Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Nghiên cứu, phân tích chính sách thương mại xuất nhập khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập WTO – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.23 KB, 28 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Ngày 11-1-2007 là một dấu mốc hết sức quan trọng trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của nước ta: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ
150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Ngay sau khi gia nhập WTO, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng
Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện các cam kết khi gia nhập
WTO, Việt Nam đã tiến hành điều chỉnh chính sách thương mại theo hướng
minh bạch và thơng thống hơn, ban hành nhiều luật và các văn bản dưới luật để
thực hiện các cam kết đa phương, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng
như các biện pháp cải cách đồng bộ trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội và
vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập.
Mặc dù chúng ta đã thực hiện nhiều cải cách về thương mại trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nhiều vấn đề cần được tiếp tục xem xét
như việc liên kết doanh nghiệp và Chính phủ trong việc hồn thiện chính sách
xuất nhập khẩu; phát huy vai trì của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
trong việc thực hiện chính sách; và cách thức vận dụng các cơng cụ của chính
sách xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách xuất
nhập khẩu phải được hoàn thiện để vừa phù hợp với các chuẩn mực thương mại
quốc tế hiện hành của thế giới, vừa phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam.
Vì vậy, việc xem xét và điều chỉnh chính sách xuất nhập khẩu của Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cho phù hợp với điều kiện, hồn
cảnh mới của đất nước có . nghĩa hết sức quan trọng trong việc góp phần đưa
Việt Nam hội nhập thành công và đạt được mục tiêu về cơ bản trở thành quốc
gia cơng nghiệp hố vào năm 2020.
Do đó, chúng tơi đã lựa chọn vấn đề “Nghiên cứu, phân tích chính sách
thương mại xuất nhập khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập WTO – Thực
trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu.
Tuy nhiên, do thời gian có hạn, chắc chắn bài viết cịn có những thiếu sót
nhất định. Kính mong thầy và các bạn tham gia đóng góp ý kiến để bài viết được
hồn thiện hơn.


1


CHƯƠNG I- CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm về Thương mại quốc tế và Chính sách xuất nhập khẩu
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ qua biên giới giữa
các quốc gia. Theo nghĩa rộng hơn, thương mại quốc tế bao gồm sự trao đổi
hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất qua biên giới giữa các quốc gia.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) xem xét thương mại quốc tế bao gồm
thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại quyền sở hữu trí tuệ.
Chính sách xuất nhập khẩu là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, công cụ và
biện pháp do nhà nước sử dụng để điều tiết và quản lý các hoạt động thương mại
quốc tế của quốc gia nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của
quốc gia đó trong một thời gian nhất định.
1.2. Vai trị của chính sách xuất nhập khẩu
Chính sách xuất nhập khẩu là một bộ phận của chính sách kinh tế xã hội
của Nhà nước, có quan hệ chặt chẽ và phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
Chính sách XNK tác động mạnh mẽ đến quá trình tái sản xuất, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, đến quy mô và phương thức tham gia của nền
kinh tế mỗi nước vào phân cơng lao động quốc tế và thương mại quốc tế.
Chính sách XNK có vai trị to lớn trong việc khai thác triệt để lợi thế so sánh của
nền kinh tế trong nước, phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ đến quy mô tối
ưu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả của các hoạt động
kinh tế .
Chính sách XNK có thể tạo nên các tác động tích cực khi nó có cơ sở
khoa học và thực tiễn, tức là nó xuất phát từ các bối cảnh khách quan của nền
kinh tế thế giới, chú . đến đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế trong
nước, tuân theo các quy luật khách quan trong sự vận động của các quan hệ kinh
tế quốc tế và thường xuyên được bổ sung, hoàn chỉnh phù hợp với những biến

đổi mau lẹ của thực tiễn.
1.3. Các cơng cụ chủ yếu của chính sách xuất nhập khẩu
1.3.1. Hệ thống thuế được xem xét thường bao gồm thuế trực tiếp và
thuế gián tiếp. Các vấn đề được xem xét thường bao gồm thuế nhập khẩu và thuế
xuất khẩu theo d.ng thuế, mức thuế, cơ cấu tính thuế, thuế theo các ngành, lịch
trình cắt giảm thuế theo các chương trình hội nhập. Thuế quan trực tiếp là thuế
đánh vào hàng hoá nhập khẩu hay xuất khẩu. Các loại thuế này bao gồm thuế
theo số lượng, thuế giá trị và thuế hỗn hợp. Thuế gián tiếp tác động tới thương
mại như thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt.
1.3.2. Các hàng rào phi thuế quan bao gồm trợ cấp xuất khẩu, hạn ngạch
nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, các yêu cầu về nội địa hố, trợ cấp tín
2


dụng xuất khẩu, quy định về mua sắm của chính phủ, các hàng rào hành chính,
khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu, khu
chế xuất, khu công nghiệp, các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp.
- Trợ cấp xuất khẩu là khoản tiền trả cho một công ty hay một cá nhân
đưa hàng ra bán ở nước ngoài. Trợ cấp xuất khẩu có thể theo khối lượng hay
theo giá trị.
- Hạn ngạch nhập khẩu là sự hạn chế trực tiếp số lượng hoặc giá trị một
số hàng hố có thể được nhập khẩu. Thông thường những hạn chế này được áp
dụng bằng cách cấp giấy phép cho một số công ty hay cá nhân. Hạn ngạch có tác
dụng hạn chế tiêu dùng trong nước giống như thuế song nó khơng mang lại
nguồn thu cho chính phủ. Hạn ngạch xuất khẩu thường áp dụng ít hơn hạn ngạch
nhập khẩu và thường chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng.
- Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một biến thể của hạn ngạch nhập
khẩu.
Nó là một hạn ngạch thương mại do phía nước xuất khẩu đặt ra thay vì nước
nhập khẩu. Trong khuôn khổ các hiệp định của WTO, các biện pháp phi thuế

quan bao gồm các hạn chế định lượng, hàng rào kỹ thuật, các biện pháp baả vệ
thương mại tạm thời, các biện pháp quản lý về giá; các biện pháp nhập khẩu.
- Các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hố là một quy định địihỏi một số bộ phận
của hàng hoá cuối cùng phải được sản xuất trong nước. Bộ phận này được cụ thể
hoá dưới dạng các đơn vị vật chất hoặc các điều kiện về giá trị.
- Trợ cấp tín dụng xuất khẩu cũng giống như trợ cấp xuất khẩu nhưng
dưới hình thức một khoản vay có tính chất trợ cấp dành cho người mua.
- Quy định về mua sắm của chính phủ hay doanh nghiệp có thể hướng
việc mua sắm trực tiếp vào các hàng hoá được sản xuất trong nước ngay cả khi
những hàng hố đó đắt hơn hàng nhập khẩu.
- Các hàng rào hành chính và kỹ thuật là việc các chính phủ sử dụng
các điều kiện về tiêu chuẩn y tế, kỹ thuật, an toàn và các thủ tục hải quan để tạo
nên những cản trở thương mại.
- Các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp là các thủ tục, biện
pháp áp dụng đối với các hàng hoá bị coi là bán phá giá hay trợ cấp.
- Các khu công nghiệp và khu chế xuất tạo điều kiện cho các nhà sản
xuất và nó có những ưu điểm như tiền thuê đất, hệ thống cơ sở hạ tầng (điện,
nước, viễn thông) hiệu quả và đáng tin cậy, thủ tục hành chính thuận lợi.
1.4. Những nguyên tắc cơ bản của việc điều chỉnh chính sách Xuất
nhập khẩu
Chính sách XNK của một quốc gia có ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác,
bởi vậy nó chịu ảnh hưởng của nguyên tắc nhằm chống sự phân biệt đối xử, đảm
bảo sự có đi có lại như sau:
3


• Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN): theo nguyên tắc này, một quốc gia sẽ
phải thực hiện các biện pháp quản lí trong quan hệ thương mại một cách bình
đẳng với tất cả các đối tác, bao gồm việc áp dụng các biện pháp ưu đòicũng như
các biện pháp hạn chế.

• Nguyên tắc ngang bằng dân tộc: áp dụng nguyên tắc này địi hỏi Chính
phủ các quốc gia phải có sự đối xử ngang bằng giữa các công ty, các doanh
nghiệp trong nước với các công ty, các doanh nghiệp nước ngoài về tất cả các
biện pháp áp dụng trong chính sách XNK bao gồm: đánh thuế, các biện pháp hỗ
trợ, các thủ tục hành chính, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp
chống bán phá giá và đảm bảo cạnh tranh bình đẳng nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển quan hệ thương mại tồn thế giới. Do đó có thể khai thác tốt
những nguồn lực phát triển.
Ngoài hai nguyên tắc trên, trong quá trình xây dựng và hồn thiện chính
sách XNK của các quốc gia, Chính phủ các nước ln ln lưu . đến việc thực
hiện nguyên tắc có đi có lại. Tức là việc đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiêp,
các công ty trong nước, đồng thời phải đảm bảo lợi ích cho các cơng ty, doanh
nghiệp nước ngồi, nhằm hạn chế những mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ
thương mại.
1.5. Các dạng chính sách xuất nhập khẩu điển hình
1.5.1. Chính sách hướng nội ban đầu.
Chính sách hướng nội ban đầu nhằm thúc đẩy tính tự lực quốc gia, thể
hiện ở việc tăng cường sản xuất lương thực, các nông sản và khống sản mà
chúng khơng được nhập khẩu. Qua đó đảm bảo sự an toàn lương thực. Sử dụng
các biểu thuế nhập khẩu hoặc quota nhập khẩu lương thực, khi đó thuế lương
thực khơng phải chủ yếu nhằm nâng cao nguồn thu mà là thuế bảo hộ. Chính
phủ cịn đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu để tăng phần thu, qua đó làm giảm
thu hút tương đối của nền nơng nghiệp định hướng xuất khẩu so với nền nông
nghiệp hướng nội.
Duy trì chính sách hướng nội sẽ dẫn đến tìnhtrạng tỉ giá hối đoái tăng do
kết quả của sự bảo hộ và sẽ khuyến khích nhập khẩu sản phẩm chế tạo. Khi ấy
nếu khu vực nơng thơn phat đạt thì sẽ gây tổn thất cho nhà sản xuất công nghiệp.
1.5.2. Chính sách hướng ngoại ban đầu.
Đặc điểm của chính sách này là nhiều nước đang phát triển trong giai
đoạn đầu hướng vào xuất khẩu những loại hàng nông sản truyền thống và người

ta thực hiện chính sách thuế nhập khẩu tương đối thấp để tăng nguồn thu cho
chính phủ, và ở giai đoạn này khơng có khả năng lựa chọn các loại thuế khác.
Điều này đưa tới ảnh hưởng xấu là tăng giá cả tiêu dùng và một số ngành hàng
sản xuất thay thế nhập khẩu trở nên phi hiệu quả. Tuy nhiên nhờ nguồn thuế tăng
lên người ta có thể chi tiêu nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng để hỗ trợ cho hoạt động
xuất khẩu.
4


1.5.3. Chính sách hướng nội tiếp theo.
Chính sách thương mại nông nghiệp hướng nội sẽ đưa tới sự mở rộng cho
các ngành công nghiệp nhỏ với sự trợ cấp của Chính phủ dần dần khuyến khích
nền nơng nghiệp thay thế nhập khẩu. Bên cạnh chính sách bảo hộ chung người ta
có thể thực hiện sự hỗ trợ có lựa chọn cho nền cơng nghiệp hố thay thế nhập
khẩu, đó là một nền công nghiệp non trẻ. Yêu cầu đặt ra với chính sách này là
phải tránh được lệch lạc kéo theo cho người tiêu dùng, tránh sự lựa chọn sai các
ngành non trẻ để hỗ trợ, can thiệp để khắc phục được những khiếm khuyết của
cơng nghiệp non trẻ.
1.5.4. Chính sách hướng ngoại tiếp theo.
Các nước đang phát triển thường chuyển sang các chính sách hướng ngoại
đối với các ngành chế tạo máy sau khi hoàn thành tới những giai đoạn ban đầu
của việc thay thế nhập khẩu. Khi nào cịn hỗ trợ cho việc thay thế nhập khẩu thì
việc xuất khẩu sẽ còn bị cản trở do sự tăng tỉ giá hối đối. Để các chính sách
hướng ngoại thành công, điều quan trọng là phải đảm bảo giá quốc tế cho nhà
xuất khẩu, tức là phải dỡ bỏ các trở ngại đối với xuất khẩu.

CHƯƠNG II- TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM
2.1. Con đường hội nhập
Các nội dung cam kết thương mại trong khung khổ WTO và các Hiệp định

khu vực hương mại tự do (FTA) chính được cập nhật đầy đủ nhất trong nghiên
5


cứu của Trương Đình Tuyển và cộng sự. Tiến trình hội nhập kinh tế sâu rộng của
Việt Nam bắt đầu từ năm 1995 với 3 mốc quan trọng nhất.
Thứ nhất, Việt Nam đã đàm phán và ký Hiệp định Thương mại song
phương Việt Nam - Hoa Kỳ vào năm 2000. Tác dụng nổi bật của Hiệp định này,
một mặt là bước tập dượt quan trọng để Việt Nam tham gia sâu rộng hơn vào
tiến trình hội nhập khu vực (tham gia các FTA) và toàn cầu (gia nhập WTO).
Mặt khác, hiệp định này cho phép Việt Nam tiếp cận thị trường xuất khẩu lớn
nhất thế giới mà không bị phân biệt đối xử.
Thứ hai, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) và tham gia Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và tiếp đó là
FTA với các đối tác (ASEAN+).
Thứ ba, Việt Nam đã đàm phán gia nhập WTO và trở thành thành viên của
tổ chức này tháng 1/2007. Cùng với các FTA khu vực, Việt Nam cũng đã ký
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (EPA) với Nhật Bản mà thực chất là một FTA
song phương.
Với các hiệp định nêu trên, Việt Nam đã tạo ra những cơ hội to lớn cho
việc thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN) và hoạt động xuất khẩu; qua đó thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và tạo thêm việc làm. Mặt khác các hiệp định này cũng gây
ra những thách thức gay gắt cho doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam.
Nếu như khi gia nhập WTO, sức ép lớn nhất là về mặt thể chế và dịch vụ, thì các
hiệp định FTA song phương và khu vực lại gây nhiều sức ép nhất đến thương
mại hàng hóa do mức độ cắt giảm thuế sâu rộng trong hiệp định nội khối
ASEAN và một số hiệp định ASEAN+: có khoảng 90% số dịng thuế sẽ về 0%
vào năm 2015, phần lớn trong số còn lại sẽ đưa về 0% vào năm 2018. Minh
chứng rõ nhất cho thực tế này là để thực hiện các cam kết WTO, Việt Nam đã
phải sửa đổi, ban hành nhiều luật, pháp lệnh, nghị định liên quan tới quy định

trong nước (thể chế), trong khi tất cả các cam kết trong ASEAN, các hiệp định
FTA ASEAN+ và Hiệp định Đối tác kinh tế ASEAN - Nhật Bản hầu như không
ảnh hưởng tới các quy định về thể chế. Mặc dù cơ hội và thách thức đều lớn
nhưng việc tận dụng cơ hội đến đâu, vượt qua thách thức thế nào lại phụ thuộc
vào thể chế và chính sách (tức là vào hoạt động quản lý của các cấp chính quyền,
chủ yếu là cấp Trung ương và cấp tỉnh) cũng như hoạt động của doanh nghiệp.
2.2. Khái quát chung về WTO
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization) – tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại
giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đa và
đang được các nước đàm phán và ký kết. Ngày 15/04/1994, tại Marrkesh
(Maroc), các bên đa kết thúc hiệp định thành lập Tổ chức thương mại Thế giới
6


(WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp GATT. WTO chính thức được thành
lập độc lập với hệ thống Liên Hợp Quốc và đi vào hoạt động từ 01/01/1995.
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng, họp ít nhất 2 năm
một lần. Dưới Hội nghị Bộ trưởng là Đại hội đồng – thường họp nhiều lần trong
một năm tại trụ sở chính của WTO ở Geneva. Nhiệm vụ chính của Đại hội đồng
là giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên và rà sốt các
chính sách của WTO.
Chức năng chính:
· Quản lý các hiệp định về thương mại quốc tế.
· Diễn đàn cho các vòng đàm phán thương mại.
· Giải quyết các tranh chấp thương mại.
· Giám sát các chính sách thương mại.
· Trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo cho các quốc gia đang phát triển.
· Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.
2.3. Việt Nam gia nhập WTO

Tháng 01/2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO sau hơn
10 năm đàm phán (1995). Việc Việt Nam ký kết Hiệp định thương mại với Hoa
Kỳ (USBTA – United States Bilateral Trade Agreement) năm 2001 là yếu tố góp
phần thúc đẩy nhanh hơn q trình đàm phán này, thúc đẩy Việt Nam tăng cường
cải 4 cách thể chế, cải cách chính sách kinh tế để hội nhập sâu hơn vào nền kinh
tế thế giới.
a) Gia nhập WTO, chúng ta phải tuân theo:
Mười sáu quy định hiện hành của WTO, đó là:
· Thương mại và thuế quan (GATT, 1994),
· Nông nghiệp (AOA),
· Áp dụng các biện pháp kiểm dịch động và thực vật (SPS),
· Dệt may (ATC),
· Các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT),
· Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS),
· Chống bán phá giá (AD),
· Trị giá tính thuế hải quan (CVA),
· Giám định hàng hóa trước khi xếp hàng (PI),
· Quy tắc xuất xứ (ROO),
· Cấp phép nhập khẩu (IL),
· Trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM),
· Các biện pháp tự vệ đặc biệt (SG),
· Thương mại dịch vụ (GATS),
· Các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
(TRIPS).
7


Ngồi ra, WTO cịn có một số hiệp định nhiều bên như Hiệp định về mua
sắm chính phủ, Hiệp định về công nghệ thông tin. Việt Nam đa chấp nhận nhiều
cam kết giống như các nước khác mới trở thành thành viên của WTO. Trong

nhiều trường hợp, các cam kết này có mức độ ràng buộc cao hơn so các cam kết
được áp dụng cho các nước đa là thành viên của WTO vào thời điểm thành lập tổ
chức này (Hiệp định Marrakech, 1994). Mức thuế quan áp dụng cho nông sản sẽ
được ấn định ở mức thấp hơn so với mức hiện hành được áp dụng cho các nước
đang phát triển khác có trình độ phát triển tương đương với Việt Nam.
Cam kết chấm dứt các hình thức trợ cấp cho xuất khẩu (điều mà các nước đang
phát triển khác có trình độ phát triển tương đương như Việt Nam vẫn được tiếp
tục làm). Mở cửa một số lĩnh vực cho đầu tư nước ngoài, tiếp tục cổ phần hóa
các doanh nghiệp Nhà nước...
b) Đổi lại, Việt Nam được:
Tiếp cận dễ dàng hơn thị trường của các nước thành viên WTO và hạn
ngạch đối với hàng dệt – may xuất khẩu của Việt Nam đa được bãi bỏ từ đầu
năm 2007. Mở rộng thị trường xuất khẩu . Xuất khẩu của Việt Nam sẽ khơng bị
bó hẹp trong các hiệp định song phương và khu vực mà sẽ có thị trường tồn
cầu. Doanh nghiệp và hàng hóa của ta sẽ không bị phân biệt đối xử so với doanh
nghiệp và hàng hóa của các nước khác theo điều kiện đối xử tối huệ quốc (MFN)
và đối xử quốc gia (NT).
Thu hút đầu tư nước ngồi. Hệ thống chính sách của ta được làm rõ theo
quy định của WTO, sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào Việt
Nam, tǎng khả nǎng thu hút vốn, công nghệ và học hỏi được các kinh nghiệm
quản lý tiên tiến.
Hệ thống kinh tế - thương mại dựa trên các nguyên tắc chứ không phải là
sức mạnh, sẽ làm cho hoạt động sản xuất – kinh doanh dễ dàng hơn với tất cả
các thành viên. WTO có cơ chế giải quyết tranh chấp giúp cho các nước nhỏ hơn
sẽ có nhiều tiếng nói hơn. Việc giảm bớt hàng rào thương mại cho phép thương
mại tǎng trưởng, góp phần làm tǎng trưởng kinh tế nói chung.
2.4. Một số chính sách thuế đối với nhập khẩu ở Việt Nam
Ngay từ những năm 1990, trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đa liên tục
cắt giảm các mức thuế quan của mình. Đến trước thời điểm gia nhập WTO, mức
thuế quan trung bình (trung bình số học) đa giảm xuống cịn 17,4% so với mức

23,3% 10 năm trước đó.
Việt Nam cũng cam kết tổng hợp các mức thuế quan áp dụng cho phần lớn
các sản phẩm, với các mức thuế từ 0% đến 35% (Bảng 1). Việc cắt giảm đối với
các mức thuế quan tổng hợp sẽ được thực hiện trong thời hạn 12 năm, giảm từ
mức trung bình 17,4% năm 2007 xuống 13,6% năm 2019.
8


Mức thuế suất trung bình áp dụng đối với hàng nông sản sẽ giảm từ 27,3% đầu
năm 2007 xuống 21,7% năm 2019. Việt Nam đa ký Hiệp định đa phương về
công nghệ thông tin. Trong khuôn khổ Hiệp định này, Việt Nam cam kết cắt
giảm mức thuế quan xuống còn 0% đối với nhiều mặt hàng điện tử và tin học
trong thời hạn từ 0 đến 8 năm tùy theo từng mặt hàng.

Nguồn: IMF 2007
Biện pháp hạn ngạch nhập khẩu vẫn được áp dụng đối với hai mặt hàng:
Từ cuối năm 2005, chỉ còn sản phẩm đường và dầu lửa còn chịu áp dụng hạn
ngạch nhập khẩu, với việc ấn định khối lượng tối đa được nhập khẩu.
Ngồi ra, cịn có 6 mặt hàng khác chịu áp dụng hạn ngạch nhập khẩu, nhưng
không ấn định khối lượng tối đa được nhập khẩu: sữa, trứng, ngô, thuốc lá, muối
và bông. Đối với các mặt hàng này, nếu khối lượng nhập khẩu vượt quá mức quy
định thì sẽ phải chịu một mức thuế quan cao hơn.
9


Gỡ bỏ một số hạn ngạch về xuất khẩu của Việt Nam:
Kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam được áp dụng khuôn khổ quy định đa
phương mới đối với xuất khẩu hàng dệt may. Từ đầu năm 2005, Việt Nam được
xóa bỏ hạn ngạch đa được áp dụng trong 3 thập kỷ trước trong khuôn khổ các
Hiệp định Đa sợi (AMF).

Mỹ áp đặt hạn ngạch đối với Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định thương
mại song phương, nhưng đa xóa bỏ các hạn ngạch này kể từ đầu năm 2007. Sau
khi ký Hiệp định song phương về ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO năm 2004,
Liên minh châu Âu đa xóa bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam ngay từ đầu năm
2005, tức là trước khi Việt Nam gia nhập WTO.
Ngồi ra, với quy mơ nền kinh tế nhỏ và tác động đối với thị trường Mỹ
không lớn, Việt Nam không bị áp dụng các biện pháp tự vệ và các biện pháp tự
vệ khẩn cấp đối với hàng dệt may giống như các biện pháp Mỹ đang tạm thời áp
dụng đối với Trung Quốc kể từ khi nước này gia nhập WTO

CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA
VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI
3.1. Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
3.1.1. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trước hội nhập
Để thấy rõ tầm ảnh hưởng của việc gia nhập WTO, chúng ta hãy nhìn lại
sơ lược tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam 10 tháng đầu năm 2006:
- Theo ước tính của Bộ Thương mại, kim ngạch xuất khẩu cả nước 10
tháng đầu năm 2006 đạt khoảng 32,87 tỷ USD (tăng 24,2%); trong đó: xuất khẩu
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đạt 19,02 tỷ USD (tăng 25,9 %);
xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đạt 13,85 tỷ USD
(tăng 22,1%).
Phần lớn các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đều tăng khá: dầu thô ước đạt
7,114 tỷ USD (tăng 15,9 %), hàng dệt may ước đạt 4,969 tỷ USD (tăng 27,2%),
thuỷ sản ước đạt 2,753 tỷ USD (tăng 23,2%), hàng điện tử, linh kiện máy tính
10


ước đạt 1,414 tỷ USD ( tăng 20,2%), sản phẩm gỗ 1,531 tỷ USD (tăng 25,6%),
giầy dép các loại ước 2,871 tỷ USD ( tăng 19,9 %).

Đặc biệt, ba mặt hàng đa vượt kim ngạch xuất khẩu cả năm là: than đá
ước 713 triệu USD (tăng 37,6%), cao su ước 1,089 tỷ USD (tăng 85,9 %), hạt
tiêu ước 178 triệu USD (tăng 39,1%). Một số mặt hàng giảm: gạo chỉ bằng
92,2%, xe đạp chỉ bằng 81%...
Kim ngạch nhập khẩu cả nước 10 tháng đầu năm ước đạt 36,87 tỷ USD
(tăng 20,7%), trong đó nhập khẩu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
đạt khoảng 13,4 tỷ USD (tăng 19,9%) và nhập khẩu các doanh nghiệp 100% vốn
trong nước đạt 23,4 tỷ USD (tăng 21,1%). Các mặt hàng quan trọng với sản xuất
được nhập khẩu với khối lượng khá
như: máy móc thiết bị ước 5,315 tỷ (tăng 22,9 %), chất dẻo nguyên liệu ước
1,541 tỷ USD (tăng 28,1%), sợi các loại ước 455 triệu USD (tăng 59,1%) điện tử
và máy tính linh kiện ước 1,653 tỷ USD (tăng 20,0%), vải 2,365 tỷ USD (tăng
21,5%), gỗ và nguyên liệu phụ liệu ước 612 triệu USD (tăng 14,4%).
Một số mặt hàng giảm như: ô tô nguyên chiếc (chỉ bằng 69,3%), linh kiện
ô tô (57,4%), linh kiện và phụ tùng xe gắn máy (90,5%), phôi thép (91,3%), dầu
mỡ động thực vật (88,4%).
Nhập siêu 10 tháng đầu năm 2006 khoảng 4 tỷ USD (giảm 2,3%), chỉ
bằng 12,2% tổng kim ngạch xuất khẩu .(Theo HHG&LS)
Nhìn chung, từ đầu năm 2006, tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam đa có những
bước tiến triển đáng chú ý. Guồng máy xuất nhập khẩu vận hành trơn tru từ đầu
năm, trong những ngày nghỉ Tết Nguyên Đán Bính tuất, các cửa khẩu phía bắc
vẫn nhộn nhịp, lần đầu tiên quý I/2006 cán cân thương mại đa cân bằng. Nhập siêu chỉ lộ diện từ quý II, tất
nhiên vẫn chỉ ở mức khiêm tốn. Đáng chú ý là tỷ lệ nhập siêu giảm song vẫn
nhập khẩu được công nghệ nguồn, kỹ thuật mới, công nghệ tiềm năng - đồng
nghĩa với việc nền kinh tế được tăng cường sức vóc.
Kết thúc đầu tháng 10/2006, nhập siêu vào khoảng 4 tỷ USD, chỉ bằng
12,2% tổng kim ngạch xuất khẩu .
3.1.2. Những biến chuyển sau khi gia nhập WTO
a/ Tình hình xuất nhập khẩu những ngày đầu gia nhập WTO:
Những kết quả đa đạt được của chúng ta trong lĩnh vực xuất nhập khẩu

những tháng "hậu gia nhập WTO" đầu tiên có thể nói là rất đáng thất vọng. Nhìn
một cách tổng qt, trong khi xuất khẩu khơng có dấu hiệu tăng tốc rõ ràng, thì ở
đầu vào của nền kinh tế lại có những dấu hiệu hết sức đáng quan tâm.
Cụ thể là, với ước 14,515 tỷ USD trong 4 tháng qua, tuy xuất khẩu vẫn
tăng 22,0%, vượt khá xa so với mức phấn đấu 17,4% của cả năm nay, nhưng đây
vẫn là tốc độ tăng thấp hơn hẳn so với con số 25,1% của cùng kỳ năm 2006 và
11


cũng chỉ mới bằng 31% tổng kim ngạch xuất khẩu 46,756 tỷ USD do Bộ
Thương mại đề ra cho năm nay.
Trong khi đó, với ước 16,776 tỷ USD, nhập khẩu tăng với tốc độ cao gần
gấp rưỡi so với xuất khẩu (32,8%) và cao gấp gần 5,3 lần so với tốc độ tăng
cùng kỳ năm 2006 (6,9%), cho nên cũng đa kịp hoàn thành 32,1% mục tiêu nhập
khẩu trong năm nay (52,3 tỷ USD).
Chính vì sự "lệch pha" giữa hai đoàn tàu xuất nhập khẩu như vậy, cho nên
kim ngạch nhập siêu đa đạt 2,261 tỷ USD và đạt tỷ lệ gần 15,6%. Đây chính là
một xu thế mới trong bức tranh xuất nhập khẩu của nước ta những năm đầu hội
nhập, bởi kim ngạch nhập siêu cùng kỳ năm 2006 chỉ là 730 triệu USD, tức là
chỉ bằng 32,3% mức nhập siêu hiện tại, còn tỷ lệ nhập siêu cùng kỳ năm 2006
chỉ là 6,1%.
Không những vậy, nếu xem xét kỹ lưỡng hơn nữa, bức tranh xuất nhập
khẩu của nước ta hiện nay vẫn còn một điều rất đáng quan tâm khác. Đó là, theo
lơgic hình thức, trong điều kiện gần 2.000 dòng thuế nhập khẩu đa được cắt
giảm khi trở thành thành viên WTO, giá hàng hóa nhập khẩu phải giảm xuống và
chính yếu tố này là động lực thúc đẩy nhập khẩu gia tăng mạnh, nhưng đáng tiếc
thực tế lại khơng phải hồn tồn như vậy. Bởi lẽ, trong danh mục 30 mặt hàng
chủ yếu nhập khẩu của nước ta hiện nay, có một loạt mặt hàng ở trong tình trạng
tốc độ tăng về giá trị nhập khẩu cao hơn so với tốc độ tăng về khối lượng nhập
khẩu. Điều này có nghĩa là, xu thế sốt nóng giá cả trên thị trường thế giới trong

những tháng qua vẫn tiếp tục, cho nên sốt nóng giá cả thế giới càng làm khuếch
đại tốc độ gia tăng nhập khẩu và nhập siêu của nước ta mạnh thêm.
Những ngày đầu gia nhập WTO, xuất nhập khẩu đi ngược lại với những gì
mong đợi, báo động một thời kì tăng bùng nổ nhập khẩu và nhập siêu giống như
những năm đầu của thập kỷ trước. Việc làm thế nào để đẩy xuất khẩu mạnh hơn
nữa, đồng thời kiềm chế nhập khẩu để hạn chế nhập siêu trong thời kỳ "hậu gia
nhập WTO" đa càng trở thành một vấn đề rất bức xúc của một nền kinh tế lệ
thuộc quá nặng nề vào nhập khẩu nguyên liệu như nước ta.
b/ Tình hình xuất nhập khẩu hiện nay
Kim ngạch xuất khẩu năm 2012 vượt xa so với kỷ lục đạt được năm 2011,
cao gấp nhiều lần mức bình quân trong các thời kỳ trước, đạt 114,6 tỷ USD, so
với năm 2011 tăng 18,3 % (mục tiêu 13%). Kết quả xuất khẩu của 2012 tạo nên
nhiều ấn tượng, lần đầu tiên xuất khẩu vượt mốc 100 tỷ USD. Việt Nam đã
chuyển từ vị thế nhập siêu lớn trong các năm trước, lần đầu tiên sau 20 năm trở
lại vị thế xuất siêu.

12


Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu đạt 132,17 tỷ USD, tăng 15,4% so với
năm 2012, tương đương với 17,64 tỷ USD, cao hơn mục tiêu Quốc hội đề ra
(tăng 10%), là năm thứ 2 liên tiếp xuất siêu kể từ khi gia nhập WTO.

Trong năm 2013, đã có 15 thị trường Việt Nam xuất siêu lớn, như Hoa Kỳ,
Tiểu Vương quốc Ả rập Thống nhất, Anh, Campuchia, Hồng Kông, Hà Lan,
Nhật Bản, Đức, Tây Ban Nha, Australia, Áo, Italy, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ. Mức nhập
13


siêu giảm mạnh đã góp phần cải thiện cán cân thanh tốn, tăng dự trữ ngoại hối,

ổn
định
tỷ
giá,
góp
phần
kiềm
chế
lạm
phát…
Nếu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa theo đầu người mới chỉ là 569
USD, năm 2012 đạt 1.249 USD. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình
qn đầu người đạt trên 1.473 USD, cao nhất từ trước đến nay.

Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu chiếm 65,5 % GDP, năm 2013 đã vượt qua mốc
77,5%, cao nhất từ trước đến nay và thuộc loại cao trên thế giới. Tỷ lệ xuất
khẩu /GDP thể hiện xuất khẩu là lối ra, là động lực tăng trưởng của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, cơ cấu hàng xuất khẩu cũng đã chuyển dịch theo hướng tăng
dần tỷ trọng nhóm hàng cơng nghiệp chế biến từ 60% năm 2007 lên 64,4% năm
2012 và 70,7 % năm 2013; nhóm hàng nhiên liệu, khống sản giảm từ 19,5%
xuống cịn khoảng 11,6% năm 2011 và 7,2% năm 2013. Tỷ trọng nhóm hàng
nơng, thủy sản cũng giảm từ 20% (năm 2011) xuống 15% (năm 2013). Trong
các mặt hàng chế biến, tỷ trọng một số mặt hàng có trình độ thiết bị, kỹ thuật cơng nghệ cao như điện thoại, máy tính, sản phẩm điện tử, máy móc thiết bị,
máy ảnh, máy quay phim… tăng lên. Đây là tín hiệu sáng của cơ cấu sản xuất,
xuất khẩu.

14


Năm 2013 có 22 nhóm hàng đạt kim ngạch xuất trên 1 tỷ USD (chiếm 85%

tổng kim ngạch xuất khẩu); 13 nhóm hàng đạt trên 2 tỷ USD (thủy sản, cà phê,
gạo, cao su, dầu thô, đồ gỗ, dệt may, xơ sợi dệt, giày dép, điện thoại, máy móc
thiết
bị,
phương
tiện
vận
tải…)
Trong kết quả xuất nhập khẩu năm 2013, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngồi (FDI) đóng góp 80,91 tỷ USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ năm trước và
chiếm 61,2% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước. Trong khi đó, nhập khẩu của
khu vực FDI là 74,43 tỷ USD, tăng mạnh 24,2% so với cùng kỳ năm 2012 và
chiếm 56,3% tổng trị giá nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Tính chung, năm
2013, khu vực này đã xuất siêu 6,48 tỷ USD. Khu vực doanh nghiệp FDI cao
hơn khu vực kinh tế trong nước cả về tốc độ tăng so với năm trước (cao gấp 10
lần), cả về tỷ trọng trong tổng kim ngạch nhập khẩu (55,8% so với 44,2%).

15


Nguồn: Thống kê Tổng cục Hải quan 2013.
Thị trường xuất khẩu cũng không ngừng được mở rộng và đa dạng hóa.
Tới nay, Việt Nam đã có quan hệ với gần 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cùng
với việc mở rộng ra nhiều thị trường là việc tập trung phát triển các thị trường
lớn. “Câu lạc bộ” thị trường đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên trong năm 2013
đã lên đến con số 27. Đáng lưu ý, lần đầu tiên, Việt Nam có 3 thị trường đạt trên
10 tỷ USD (Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc), đặc biệt là Hoa Kỳ đạt trên 23,7
tỷ USD.
3.1.3. Đánh giá tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong các năm
gần đây

a. Ưu Điểm
* Tốc độ tăng trưởng của ngoại thương Việt Nam khá cao qua các năm
(trung bình trên 20% năm) và cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền sản xuất xã
hội (cao hơn khoảng 2-3 lần). Điều đó làm cho quy mơ của kim ngạch xuất nhập
khẩu cũng tăng lên nhanh chóng, có thể thấy rõ điều này qua bảng số liệu trên.
Những thành quả trên đạt được là do chính sách mở cửa của Đàng và Nhà nước
ta trong những năm qua.
* Thị trường trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam ngày càng mở
rộng và đãchuyển mạnh từ đơn thị trường ra thành đa thị trường. Trước năm
1986 thị trường chủ yếu của ta là Liên Xô và Đông Âu (chiếm khoảng 80% kim
ngạch xuất khẩu).Từ năm 1987 với chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà Nước
theo hướng đa phương hoá trong quan hệ bạn hàng đa dạng hoá trong các lại sản
phẩm như hiện nay Việt Nam đãcó quan hệ bn bán với hơn 165 quốc gia trên
thế giới, trong đó ký hợp đồng thương mại song phương với 72 nước. Các bạn
hàng lớn nhất của Việt Nam hiện nay là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc,
Singapore, Trung Quốc, Mỹ, EU...Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của
WTO đang và sẽ giúp nền kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng trong thời gian
qua và những năm tới
* Nền kinh tế Việt Nam đãtừng bước xây dựng những mặt hàng quy mô
lớn được thị trường thế giới chấp nhận: dầu khí, gạo, thuỷ sản, dệt may, giày
dép…
Việc xây dựng những mặt hàng trên cho phép chúng ta khai thác những lợi
thế so sánh của nền kinh tế trong phân công lao động và hợp tác quốc tế
* Nền ngoại thương Việt Nam đãchuyển dần từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế hoạch toán kinh doanh, phát huy quyền tự
chủ cho các doanh nghiệp, chuyển từ việc vay nợ nước ngoài để nhập khẩu là
16


chủ yếu sang đầy mạnh xuất khẩu để lấy kim ngạch xuất khẩu trang trải cho

nhập khẩu, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động ngoại thương.
* Cùng với qua trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, sự
tham gia vào các định chế kinh tế quốc tế và đàm phán gia nhập các tổ chức kinh
tế khu vực và toàn cầu, cơ chế chính sách của Việt Nam đãđược đổi mới mạnh
mẽ theo hướng tăng tự do hoá thương mại đầu tư, giảm thiểu mức can thiệp của
Nhà nước vào lĩnh vực bn bán quốc tế. Điều đó đóng góp thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ của ngoại thương Việt Nam
b. Nhược điểm
* Quy mơ xuất nhập khẩu cịn q nhỏ bé so với các quốc gia trong khu
vực Đông Nam Á
* Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cịn trong tìnhtrạng lạc hậu,
chất lượng thấp, mặt hàng manh mún, sức cạnh tranh yếu (gần 40% kim ngạch là
hàng nông, lâm, thuỷ sản, trên 20% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là hàng
nguyên liệu, hàm lượng khoa học cơng nghệ thấp, do đó chịu nhiều thua thiệt
trong thương mại quốc tế.
* Thị trường ngoại thương Việt Nam còn nhiều bấp bênh chủ yếu là thị
trường các nước trong khu vực và các thị trường qua trung gian, còn thiếu những
hợp đồng lớn và dài hạn.
* Kim ngạch xuất khẩu hàng hố ln thấp hơn kim ngạch nhập khẩu.
Cán cân thương mại chưa cân bằng, nhập siêu thường xuyên xảy ra.
* Công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu cịn thiếu đồng bộ và nhất
qn, khi thì bng lỏng dễ dõi. Trong hoạt động xuất nhập khẩu, nhiều doanh
nghiệp Việt Nam chưa giữ chữ tín với bạn hàng, nhiều khi giao hàng không đúng
chất lượng quy định bị phạt hợp đồng gây hậu quả nghiêm trọng trình độ nghiệp
vụ ngoại thương của nhiều cán bộ còn non kém.
* Tìnhtrạng bn lậu, gian lận thương mại đây là vấn đề quốc nạn cần
sớm được giải quyết.
* Trong cơ chế chính sách đang tiếp tục được đổi mới theo hướng nới lỏng
sự can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực bn bán quốc tế, nhưng hiện tại cơ chế
chính sách cũng như việc tổ chức thực thi bộc lộ nhiều bất cập.

c. Nguyên nhân
* Dù đãphát triển tương đối nhanh trong thời gian vừa qua nhưng nhìn
chung nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế chậm phát triển.
* Doanh nghiệp trong nước vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với nước ngồi.
* Nhà nước chưa tạo ra những mơi trường thật sự thuận lơi cho xuất khẩu,
nhiều quy chế cịn chậm đổi mới.
* Hoạt động xuất khẩu khơng chính ngạch tăng, các hoạt động buôn lậu
vẫn chưa được ngăn chặn cụ thể.
17


3.2. Thực trạng chính sách XNK của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
3.2.1. Nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ
mậu dịch theo các giai đoạn hội nhập
a/ Giai đoạn thăm dò hội nhập (1988-1991)
Trong giai đoạn này, Việt Nam thực hiện cơng nghiệp hố khơng rõ ràng
nhưng có xu hướng thay thế nhập khẩu và cởi bỏ dần các hạn chế xuất khẩu,
thực hiện hồn thiện các chính sách tài chính, thuế như mở cửa sàn giao dịch
ngoại hối vào năm 1991, ban hành thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế doanh thu, thuế lợi nhuận vào năm 1990.
Chính sách xuất nhập khẩu và các quy định về thương mại được thơng
thống hơn theo đó các doanh nghiệp tư nhân được trực tiếp tham gia vào
thương mại quốc tế vào năm 1991 và thành lập các khu chế xuất. Tuy nhiên, một
số hàng hoá vẫn bị giới hạn xuất khẩu ở một số ít cơng ty và các tổng cơng ty
xuất khẩu vẫn phải đăng ký nhóm hàng hố xuất khẩu với cơ quan quản lý nhà
nước.
b/ Giai đoạn khởi động hội nhập (1992-2000)
Tính đến năm 2000, các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế ở
Việt Nam vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Chính sách thương mại
quốc tế của Việt Nam có xu hướng thay thế nhập khẩu. Đặc điểm nổi bật trong

việc hoàn thiện chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam ở giai đoạn này là
khơng có một lịch trình giảm thuế cụ thể.
Trong giai đoạn này, nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hoá và bảo hộ
mậu dịch của Việt Nam trong chính sách xuất nhập khẩu khơng có nhiều thay
đổi so với giai đoạn thăm d. hội nhập. Việt Nam vẫn theo đuổi một chiến lược
cơng nghiệp hố không rõ ràng. Việt Nam vừa muốn thực hiện công nghiệp hoá
thay thế nhập khẩu vừa muốn hướng vào xuất khẩu. Xu hướng hướng vào xuất
khẩu được ưu tiên hơn thể hiện ở việc thơng thống hơn thủ tục xuất khẩu và thủ
tục nhập khẩu như b.i bỏ hầu hết các giấy phép nhập khẩu chuyến vào năm
1995, dỡ bỏ quyền kiểm sốt bn bán gạo vào năm 1997, khuyến khích
các doanh nghiệp xuất khẩu trong đó có doanh nghiệp FDI. Kể từ năm 1998, các
doanh nghiệp FDI được xuất khẩu những hàng hố khơng có trong giấy phép
đầu tư. Năm 1993, Chính phủ cho phép nợ thuế đầu vào xuất khẩu. Các lệnh
cấm nhập khẩu tạm thời hàng tiêu dùng hay cấm nhập khẩu đường vào năm
1997 trong chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam khơng hồn tồn nhằm bảo
hộ thị trường nội địa.
c/ Giai đoạn tăng cường hội nhập (2001-nay)
Trong giai đoạn này, Việt Nam là có xu hướng hướng vào xuất khẩu. Tuy
nhiên, dường như mục tiêu và phương pháp cơng nghiệp hố chưa được thống
18


nhất giữa các cấp, các ngành dẫn đến tìnhtrạng đi theo chứ chưa chủ động hội
nhập.
Các danh mục hàng hoá và thuế suất nhập khẩu chủ yếu ban hành theo các
hiệp định mà Việt Nam đã ký kết với EU (Châu âu), ASEAN (Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á), Hoa Kỳ, Canada. Một mặt, Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu
như cho phép xuất khẩu không hạn chế theo ngành nghề ghi trong giấy phép
kinh doanh vào năm 2001, ban hành danh mục biểu thuế ưu đãi hàng năm, đàm
phán ASEAN và ASEAN mở rộng cũng như ban hành quy trình xét miễn, giảm

và hồn thuế xuất khẩu và nhập khẩu vào năm 2005, đẩy mạnh đàm phán và
chính thức gia nhập WTO vào 11/01/2007. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn lúng
túng trong việc giải quyết việc bảo hộ thị trường nội địa cho một số ngành hàng
như ô tô, sắt thép, điện tử…
3.2.2 Thực trạng hồn thiện các cơng cụ thuế quan.
Đối với thuế nội địa, cam kết WTO cuả Việt Nam tập trung vào thuế tiêu
thụ đặc biệt (TTĐB). Quy định hiện hành có sự phân biệt đối xử nhất định đối
với một số mặt hàng chủ yếu hình thành từ hoạt động nhập khẩu. Điều này
địihỏi Việt Nam phải cam kết thay đổi những quy định liên quan để tuân thủ
nghĩa vụ theo quy định điều III cuả GATT 1994. Theo đó, sản phẩm bia, rượu
địi hỏi phải được điều chỉnh theo lộ trình để phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc
lựa chọn tiêu dùng, sản xuất loại bia nào trở nên đơn giản với người tiêu dùng và
nhà sản xuất, nhập khẩu cũng nhhư nhà quản lý trong vòng 3 năm tới Việt Nam
sẽ áp dụng thống nhất
thuế tiêu thụ đặc biệt với tất cả các loại bia mà khơng phụ thuộc vào hình thức
đóng gói. Với rượu, tiêu chí để phân định mức thuế suất phân hoá theo nồng độ
cuả rượu. Rượu trên 20 độ cồn hoặc phải áp dụng một mức thuế tuyệt đối tính
trên lít hoặc một mức thuế suất tỉ lệ đơn nhất. Những thay đổi này được thực
hiện trong lộ trình 3 năm kể từ ngày cam kết. Với cam kết này, những đối tượng
khác chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ngồi rượu và bia sẽ khơng có thay đổi nào về
nghi. vụ thuế TTĐB.
Đối với thuế nhập khẩu, câu trả lời tại sao hàng hoá nhập khẩu trở nên rẻ
hơn và dễ t.m mua hơn là do Việt Nam cam kết ràng buộc mức trần cho toàn bộ
biểu thuế nhập khẩu với 10.600 d.ng thuế sẽ có mức thuế bình qn giảm
khoảng 3% - từ 17,4% cịn 13,4%. Lộ trình cắt giảm trong vịng 5-7năm kể từ
thời điểm cam kết. Đặc biệt là mặt hàng nông nghiệp đãtừ lâu ta xem là mặt
hàng chủ lực cuả Việt Nam bị cắt giảm tương tự- từ 23,5% xuống còn 20,9%
trong vòng 5 năm.
Với hàng cơng nghiệp là .từ 16,8% xuống cịn 12,6% trong thời gian từ 57năm. Mức cắt giảm bình quân thuế nhập khẩu Việt Nam tuân thủ mức cắt giảm
19



thuế chung tại vòng Urugoay là vào khoảng 27% (30% cho hàng nông sản, 24%
co hàng công nghiệp) đối với các nước đang phát triển.
Theo mức cam kết cụ thể thì có khoảng hơn 1/3 số d.ng thuế bị cắt giảm chủ yếu
là d.ng thuế suất cao trên 20% chẳng hạn như sản phẩm thịt, sữa, bia, rượu,
thuốc lá, hoặc xe ơtơ, xe máy, xi măng, máy điều hồ, máy giặt trong khoảng
thời gian 2-12 năm tới đây sẽ có được mức giá rẻ nhất so với thị trường vào thời
điểm hiện nay do đạt đến mức thuế suất cam kết thấp nhất. Tuy nhiên những mặt
hàng trọng yếu vẫn được duy trì mức bảo hộ nhất định. Ngành có mức thuế suất
được giảm nhiều nhất là dệt may, cá, sản phẩm cá, gỗ và giấy, máy móc và thiết
bị điện-điện tử. Bên cạnh đó cũng có trường hợp Việt Nam cam kết mức thuế
trần cao hơn mức đang áp dụng với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hố chất và
phương tiện vận tải.
Theo cam kết cắt giảm thuế tuân thủ một số hiệp định tự do theo ngành
của WTO yêu cầu giảm thuế xuống còn 0% hoặc ở mức thấp. Đây là hiệp định
tự nguyện nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Việt
Nam cam kết ngành đối với sản phẩm công nghệ thông tin , dệt may và thiết bị y
tế và tham gia một phần với thời gian thực hiện 3-5 năm đối với ngành thiết bị
máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng.
Hạn ngạch thuế quan không phải là thuế nhưng có mối quan hệ với việc
xác định tính hợp pháp của hàng nhập khẩu để đánh thuế. Việt Nam bảo lưu
quyền áp dụng đối với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. Quy định này
thực tế chỉ liên quan đến số lượng hàng nhập khẩu trên thị trường.
Bên cạnh đó cũng cần phải kể đến cam kết về việc xác định trị giá hải
quan (customs valuation). Xác định trị giá hải quan là căn cứ định giá tính thuế
xuất khẩu hoặc nhập khầu, từ đó xác định được số tiền thuế xuất khẩu hay nhập
khẩu tương ứng. Hiện nay Việt Nam quy định trị giá hải quan được xác định căn
cứ vào “giá hợp đồng”. Trên thực tế, quy định này không đồng nghi. với việc xác
định trị “trị giá giao dịch” được quy định tại Thoả thuận bổ sung cuả Điều 7 (về

trị giá hải quan) trong Thoả thuận chung về thuế quan và thương mại 1994.
Chính vì thế Việt Nam cam kết sẽ có sự đổi mới để tương thích, trong đó có việc
ban hành những quy định về trình tự, thủ tục xác định trị giá hải quan.
Có vẻ như những cam kết trên khơng có liên quan g. đến thuế Giá trị giá
tăng (GTGT). Thực chất không hẳn như vậy. Bởi lẽ thuế GTGT cũng là một
trong ba nghi. vụ thuế hình thành khi thực hiện hành vi nhập khẩu. Giá tính thuế
GTGT trong trường hợp này là tổng của giá giao dịch (mua hàng) với thuế nhập
khẩu và thuế TTĐB (nếu đây là hàng chịu thuế TTĐB). VÌ thế một khi thuế suất
thuế nhập khẩu giảm dẫn đến số tiền thuế NK tương ứng giảm, hệ quả là số tiền
thuế TTĐB (nếu có) và tiền thuế GTGT giảm theo do giá tính thuế thấp xuống
tương ứng. Tất cả những thuế này đều là thuế gián thu nên sẽ cấu thành trong giá
bán trên thị trường, vì thế thuế thấp sẽ kéo theo giá hàng hoá giảm.
20


Vậy là theo lộ trình mà Việt Nam cam kết thì với một khoảng thời gian
nhanh nhất là ngay sau khi gia nhập và chậm nhất là 12 năm kể từ khi gia nhập,
chúng ta có thể vui mừng vì người tiêu dùng Việt Nam sẽ được mua hàng nhập
khẩu chất lượng cao với giá rẻ. Ước lượng mức bình quân có thể rẻ hơn hiện nay
khoảng chừng gần 30% so với giá thị trường hiện tại (với điều kiện giá giao dịch
khơng đổi). Mặc dù bên cạnh đó cịn nhiều nỗi lo chung quanh việc cắt giảm
thuế sẽ khiến cho hàng hóa sản xuất trong nước bị cạnh tranh quyết liệt bởi hàng
nhập khẩu. Vấn đề không nằm ở chỗ quy định về thuế, mà câu trả lời nằm chính
ở việc định chuẩn cho hàng hóa nhập vào thị trường Việt Nam, ở chỗ chúng ta
không dung túng cho việc coi thường người tiêu dùng do việc nhà sản xuất đưa
ra thị trường những sản phẩm kém chất lượng vì thiếu tính cạnh tranh. Nhìn xa
hơn đó cịn là bài tốn cho sự đổ bộ về cơng nghệ, nguồn nguyên liệu chất lượng
cao, giá rẻ, từ đó có tác dụng kích thích các giao dịch được xác lập nhiều hơn, đa
dạng hơn, với quy mô lơn hơn, nguồn thu thuế từ đó cũng dồi dào hơn. Chính
sách xuất nhập khẩu của Việt nam đãchuyển từ thay thế nhập khẩu sang hướng

xuất khẩu. Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng hướng vào xuất khẩu là hồn tồn
phù hợp vì Việt Nam cần thiết phải là một bộ phận của nền kinh tế thế giới và
phải tham gia có hiệu quả vào mạng lưới sản xuất khu vực và thế giới.
Trên giác độ cơng cụ của chính sách xuất nhập khẩu, hệ thống thuế ở Việt
Nam có thể được đánh giá như sau:
Một là, hệ thống thuế được thay đổi phù hợp với các cam kết quốc tế mà
Việt Nam tham gia. Điều này thể hiện ở việc biểu thuế hàng hoá nhập khẩu của
Việt Nam ngày càng phù hợp hơn với Hệ thống phân loại hàng hoá và m. số của
Tổ chức hải quan thế giới và hệ thống biểu thuế quan hài hồ.
Hai là, thơng tin về việc cắt giảm thuế ngày càng rõ ràng hơn. Thông tin
về việc cắt giảm thuế được cập nhật thường xuyên và phổ cập tới toàn bộ các
doanh nghiệp và những đối tượng quan tâm. Việc thực hiện cải cách thủ tục hành
chính và áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước tại các ngành
thương mại, tài chính có tác động tích cực tới việc phổ cập thơng tin về cắt giảm
thuế.
Ba là, việc thay đổi, điều chỉnh thuế suất cịn đột ngột. Tìnhtrạng này là
do thiếu sự phối hợp giữa Bộ Tài chính, Bộ Cơng nghiệp và các doanh nghiệp
trong ngành. Bên cạnh đó, cơng tác tun truyền và chuẩn bị cho việc ban hành,
điều chỉnh các chính sách cịn kém. Mặc dù Bộ Tài chính và các Bộ chuyên
ngành khẳng định vai trì tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp
nhưng trên thực tế khi mà doanh nghiệp cịn ít tham gia vào q trình hoạch định
chính sách của Chính phủ thì khó tránh khỏi việc các chính sách bị xa rời thực
tiễn kinh doanh.

21


3.2.3. Thực trạng hồn thiện các cơng cụ phi thuế quan
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc sử dụng các biện pháp phi
thuế quan trong chính sách xuất nhập khẩu không phải là một biện pháp lâu dài.

Chẳng hạn, trong khn khổ WTO, các chính phủ phải minh bạch hố chính
sách và chuyển dần việc quản lý bằng các công cụ phi thuế quan sang thuế quan.
Hiện tại, ở Việt Nam, hệ thống các công cụ phi thuế quan chưa được Bộ Công
thương hay bất cứ cơ quan nào thống kê theo dõi và điều chỉnh.
Các công cụ phi thuế quan đang do các cơ quan khác nhau quản lý nhưng không
trực tiếp được sử dụng như một cơng cụ của chính sách xuất nhập khẩu.
Ví dụ, Bộ Công thương quản lý hạn ngạch, hạn ngạch thuế quan, các biện pháp
hành chính. Bộ Cơng thương, Bộ Khoa học và Cơng nghệ quy định tỷ lệ nội địa
hố. Tín dụng xuất khẩu lại do Ngân hàng Phát triển và các ngân hàng thực hiện.
Thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu và cấp giấy chứng nhận xuất xử còn tách rời
dẫn đến doanh nghiệp mất thời gian khi thực hiện thủ tục xuất khẩu. Quy chế hỗ
trợ tín dụng xuất khẩu chưa có định hướng ưu tiên cho các doanh nghiệp có uy
tín, có tình hình tài chính lành mạnh. Hơn nữa, diện các mặt hàng được hưởng
ưu đãi về tín dụng xuất khẩu cịn dàn trải. Cơng việc theo dõi, điều chỉnh các
công cụ phi thuế quan gặp khoá khăn do quy định phải xem xét biện pháp đó có
hạn chế thương mại hay khơng.
Thơng tin về việc nước ngoài áp dụng các biện pháp phi thuế đối với hàng
hoá Việt Nam cũng chưa được thực hiện một cách hệ thống. Việt Nam chưa xây
dựng cơ sở dữ liệu thông tin về các biện pháp phi thuế cũng như chưa xây dựng
danh mục các mặt hàng dễ bị áp dụng các biện pháp phi thuế. Ví dụ, trong
trường hợp các hàng hoá của Việt Nam bị cáo buộc phá giá, Việt Nam đã lúng
túng trong giải quyết và phịng ngừa…
Việt Nam cịn ít sử dụng các biện pháp như hạn ngạch thuế quan, các
khoản mua sắm của chính phủ. Việc sử dụng các khoản tín dụng xuất khẩu,
thưởng xuất khẩu… đang được điều chỉnh. Tuy nhiên, đối tượng chủ trì các
chương trình xúc tiến thương mại cịn giới hạn ở một số ít cơ quan.
3.2.4. Thực trạng phối hợp hồn thiện chính sách xuất nhập khẩu của
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Về mặt nhận thức, Việt Nam chưa thực hiện hồn thiện chính sách thương
mại quốc tế một cách hệ thống. Bộ Thương mại xem xét dưới góc độ chính sách

xuất nhập khẩu. Bộ Tài chính xem xét dưới góc độ chính sách thuế. Bộ Cơng
nghiệp xem xét dưới góc độ chính sách cạnh tranh, chính sách ngành. Từ đó,
chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa các
cơ quan chức năng. Các cơ quan thực hiện nhiệm vụ theo quyền hạn, nhiệm vụ
do chính phủ quy định. Những công việc mới phát sinh thường mất thời gian để
quyết định ai sẽ thực hiện và thực hiện như thế nào.
22


Thực trạng phối hợp hồn thiện chính sách xuất nhập khẩu trong điều kiện
hội nhập cho thấy Việt Nam rất cần một cơ quan đầu mối (với đầy đủ quyền hạn,
nguồn lực và trách nhiệm) phối hợp hoạt động hoàn thiện giữa các bộ, ngành
liên quan. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước cần được tham gia nhiều hơn vào
quá, trình hoạch định và thực hiện chính sách.

CHƯƠNG IV: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HỒN
THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
4.1. Quan điểm và Định hướng hoàn thiện chính sách thương mại
quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
4.1.1. Quan điểm
Một là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế phải chủ động gắn liền với mục tiêu cơng nghiệp hố và các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hai là, việc hồn thiện chính sách thương mại quốc tế là một trong các
hoạt động góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của Việt Nam.
Ba là, việc hồn thiện chính sách thương mại quốc tế phải đảm bảo tuân
thủ các nguyên tắc chung, thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ thành viên của các tổ
chức khu vực và quốc tế mà Việt Nam tham gia nhưng khơng bó buộc trong một

lịch trình nhất định.
Bốn là, việc hồn thiện chính sách thương mại quốc tế phải đảm bảo sự
tham gia của không chỉ các cơ quan quản lý nhà nước (hoạch định và thực thi
chính sách) mà cả các đối tượng khác như cộng đồng doanh nghiệp (các hiệp
hội, các doanh nghiệp) và giới nghiên cứu. Sự tham gia của các cơ quan quản lý
nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, và giới nghiên cứu thể hiện bằng việc chia
xẻ trách nhiệm, nguồn lực và lợi ích trong việc hồn thiện chính sách thương
mại quốc tế.
Năm là, việc hồn thiện chính sách thương mại quốc tế phải đảm bảo khai
thác được lợi thế của nước đi sau trong hội nhập kinh tế quốc tế.
4.1.2. Định hướng
Mơ hình thương mại mang tính chất: phát triển kinh tế theo định hướng
xuất khẩu, cụ thể là chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất
23


khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến, chế tạo, sản
phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất
khẩu thô, đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ và theo xu hướng tự do hóa thương mại
hạn chế bảo hộ mậu dịch đến mức tối đa.
4.2. Giải pháp nhằm hồn thiện chính sách thương mại quốc tế của
Việt Nam
4.2.1. Tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ
giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch
Việc tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa
tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch về chính sách xuất nhập khẩu là công
việc liên quan đến sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và sự thực thi của các cơ
quan liên quan, đặc biệt là các bộ ngành (trực tiếp là Bộ Công thương).
Mục tiêu phù hợp nhất của chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam là
thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên

thị trường thế giới (và trong nước). Định hướng chính sách xuất nhập khẩu của
Việt Nam cần chỉ ra những ưu tiên chính trong số nhiều ưu tiên của Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội. Định hướng chính sách cũng cần bao gồm các vấn đề
như cách thức hỗ trợ các ngành thay thế nhập khẩu và những cam kết đảm bảo
việc duy trì ổn định các chính sách hỗ trợ. Tất cả những biện pháp này cần đặt
trong một hệ thống được theo dõi, đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp với
những thay đổi.
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh tự do hoá
thương mại (song phương, khu vực và đa phương) và bảo hộ có chọn lọc một số
mặt hàng.
4.2.2. Tiếp tục hồn thiện các cơng cụ của chính sách xuất nhập khẩu
a. Minh bạch hố và vận dụng linh hoạt cơng cụ thuế quan
Bộ Tài chính cần vận dụng linh hoạt biên thay đổi thuế để tạo sự thuận lợi cho
hàng hoá Việt Nam. Việc vận dụng linh hoạt biểu thuế là hành động phù hợp với
các nguyên tắc và quy định của WTO. Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia cần
thực hiện bảo hộ đơn giản thông qua thuế. Việc áp dụng thuế VAT, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thay đổi biên thuế trong điều kiện khẩn cấp, thuế chống trợ cấp và bán
phá giá là không vi phạm với WTO. Hệ thống thuế của Việt nam đang được thay
đổi theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, để thuế quan thực sự là một
công cụ của chính sách xuất nhập khẩu, Việt Nam khơng những cần đảm bảo sự
nghiêm túc trong thực hiện các cam kết mà cịn phải biết vận dụng linh hoạt
cơng cụ này.
24


Bộ Tài chính, các bộ ngành và các hiệp hội tiếp tục thực hiện minh bạch
hố thơng tin về cắt giảm, điều chỉnh thuế và phối hợp với cộng đồng doanh
nghiệp để tăng tính dự đốn trong việc điều chỉnh thuế. Đây là nội dung được ưu
tiên trong số các giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam. Trước hết việc cập nhật những thông tin về những điều chỉnh thuế cần

được tiếp tục đưa lên các trang web của Quốc hội, Bộ Tài chính, Bộ Công
thương, Tổng cục Hải quan và các hiệp hội. Tiếp theo, việc áp dụng và điều
chỉnh các loại thuế gián tiếp như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi nhuận cần được
rà soát để đảm bảo phục vụ mục tiêu phát triển ngành. Bên cạnh đó, cơng tác
tun truyền cho việc điều chỉnh thuế cần được quan tâm. Các hiệp hội cần đóng
vai trì là cầu nối giữa các bộ ngành và doanh nghiệp để đảm bảo nguyên tắc lấy
doanh nghiệp là trung tâm trong q trình hồn thiện.
Để đảm bảo thực hiện giải pháp này, các hiệp hội phải chủ động đề xuất
các diễn đàn và hình thức trao đổi với Bộ Tài chính, Bộ Cơng thương và các bộ
ngành liên quan. Các bộ ngành cần tích cực tham gia, đảm bảo có phân cơng
trách nhiệm cho các bộ phận liên quan và tiến hành theo dõi đánh giá công tác
phối hợp này.
b. Sử dụng một cách hệ thống một số công cụ phi thuế quan
Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia thành viên được quyền sử dụng hạn
ngạch thuế quan. Bộ Công thương cần xem xét sử dụng nhiều hơn công cụ này.
Sự khác biệt giữa mức thuế trong hạn ngạch và ngoài hạn ngạch thường rất lớn
(thường là gấp đôi). Tuy nhiên, việc quyết định sử dụng hạn ngạch thuế quan
cho mặt hàng nào không thể chỉ phụ thuộc vào một tính tốn về lợi thế so sánh
hiện hữu đơn giản. Do đó, khi quyết định lựa chọn mặt hàng thực hiện áp dụng
hạn ngạch thuế quan, Bộ Công thương cũng cần dựa trên phương pháp chuyên
gia và thực hiện lấy . kiến từ doanh nghiệp trong ngành.
Một thực tế ở Việt Nam là ngày càng hạn chế sử dụng giấy phép nhập
khẩu và lệnh cấm nhập khẩu. LÝ do được đưa ra là các quy định này không phù
hợp với các quy định của WTO và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Tuy nhiên, kinh nghiệm thế giới cho thấy không quốc gia nào bỏ hồn tồn hai
cơng cụ này. Malaysia thậm chí cịn tăng cường việc cấp giấy phép nhập khẩu
khi đãtrở thành thành viên của WTO. Việt Nam không “tăng cường” nhưng cũng
khơng nên loại bỏ hồn tồn việc cấp giấy phép nhập khẩu, đặc biệt là khi Việt
Nam cần tiếp tục bảo hộ một số ngành trong nước (ví dụ như thép xây dựng, hoa
quả, thực phẩm, đồ chơi trẻ em..).

Các thành viên WTO vận dụng việc sử dụng giấy phép và lệnh cấm với
nhiều lý do như bảo về ngành công nghiệp, bảo vệ sức khoẻ, môi trường, bảo vệ
lợi ích người tiêu dùng, bảo vệ các di sảnvà truyền thống văn hố. Để sử dụng có
25


×