Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

bài thu hoạch diễn án hành chính số 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.43 KB, 16 trang )

Dear ! các bạn sinh viên, học viên ngành Luật, hôm nay chúng
tôi xin gửi đến các bạn hồ sơ danh cho lớp đào tào Luật sư. Hồ
sơ này dùng để diễn án hành chính. Cụ thể là khởi kiện quyết
định hành chính về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hồ
sơ mang mã số LS.HC 10 / B7-DA.
luật sư diễn án hành chính
Diễn án lớp luật sư
Sau đây chúng tơi xin trình bày lại tồn văn một bài diễn án
hoàn chỉnh, để giúp các bạn tham khảo.
* Lưu ý: nếu cá nhân, tổ chức nào trích dẫn, xin vui lịng ghi rõ
nguồn từ trang web của chúng tơi. Xin cảm ơn.

NỘI DUNG

I/.TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 23/05/2016, bà Nguyễn Thị Ngợi, sinh ngày 20/10/1935
(thường trú tại: Thôn Thanh Liễu, xã Tân Hưng, thành phố Hải
Dương, tỉnh Hải Dương) nộp đơn khởi kiện Ủy ban nhân dân
thành phố Hải Dương về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử


dụng đất cho ông Nguyễn Hữu Phong và bà Nguyễn Thị
Nghiêm.
Trước đó vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngợi và ơng Nguyễn Hữu
Đặt có thửa đất số 195 và 192, số tờ 07 – Xứ Đồng, Thanh Liễu.
Diện tích 785 m² đất thổ và 150 m² đất ao. Gia đình bà Ngợi,
ơng Đặt có 05 người con, nhưng ơng bà chưa giao quyền sử
dụng đất cho ai.
05 người con gồm:
1. Nguyễn Thị Đón, sinh năm 1963
2. Nguyễn Hữu Phong, sinh năm 1966


3. Nguyễn Thị Phú, sinh năm 1968
4. Nguyễn Thị Thao, sinh năm 1973
5. Nguyễn Thị Thảo, sinh năm 1976
Đều thường trú tại: thôn Thanh Liễu, xã Tân Hưng, thành phố
Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Lý do khởi kiện là khi xã Tân Hưng còn thuộc huyện Gia Lộc,
tỉnh Hải Dương. Lúc này ông Nguyễn Hữu Phong và vợ là
Nguyễn Thị Nghiệm đã làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất và nộp cho Ủy ban nhân dân xã Gia Lộc và ngày
01/12/2002. Từ đó, Ủy ban nhân dân xã Tân Hưng đã lập danh
sách gửi lên Ủy ban nhân dân huyện Gia Lộc. Căn cứ vào danh
sách gửi lên từ xã Tân Hưng, thì Ủy ban nhân dân huyện Gia
Lộc đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 734508,
tờ bản đồ số 3 cho vợ chồng ông Nguyễn Hữu Phong - Nguyễn
Thị Nghiêm.


Đến ngày 15/01/2016 bà Nguyễn Thị Thao đi lao động nước
ngồi về, có đề nghị bà Ngợ đồng ý cấp bìa đỏ cho các con. Đến
lúc đó mới biết ơng Nguyễn Hữu Phong và vợ Nguyễn Thị
Nghiệm đã tự động làm giấy và đứng tên trong “Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất” rồi.
Bà Ngợi cho rằng việc cấp bìa như vậy là sai. Vì đất này là
nguồn gốc do bà Ngợi và ông Đặt (chồng bà) tạo dựng được.
Khi ông Đặt chết (22/02/2001) không để lại di chúc cho ai.
Do vậy bà nộp đơn lên Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương
đề nghị giải quyết. Vì lúc này xã Tân Hưng đã sát nhập về thành
phố Hải Dương, không cịn thuộc huyện Gia Lộc nữa.
II/ KẾ HOẠCH HỎI.
Mục đích hỏi để là sáng tỏ các sự việc, đồng thời chứng minh

yêu cầu trong đơn khởi kiện của bà Ngợi là có căn cứ và hợp
pháp
1. Hỏi Người bị kiện (Đại diện ủy ban nhân dân thành phố Hải
Dương)
1.1 Vị đại diện Ủy ban nhân dân thành phố Hải Dương (sau đây
gọi là ông/bà) hãy cho biết những căn cứ để cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ?
1.2 Trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ
chồng ông Nguyễn Hữu Phong và bà Nguyễn Thị Nghiệm, đã áp
dụng văn bản nào ?
1.3 Ông Phong và bà Nghiêm nộp đơn xin cấp đất có kèm theo
giấy tờ gì nữa khơng ? Nếu có, tại sao khơng thấy trong hồ sơ vụ
án ?


1.4 Ơng/bà hãy cho biết quy trình cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất?
1.5 Trong Luật đất đai 2003 có quy định rõ về trình tự, thủ tục
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vậy ơng/bà có biết điều
này hay không ?
1.6 Tại trang số 8 trong hồ sơ vụ án có ghi thời điểm cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phong, bà Nghiêm là
ngày 10/10/2004 có đúng khơng? Lúc này luật đất đai 2003 đã
có hiệu lực rồi đúng không ?
1.7 Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có tiến hành
đo vẽ hiện trạng thửa đất khơng ? Có xác định vị trí đất không ?
1.8 Trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ơng
Phong, bà Nghiệm là loại đất gì ?
1.9 Ơng Hồ Đăng Dũng – Phó Chủ tịch UBND thành phố Hải
Dương trình bày quan điểm về vụ án này trong văn bản ngày

22/8/2016 (trang 42, 43 trong hồ sơ) đã khẳng định việc cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là sai? Vậy tại sao không
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Phong, bà
Nghiêm ?
2. Hỏi người có quyền và nghĩa vụ liên quan (Hỏi ông Nguyễn
Hữu Phong).
2.1 Ông Phong cho biết, mối quan hệ của ơng với bà Ngợi là
gì ?
2.2 Ơng Phong cho biết, ông nộp đơn xin cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ngày tháng năm nào ?


2.3 Ơng Phong cho biết ơng được cấp diện tích đất bao nhiêu ?
thuộc tờ bản đồ số mấy, thửa số mấy ?
2.4 Ơng Phong cho biết, ơng có nhận giấy ủy quyền hay giấy
cho tặng từ cha mẹ đẻ (ơng Đặt, bà Ngợi) khơng ?
2.5 Ơng Phong cho biết, khi ơng Đặt (cha đẻ của ơng) chết có để
lại di chúc gì cho ơng khơng ? nếu có tại sao khơng có trong hồ
sơ vụ án ?
2.6 Tại sao trong đơn xin cấp đất ngày 01/02/2002 đứng tên ông
mà ông lại không ký tên hay điểm chỉ, lại để cho một mình vợ
ơng ký tên.
3. Hỏi người khởi kiện (bà Nguyễn Thị Ngợi ủy quyền cho bà
Nguyễn Thị Nhàn)
3.1 Bà Nhàn hãy cho biết nguồn gốc thửa đất số 195, 192 tờ bản
đồ số 7 và thửa đất số 334 tờ bản đồ số 3 ?
3.2 Người khởi kiện cho biết, việc phát hiện ra ông Phong và bà
Nghiêm đứng tên trên sổ đất từ khi nào ?
3.3 Việc ông Phong và vợ là bà Nghiêm nộp đơn làm Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất có được sự đồng ý của bà Ngợi

hay không ?
3.4 Khi Ủy ban nhân dân xã Tân Hưng cử cán bộ xuống đo vẽ
bản đồ đất có thơng báo cho bà Ngợi biết về việc sẽ cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ơng Phong hay
khơng ?
3.5 Tại phiên tịa hơm nay, ngoài yêu cầu về hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ơng Phong, bà Nghiêm ra
thì người khởi kiện có cịn u cầu gì khác nữa không ?


III/ LUẬN CỨ BẢO VỆ .
Phần mở đầu:
Kính thưa HĐXX, thưa vị đại diện VKS, thưa các vị luật sư
đồng nghiệp cùng tồn thể q vị đang có mặt tại phiên tịa ngày
hơm nay.
Tơi là luật sư N.T.H – Thuộc văn phịng Luật sư SG thuộc Đồn
Luật sư thành phố Hải Dương. Tơi tham gia phiên tồ hơm nay
với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
khởi kiện là bà Nguyễn Thị Ngợi trong vụ án hành chính yêu
cầu Ủy ban nhân dân thành phố Hải Dương hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AK 734508, tờ bản đồ số 3 cấp cho
ông Nguyễn Hữu Phong và bà Nguyễn Thị Nghiêm được Toà án
nhân dân thành phố Hải Dương đưa ra xét xử ngày hôm nay.
Phần nội dung:
Căn cứ hồ sơ, tài liệu trong vụ án đồng thời lắng nghe bên trình
bày. tơi xin được đưa ra quan điểm để bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng, hợp pháp cho người khởi kiện là bà Nguyễn Thị
Ngợi như sau:
Thứ nhất: Về nguồn gốc đất, Bà Nguyễn Thị Ngợi và ông
Nguyễn Hữu Đặt là hai vợ chồng chung sống với nhau và được

nhà nước cấp cho thửa đất số 195 và 192, tờ bản đồ số 7. Vị Trí
đất nằm ở Xứ Đồng – Thanh Liễu, xã Tân Hưng. Diện tích 785
m² đất thổ và 150 m² đất ao. Việc này đã được thể hiện rõ trong
các biên bản lấy lời khai của Bà Ngợ và các con của bà Ngợi.


Đặc biệt ông Phong cũng thừa nhận việc nay. Đồng thời căn cứ
vào “Biên bản đối thoại lúc 9 giờ 30 phút ngày 23 tháng 8 năm
2016 thì các bên đã xác định rõ về nguồn gốc đất.
Thứ hai: Về điều kiện để được cấp sổ là khơng đúng, vì ông
Nguyễn Hữu Phong và vợ là Nguyễn Thị Nghiệm chỉ nộp đơn
đề nghị cấp sổ, mà khơng có giấy thừa kế hoặc tặng cho của bà
Ngợi. Cụ thể, căn cứ theo điều 50 luật đất đai 2003 thì:
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà
có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15
tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong q
trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hồ, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền
Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng
đất, sổ địa chính;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất
hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền
với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở

gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng
trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;


đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy
định của pháp luật;
e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho
người sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại
giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên
người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất
có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật
này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất khơng có tranh chấp thì
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp
tiền sử dụng đất.
3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú
tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã
nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có
tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
không phải nộp tiền sử dụng đất.
4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khơng có các loại giấy
tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn
định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất khơng có tranh
chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối

với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.


5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết
định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan
thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài
chính theo quy định của pháp luật.
6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khơng có các loại giấy
tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ
ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực
thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác
nhận là đất khơng có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng
đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất
thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp
tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.
7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày
Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải
thực hiện theo quy định của pháp luật.
8. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các cơng trình là đình,
đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
a) Có đơn đề nghị xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
b) Được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác
nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và khơng có tranh

chấp.


Như vậy ông Phong và bà Nghiệm không đáp ứng được các điều
kiện nêu tại khoản 1 điều 50 luật đất đai 2003, do đó khơng đủ
điều kiện để được cấp giấy. Ủy ban nhân dân huyện Gia Lộc
thời điểm đó cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như vậy là
sai, hoàn toàn trái với luật đất đai 2003.
Thứ ba: Trình tự thủ tục cấp sổ khơng đúng so với quy định của
luật đất đai 2003. Tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Phong và Bà Nghiệm thì Ủy ban nhân dân
huyện Gia Lộc đã làm trái quy định của luật đất đai 2003.
Cụ thể như sau: “Điều 123. Trình tự, thủ tục cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất
1. Việc nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được quy định như sau:
a) Người xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nộp hồ sơ
tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia
đình, cá nhân tại nơng thơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì nộp hồ sơ tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để
chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;
b) Hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm đơn
xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy tờ về quyền sử
dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này
(nếu có), văn bản uỷ quyền xin cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (nếu có).
2. Trong thời hạn khơng quá năm mươi ngày làm việc, kể từ
ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, văn phòng đăng ký quyền sử dụng
đất có trách nhiệm chuyển hồ sơ đến cơ quan quản lý đất đai
thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận



quyền sử dụng đất để thực hiện các thủ tục về cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ tài
chính mà nghĩa vụ tài chính đó được xác định theo số liệu địa
chính thì văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất gửi số liệu địa
chính đến cơ quan thuế để xác định mức nghĩa vụ tài chính theo
quy định của pháp luật; thơng báo cho người được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính;
trường hợp khơng đủ điều kiện thì trả lại hồ sơ và thơng báo lý
do cho người xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất biết.
3. Trong thời hạn không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày thực
hiện xong nghĩa vụ tài chính, người được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đến nơi đã nộp hồ sơ để nhận giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất”.
Việc cấp giấy này cũng hoàn toàn trái với quy định tại điều 126
luật đất đai 2003.
Cụ thể như sau:
“Điều 126. Trình tự, thủ tục chuyển đổi quyền sử dụng đất của
hộ gia đình, cá nhân.
1. Việc nộp hồ sơ chuyển đổi quyền sử dụng đất được quy định
như sau:
a) Hồ sơ chuyển đổi quyền sử dụng đất nộp tại Uỷ ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi có đất để chuyển cho văn phịng đăng
ký quyền sử dụng đất;
b) Hồ sơ chuyển đổi quyền sử dụng đất gồm hợp đồng chuyển
đổi quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.


Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá

nhân phải có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước.
2. Trong thời hạn không quá mười ngày làm việc, kể từ ngày
nhận đủ hồ sơ hợp lệ, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
chuyển hồ sơ cho cơ quan quản lý đất đai huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất.
Trường hợp các bên chuyển đổi phải thực hiện nghĩa vụ tài
chính mà nghĩa vụ tài chính đó được xác định theo số liệu địa
chính thì văn phịng đăng ký quyền sử dụng đất gửi số liệu địa
chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính theo quy
định của pháp luật; văn phịng đăng ký quyền sử dụng đất thơng
báo cho các bên chuyển đổi thực hiện nghĩa vụ tài chính.
Trong thời hạn khơng q năm ngày làm việc, kể từ ngày thực
hiện xong nghĩa vụ tài chính, các bên chuyển đổi nhận giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất tại nơi đã nộp hồ sơ”.
Về trình tự thủ tục cấp GCN QSDĐ, theo quy định tại Chương
3, Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 thì thủ tục
cấp GCN QSDĐ bao gồm các bước sau:
+ Bước 1: Người sử dụng đất có trách nhiệm nộp hồ sơ kê khai
đăng ký quyền sử dụng đất tại Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có
đất. Hồ sơ Hồ sơ kê khai đăng ký quyền sử dụng đất do người sử
dụng đất lập gồm:


a) Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất (theo mẫu ban hành kèm
theo Thông tư này);
b) Bản sao giấy tờ về quyền sử dụng đất được Uỷ ban nhân dân
cấp xã chứng thực bao gồm một trong những giấy tờ quy định
tại Khoản 1, Điều 100, Luật đất đai 2013.

c) Biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới thửa đất sử dụng.
Trong khi đó, hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của ơng Phong và bà
Nghiệm chỉ có Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất và Thông
báo về việc hộ gia đình tự kiểm tra thửa đất đang sử dụng để lập
hồ sơ cấp GCN QSDĐ mà khơng có thêm tài liệu nào khác.
+ Bước 2: Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thẩm tra và
xác nhận vào đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất những vấn đề
như: Hiện trạng sử dụng đất: Tên người sử dụng đất, vị trí, diện
tích, loại đất và ranh giới sử dụng đất; Nguồn gốc sử dụng đất;
Tình trạng tranh chấp, khiếu nại về đất đai; Quy hoạch sử dụng
đất;
Ông Phong không cung cấp đủ giấy tờ hợp lệ trong hồ sơ nhưng
Uỷ ban nhân dân xã Tân Hưng vẫn thực hiện việc xét hồ sơ,
không yêu cầu ông Phong bổ sung các giấy tờ còn thiếu theo
quy định pháp luật.
+ Bước 3: Kết thúc việc xét đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất,
Uỷ ban nhân dân cấp xã công bố công khai kết quả xét đơn tại
trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã và các thôn, ấp, bản, tổ dân phố
để mọi người dân được tham gia ý kiến; thời gian công khai là
15 ngày.


Tại Biên bản xác minh ngày 29/06/2018 (BL 37), ông Đỗ Đình
Hn (cán bộ địa chính xã) có khai rằng “Sau khi tổng hợp danh
sách công khai để cấp giấy chứng nhận QSDĐ, gia đình bà Ngợi
khơng có ý kiến gì”.
Tại BL 01, 32 bà Ngợi khẳng định rằng bà không hề biết ông
Phong, bà Nghiệm sang tên trong GCN QSDĐ từ bao giờ. Chỉ
đến khi bà Thao - con gái bà Ngợi đi lao động từ nước ngoài về,
bà Ngợi định làm giấy tờ cho bà Thao thì mới biết thửa đất số

334 này do ông Phong, bà Nghiệm đứng tên.
Như vậy, từ những vị phạm trình tự thủ tục trên, tơi có thể khẳng
định rằng UBND xã Tân Hưng không niêm yết công khai kết
quả xét đơn cấp GCNQSDĐ cho gia đình ơng Phong tại trụ sở
UBND xã Tân Hưng.
Từ những nhận định trên, tôi khẳng định ông Phong và bà
Nghiêm tự ý làm hồ sơ xin cấp GCN QSDĐ là trái quy định
pháp luật.
Thứ tư: Trong hồ sơ này Nội dung Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất khơng đầy đủ thơng tin. Cụ thể, chỉ có trang bìa của
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các trang bên trong khơng
có. Vì vậy khơng thể hiện được thơng tin về thửa đất. Trong hồ
sơ vụ án cũng không có quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông Phong và bà Nghiêm.
Thứ năm: Tại Biên bản đối thoại lúc 09 giờ 30 phút ngày 23
tháng 8 năm 2016 , chủ tọa công bố ý kiến của Ủy ban nhân dân
thành phố Hải Dương, trong đó có đoạn khẳng định bà Ngợi
khơng hề có giấy tờ nào thể hiện việc chuyển quyền sử dụng đất
cho ông Phong và bà Nghiệm. Đồng thời Ủy ban nhân dân


thành phố Hải Dương cũng đồng ý với yêu cầu của người khởi
kiện (bà Nguyễn Thị Ngợi) là hủy Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông Nguyễn Hữu Phong và bà Nguyễn Thị
Nghiệm.
Trong các bản khai của ông Phong, thì ơng trình bày rằng ơng là
con trai trong gia đình bà Ngợi nên ơng có quyền hưởng phần
đất do cha mẹ để lại. Tuy nhiên đây là hành vi hoàn toàn trái với
quy định của pháp luật. Trong luật dân sự cũng như luật đất đai
không hè quy định việc hưởng tài sản của cha mẹ có sự phân

biệt giữa con trai và con gái. Theo quy định về thừa kế của luật
dân sự thì tất cả các con đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau.
Thứ sáu: Tại văn bản ngày 22/8/2016 trình bày quan điểm của
Ủy ban nhân dân thành phố trong việc cung cấp, tiếp cận, kiểm
tra chứng cứ và đối thoại vụ án hành chính, do ơng Trần Hồ
Đăng, chức vụ Phó chủ tịch UBND thành phố Hải Dương ký đã
khẳng định hồ sơ cấp GCN QSDĐ cho ông Phong và à Nghiệm
là chưa đầy đủ theo quy định.
Đồng thời cũng tại văn bản này cũng nêu rằng “Nếu tòa án nhân
dân thành phố Hải Dương ra bản án về việc yêu cầu thu hồi
GCN QSDĐ đã cấp cho ơng Phong và bà Nghiêm thì UBND
thành phố Hải Dương có thể căn cứ và điều 106 Luật đất đai
năm 2003 và điều 87, NĐ 43/2014-CP để thực hiện thủ tục thu
hồi GCN QSDĐ đã cấp”.
Như vậy: Từ những vấn đề nói trên, có thể thấy việc UBND
huyện Gia Lộc trước đây đã cấp GCN QSDĐ cho ông Phong và


bà Nghiệm là khơng có căn cứ và vi phạm trình tự thủ tục cấp
GCN QSDĐ nghiêm trọng.
Việc này đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bà
Nguyễn Thị Ngợi, do đó kính đề nghị Tịa án nhân dân thành
phố Hải Dương xem xét và tuyên bố thu hồi và hủy GCN QSDĐ
số AK 734508, tờ bản đồ số 3 đã cấp cho vợ chồng ông Nguyễn
Hữu Phong - Nguyễn Thị Nghiêm.
Trân trọng cảm ơn quý tòa đã lắng nghe ý kiến của tôi !




×