách hàng sẽ không cao và do đó ngân hàng sẽ khó khăn nếu
muốn mở rộng tín dụng.
Khả năng của khách hàng trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng
của ngân hàng: Để đảm bảo an toàn, tránh rủi ro khi cho vay, các ngân hàng thường
đặt ra những điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng nhằm phân loại, chọn ra những khách hàng
có thể hay không thể cho vay. Chỉ những khách hàng nào đáp ứng đầy đủ các yêu cầu
của ngân hàng thì mới được xem xét cho vay. Những điều kiện tiêu chuẩn này có thể
rất khác nhau tùy theo ngân hàng cụ thể, song nhìn chung các ngân hàng đều quan tâm
tới một số vấn đề như sau: tính hợp lý, hợp pháp của mục đích sử dụng vốn, năng lực
tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh của khách hàng, tính khả thi của dự án, các
biện pháp đảm bảo. Rõ ràng khả năng của khách hàng trong việc đáp ứng các điều
kiện, tiêu chuẩn tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của ngân
hàng. Bởi nếu đa số các khách hàng không thể đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng,

có thể do điều kiện đặt ra quá khắt khe, không thực tế hoặc do khả năng của các khách
hàng quá thấp, thì ngân hàng không thể mở rộng cho vay trong khi vẫn bảo đảm an
toàn tín dụng.
Khả năng của khách hàng trong việc quản lý và sử dụng khoản vay có hiệu quả:
Khi cho vay thì ngân hàng trông đợi khoản trả nợ sẽ được lấy từ chính kết quả hoạt
động của dự án chứ không phải bằng cách phát mại tài sản thế chấp, cầm cố. Điều này
lại phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn vay của khách hàng. Có nhiều yếu
tố cần thiết để đảm bảo cho việc sử dụng vốn vay của khách hàng có hiệu quả cao,
trong đó có một nhân tố giữ vai trò quyết định như năng lực và trình độ quản lý nguồn
vốn của khách hàng.
1.2.2.3. Nhân tố khách quan khác
Môi trường tự nhiên: nói chung môi trường tự nhiên không tác động trực tiếp
tới hoạt động tín dụng của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện qua sự tác động đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Điều kiện tự nhiên diễn biến thuận lợi
hay bất lợi sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng, do đó ảnh
hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Môi trường kinh tế: là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng cũng như khách hàng chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường này. Sự biến
động của nền kinh tế theo chiều hướng tốt hay xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 18
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
ngân hàng và khách hàng biến động theo. Những tác động do môi trường kinh tế gây
ra có thể là trực tiếp đối với ngân hàng hoặc tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của
khách hàng, qua đó gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Môi trường chính trị, xã hội: sự ổn định của môi trường chính trị, xã hội là một
căn cứ quan trọng để ra quyết định của các nhà đầu tư. Nếu môi trường này ổn định thì
các nhà đầu tư sẽ yên tâm thực hiện việc mở rộng đầu tư và do đó nhu cầu vốn tín
dụng ngân hàng sẽ tăng lên.
Môi trường pháp lý không chặt chẽ nhiều khe hở và bất cập sẽ tạo cơ hội cho
các nhà đầu tư yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa đảo ngân hàng. Môi

trường pháp lý không chặt chẽ và thiếu sự ổn định cũng khiến các nhà đầu tư trung
thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh do đó hạn chế
nhu cầu về vốn tín dụng ngân hàng. Hệ thống các văn bản pháp luật và các quy định
hiện hành nếu thiếu sự hoàn chỉnh, thiếu tính đồng bộ, chồng chéo sẽ gây khó khăn
cho việc hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư, cũng gây khó khăn trong
việc quản lý hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Ngân hàng là một doanh
nghiệp luôn phải hoạt động trong hành lang pháp lý hẹp hơn bất kỳ một doanh nghiệp
sản xuất hay thương mại nào. Vì vậy, một hệ thống pháp lý càng hoàn chỉnh, đồng bộ
thì sẽ càng đem lại hiệu quả hoạt động của ngân hàng, của khách hàng và đảm bảo
được chất lượng tín dụng của các khách hàng đó với ngân hàng. Còn nếu môi trường
pháp lý không hoàn chỉnh, có nhiều lỗ hổng thì kết quả sẽ ngược lại cho cả ngân hàng
và các khách hàng từ đó làm xấu đi chất lượng của các khoản tín dụng của ngân hàng
đối với doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước bao
gồm các chính sách tài chính tiền tệ, chính sách lãi suất, chính sách đối ngoại… có vai
trò quan trọng đối với hoạt động của nền kinh tế nói chung và hoạt động của các ngân
hàng, các doanh nghiệp nói riêng. Chính sách kinh tế trong hoàn cảnh này thì có tác
dụng cho cả ngân hàng và doanh nghiệp nhưng trong hoàn cảnh khác thì ngược lại.
Các chính sách này nhằm ưu tiên phát triển hay hạn chế một ngành nào đó để đảm bảo
cân đối kinh tế. Do vậy các chủ trương, chính sách của Nhà nước phải đúng đắn thì
mới thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, là điều kiện cần để đạt được chất lượng
và hiệu quả của các khoản tín dụng ngân hàng.
Các yếu tố thiên tai: Chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhiều khi
mang tính thời vụ. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước có các doanh
nghiệp trong các ngành Nông – Lâm – Ngư nghiệp lại chiếm một tỷ lệ không nhỏ thì
yếu tố này rất quan trọng. Khi thiên tai xảy ra như: lũ lụt, hạn hán, mưa bão, hỏa
hoạn… gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, dẫn
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 19
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
đến khả năng hoàn trả các khoản nợ là khó khăn hoặc không thể, làm cho chất lượng

của các khoản tín dụng bị giảm sút.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Chỉ tiêu định tính
Tín dụng là một trong những hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu cho các
NHTM, song không phải tất cả các NHTM đều thực hiện tốt hoạt động này. Một số
ngân hàng gặp khó khăn trong việc không thể tìm được dự án thích hợp để cho vay
hoặc gặp khó khăn trong việc huy động vốn. Vì vậy việc xem xét chất lượng hiệu quả
tín dụng là hết sức cần thiết, nó giúp ngân hàng có thể đánh giá lại hoạt động cho vay
của mình từ đó đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, thiếu sót và đẩy
mạnh hơn công tác tín dụng của ngân hàng.
Để đánh giá chất lượng tín dụng, ngân hàng cần phải xem xét cả những chỉ tiêu về mặt
định tính và mặt định lượng. Về mặt định tính, các chỉ tiêu được thể hiện qua một số
khía cạnh sau:
- Chất lượng tín dụng được thể hiện thông qua khả năng đáp ứng tốt nhu cầu
của khách hàng, thủ tục đơn giản, thuận tiện, cung cấp vốn nhanh chóng, kịp thời, an
toàn, kỳ hạn và phương thức thanh toán hợp lý, phù hợp với chu kỳ kinh doanh của
khách hàng.
- Những ngân hàng có lịch sử hoạt động lâu đời, cơ sở vật chất trang thiết bị tốt,
đồng thời ngân hàng tham gia vào nhiều hình thức huy động vốn, đa dạng hóa và
không ngừng cung ứng các dịch vụ ngân hàng mới. Ngân hàng có tổng nguồn vốn huy
động lớn, ổn định lượng khách hàng vay đông đảo chứng tỏ ngân hàng có uy tín.
- Ngoài ra chất lượng tín dụng còn được xem xét thông qua tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của ngân hàng, tình hình khai thác tiềm năng của ngân hàng trên
địa bàn hoạt động.
Cách đánh giá chỉ tiêu định tính:
Để đánh giá chỉ tiêu định tính, các cách thường dùng là các cách dùng trong
thống kê học như điều tra, phỏng vấn và phương pháp chuyên gia. Trong đó, điều tra
là phương pháp hay sử dụng nhất. Thông qua điều tra, quan sát có thể biết được thủ
tục cho vay đối với khách hàng như thế nào, rút ra nhận xét. Cũng có thể thấy được cơ
sở vật chất của ngân hàng. Thông qua điều tra cũng cho thấy được đối tượng khách

hàng là ai, số lượng là bao nhiêu, đang kinh doanh ngành nghề gì, cần vay sử dụng vào
mục đích nào. Hình thức huy động vốn, đầu tư, cho vay của ngân hàng đa dạng hay
không, sử dụng phương pháp này cũng cho kết quả tương đối chính xác. Ngoài ra, có
thể dùng phương pháp phỏng vấn để thấy được khách hàng có hài lòng với ngân hàng
hay không, các chuyên gia đánh giá về hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng ra
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 20
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
sao. Để đánh giá chất lượng tín dụng của mình thông qua chỉ tiêu định tính, Ngân hàng
thường thuê các công ty kiểm toán uy tín.
1.2.3.2. Chỉ tiêu định lượng
Chỉ tiêu định lượng gồm một số tiêu chí cơ bản như sau:
- Doanh số cho vay: là chỉ tiêu phản ánh tất cả các khoản tín dụng mà ngân
hàng đã phát ra cho vay trong một khoảng thời gian nào đó, không kể món cho vay đó
đã thu hồi về hay chưa. Doanh số cho vay thường được xác định theo tháng, quý, năm.
- Doanh số thu nợ: là toàn bộ các món nợ mà ngân hàng đã thu về từ các khoản
cho vay của ngân hàng kể cả năm nay và những năm trước đó.
- Chỉ tiêu dư nợ
Chỉ tiêu dư nợ =
Dư nợ ngắn hạn (hoặc trung – dài hạn)
x 100%
Tổng dư nợ
Đây là một chỉ tiêu định lượng xác định cơ cấu tín dụng trong trường hợp dư nợ
được phân theo thời hạn cho vay (ngắn, trung, dài hạn). Chỉ tiêu này còn cho thấy biến
động của tỷ trọng giữa các loại dư nợ tín dụng của một ngân hàng qua các thời kỳ khác
nhau.
- Nợ quá hạn: là chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ khi đến hạn mà khách hàng
không trả được cho ngân hàng mà không có nguyên nhân chính đáng thì ngân hàng sẽ
chuyển từ tài khoản dư nợ sang tài khoản quản lý khác gọi là nợ quá hạn. Nợ quá hạn
là chỉ tiêu phản ánh chất lượng của nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng.
- Tỷ lệ nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn=
Số dư nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ
Nguyên tắc quan trọng nhất của cho vay là sự hoàn trả, do đó tính an toàn là
yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng cho vay. Khi một khoản vay không
được hoàn trả đúng hạn như đã cam kết, mà không có lý do chính đáng thì nó sẽ vi
phạm nguyên tắc cho vay quan trọng nhất của Ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ quá
hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế phần lớn các khoản nợ quá
hạn là các khoản nợ có vấn đề , có khả năng mất vốn lớn, có nghĩa là tính an toàn thấp.
Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh số dư nợ gốc và lãi đã quá hạn mà chưa thu hồi
được. Nợ quá hạn cho biết, cứ trên 100 đồng dư nợ hiện hành có bao nhiêu đồng đã
quá hạn, đây là một chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp; ngược lại, tỷ lệ nợ quá
hạn thấp chứng tỏ chất lượng tín dụng cao.
Thông thường thì tỷ lệ nợ quá hạn tốt nhất ở mức ≤ 5%. Tuy nhiên, chỉ tiêu này
đôi khi cũng chưa phản ánh hết chất lượng tín dụng của ngân hàng. Bởi vì bên cạnh
những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý do đã thực hiện tốt các khâu trong
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 21
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
quy trình tín dụng, còn có những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp thông qua
việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo quy định.
Nợ quá hạn xuất hiện là do nhiều nguyên nhân, có thể là do ngân hàng không
xem xét kỹ khoản vay, đánh giá không chính xác thời gian sử dụng vốn cần thiết của
ngân hàng, có thể do khách hàng gặp khó khăn tạm thời trong việc kinh doanh vì môi
trường kinh doanh không thuận lợi, khách hàng cố tình không trả nợ cho ngân hàng….
Vì nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn nên ta chia nợ quá hạn ra là hai nhóm:
+ Nhóm 1: nợ quá hạn có khả năng thu hồi.
Tỷ lệ nợ quá hạn có
khả năng thu hồi

=
Số nợ quá hạn có khả năng thu hồi
x 100
Tổng số nợ quá hạn
+ Nhóm 2: nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
Tỷ lệ nợ quá hạn
không có khả năng
thu hồi
=
Số nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
x 100
Tổng số nợ quá hạn
Hai nhóm chỉ tiêu này cho thấy chính xác hơn về mức rủi ro tín dụng của ngân
hàng, trong điều kiện nền kinh tế gặp khó khăn thì cho dù ngân hàng có tỷ lệ nợ quá
hạn cao nhưng tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi lớn thì vẫn coi đó là có chất lượng
tín dụng ổn định (với giả thiết là các yếu tố khác không đổi). Do đó khi đánh giá chất
lượng tín dụng của ngân hàng người ta thường quan tâm tới nhóm nợ cuối gồm nợ
nhóm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn, vì đây là ba nhóm nợ
không có hoặc ít có khả năng thu hồi, tiềm ẩn nguy cơ mất vốn của ngân hàng. Chính
vì thế, việc sử dụng chỉ tiêu này cho phép đánh giá chính xác hơn về chất lượng tín
dụng.
- Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Hiệu suất sử dụng vốn (H1)=
Tổng dư nợ cho vay
x 100%
Tổng nguồn vốn huy
động
Đây là chỉ tiêu phản ánh tương quan giữa nguồn vốn huy động và dư nợ cho
vay trực tiếp khách hàng. Vốn huy động là nguồn vốn có chi phí thấp (rẻ hơn đi vay),
ổn định về số dư và kỳ hạn, nên năng lực cho vay của một NHTM thường bị giới hạn

bởi năng lực huy động vốn. Thật là lý tưởng, nếu NHTM chủ động được nguồn vốn
huy động để cân đối nhu cầu cho vay (lúc đó hệ số H1 xấp xỉ bằng 100%). Tuy nhiên,
trong thực tế không phải lúc nào và ở đâu ngân hàng cũng tự cân đối được vốn huy
động để đáp ứng nhu cầu cho vay. Hai khả năng trong đó có thể xảy ra là:
Thứ nhất, tại địa bàn hoạt động nhu cầu vay vốn đầu tư là rất lớn, trong khi đó
khả năng huy động vốn là rất khó. Để giải quyết mâu thuẫn này, buộc ngân hàng phải
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 22
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
đi vay từ các ngân hàng khác (hoặc vay trung ương) để cho vay lại. Do phải đi vay với
chi phí cao nên có thể làm cho hiệu quả hoạt động của tín dụng giảm. Chính vì vậy,
giải pháp tốt nhất cho ngân hàng là phải từng bước chủ động cải thiện nguồn vốn huy
động của mình.
Thứ hai, tại địa bàn hoạt động nhu cầu vay vốn là rất ít, trong khi đó khả năng
huy động vốn lại rất cao. Để giải quyết mâu thuẫn này, buộc ngân hàng phải cho các
ngân hàng khác (hoặc chuyển về trung ương) vay lại nguồn vốn huy động.Trong
trường hợp này thì hệ số H1 là nhỏ hơn 100% rất nhiều. Do phải cho vay lại nguồn
vốn huy động với lãi suất thấp nên có thể làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Chính vì vậy, giải pháp tốt nhất cho ngân hàng là phải chủ động tìm đầu ra (cho vay,
đầu tư) để sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động.
- Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Lợi nhuận từ hoạt động
tín dụng/Tổng dư nợ
=
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
x 100
Tổng dư nợ
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của NHTM chiếm từ 70% - 85% lợi nhuận của
NHTM. Nếu lợi nhuận của một ngân hàng tăng lên hằng năm, điều đó chứng tỏ chất
lượng tín dụng được nâng lên. Chỉ tiêu này phản ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào
(lãi suất huy động và thu lãi đầu ra). Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn

tín dụng, một khoản tín dụng ngắn hạn hay dài hạn không thể xem xét chất lượng của
nó nếu không đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ các khoản
vay của ngân hàng sinh lợi và ngược lại, chỉ tiêu này thấp chứng tỏ các khoản vay
không sinh lợi, đồng thời chất lượng tín dụng chưa được tốt. Tuy nhiên, chỉ tiêu này
cũng mang tính chất tương đối, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: chính sách lãi suất,
chính sách khách hành, …. Thông thường trong hoạt động ngân hàng, nếu chất lượng
tín dụng tốt, tỷ lệ nợ quá hạn thấp thì lợi nhuận từ hoạt động tín dụng sẽ cao hơn khi
cùng một mức dư nợ so với các ngân hàng khác.
- Vòng quay vốn tín dụng

Vòng quay vốn tín dụng =
Doanh số thu nợ
Dư nợ bình quân
Dư nợ bình quân =(Dư nợ đầu năm + Dư nợ cuối năm)/2
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay vốn tín
dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào
nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Với một số vốn nhất định, nhưng do
vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng sẽ đáp ứng được nhu cầu vay vốn cho
khách hàng tốt hơn. Hệ số này càng cao càng tốt, nó phản ánh tình hình quản lý vốn
tín dụng tốt, chất lượng tín dụng được nâng cao. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chỉ phản ánh
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 23
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
một cách tương đối, vì nếu ngân hàng cho vay các doanh nghiệp sản xuất chiếm tỷ
trọng lớn dư nợ, thì chỉ tiêu này sẽ thấp hơn NHTM khác cho vay các doanh nghiệp
thương mại. Sự khác biệt trong lĩnh vực kinh doanh của khách hàng không thể kết luận
rằng ngân hàng này có vòng quay vốn tín dụng kém ngân hàng kia.
1.2.4. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại
Ngân hàng là ngành dịch vụ đã có lịch sử tồn tại và phát triển hàng trăm năm.
Nó là ngành mang lại siêu lợi nhuận song đồng thời nó cũng là ngành chịu nhiều rủi
ro. Một trong những rủi ro đáng sợ đối với Ngân hàng là rủi ro tín dụng và nó cũng là

một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán của
Ngân hàng, bằng chứng là đã xảy ra những cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới
Có thể nói bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng có thể lâm và tình trạng đó, vì
thế vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ đối là cần thiết đối với Ngân hàng,
với khách hàng mà còn đối với toàn xã hội nữa.
1.2.5. Những kinh nghiệm về nâng cao chất lượng tín dụng ở ngân hàng thương
mại một số nước và bài học và bài học rút ra để vận dụng ở Việt Nam
1.2.5.1. Kinh nghiệm của Malayxia
Các NHTM đều có quỹ dự phòng chung ít nhất 1% tổng số nợ. Ngoài ra còn có
quỹ dự phòng đặc biệt cho các khoản nợ tổn thất và có nghi ngờ.
Nợ tổn thất là nợ không có khả năng thu hồi, số tiền này cần được xóa sổ hoặc
bù đắp bằng quỹ dự phòng.
Nợ nghi ngờ là nợ được coi như không có khả năng thu hồi, vì khó đánh giá số
tiền mất nên đặt một tỷ lệ là 50%.
Nợ kém tính chất: ngân hàng phải chú ý thu hồi bớt nợ, bổ sung thế chấp, nắm
thông tin thường xuyên để có giải pháp thích hợp.
1.2.5.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Sau khủng hoảng tài chính năm 1997, Thái Lan đã nhanh chóng đưa ra những
biện pháp cải cách hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng như sau:
- Thứ nhất, Thái Lan đóng cửa 52 chi nhánh ngân hàng và công ty tài chính,
tiến hành tổ chức sắp xếp lại các ngân hàng thương mại.
- Thứ hai, các NHTM Thái Lan đã cố gắng nâng cao chất lượng tín dụng, phân
tán rủi ro bằng cách tập trung vào các giải pháp quy định phân loại và lựa chọn khách
hàng; hạn mức cho vay với một khách hàng không quá 25% vốn tự có; các khoản nợ
ngoài bảng tổng kết tài sản hạn chế dưới 25% tổng số vốn; các ngân hàng không được
đầu tư quá 20% tổng số vốn vào cổ phần, giấy chứng nhận nợ của một công ty; xếp
loại tài sản có thành ba loại: tổn thất, có nghi ngờ và kém tiêu chuẩn; quỹ dự phòng
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 24
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hải Yến
được lập cho các khoản tín dụng bị xếp loại nghi ngờ ở mức tỷ lệ 50% và mất trắng ở

mức 100%. Nợ kém tiêu chuẩn ngân hàng được quyền xử lý. Ngoài ra chú ý tới các
khoản nợ cần lưu ý (những khoản nợ tốt hơn khoản nợ kém tiêu chuẩn) để sớm đưa ra
giải pháp xử lý, đưa các khoản nợ này trở thành những khoản nợ bình thường. Tỷ lệ
dự trữ thanh khoản theo quy định là 7% trong đó 2% tiền gửi tại Ngân hàng Trung
ương tối đa không quá 2,5% tiền mặt, còn lại dưới dạng chứng khoán, và buộc các
ngân hàng bị đóng cửa phải tăng vốn điều lệ lên 15% tổng nguồn vốn thì mới có thể
tiếp tục hoạt động.
- Thứ ba, Chính phủ tiếp hành thành lập cơ quan tái cơ cấu tài chính (Financial
Sector Restructuring Agency – FRA) để quản lý thanh khoản cho 58 chi nhánh ngân
hàng và các công ty tài chính có vấn đề. FRA có nhiệm vụ đảm bảo an toàn cả vốn lẫn
lãi cho người gửi tiền, đồng thời thành lập công ty quản lý tài sản (Asset Management
Company - AMC) có trách nhiệm quản lý các khoản nợ khó đòi, tiến hành xử lý thu
nợ.
Với những kiên quyết trong cải cách ngân hàng theo “Cơ chế cứu hộ” của
Chính phủ đồng thời với sự trợ giúp của IMF 17,2 tỷ USD đã giúp Thái Lan phục hồi
sau khủng hoảng.
1.2.5.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Sau khủng hoảng tài chính Đông Nam Á, Hàn Quốc tích cực cải tổ hệ thống
ngân hàng, cơ cấu lại các công ty các tập đoàn lớn như sau:
- Tiến hành đóng cửa 16 ngân hàng thương mại và các công ty tài chính thiếu
vốn.
- Bán 51% Korea First Bank cho New Bridge Bank (Mỹ), 70% Seoul Bank cho
Hong Kong – Shanghai Bank Cooperation.
- Thành lập công ty quản lý tày sản (Korean Asset Management Company-
KAMKO) với số vốn 21.000 tỷ Won tương đương 5% GDP, tiến hành mua lại nợ khó
đòi từ các Ngân hàng năm 1998 là 12.600 tỷ Won, 1999 là 15.400 tỷ Won.
- Tiến hành tự do hóa cán cân thanh toán vốn, khuyến khích tư bản nước ngoài
mua lại các doanh nghiệp trong nước, mở cửa 11 trong 42 ngành mà không cho phép
nước ngoài đầu tư vào, tự do hóa việc vay vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp, cho
phép người nước ngoài mua sắm bất động sản trong nước.

- Cải cách công tác quản trị ngân hàng và doanh nghiệp từng bước hạn chế
phương thức thống trị gia đình, bãi bỏ quy định không cho người nước ngoài làm giám
đốc, doanh nghiệp phải công bố công khai thông tin tài chính.
1.2.5.4. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Từ năm 1998, Trung Quốc tiến hành cơ cấu lại hệ thống NHTM và doanh
nghiệp Nhà nước trong thời gian 3 năm, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngân
hàng, cụ thể:
- Bán hàng loạt các doanh nghiệp yếu kém, tách khoản nợ của doanh nghiệp
Nhà nước ra khỏi bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
SV: Lê Thùy Linh_Lớp TCNH1-K4 25

×