Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Diễn án hồ sơ hành chính 15 bùi quang hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.74 KB, 11 trang )

Diễn Án Học Viện Tư Pháp Bùi Quang Hải LS Hồ Sơ 15

Ngày 14/6/2016 ông/bà: Bùi Quang Hải sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị Kim
sinh năm 1981, thường trú 179/8/1, Trần Phú, phường 5, thành phố A, nộp hồ sơ
xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất
tại bộ phận tiếp nhận và giao trả kết quả thuộc UBND thành phố A , diện tích 156,7
m2 đất ở căn nhà số 179/8/1 Trần Phú, Phường 5, Thành phố A. đất trên gồm 2
phần

+ Phần thứ nhất: 102 m2 thuộc thửa 351 tờ bản đồ số 09 ( bàn đồ năm 2000) đã
được Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố A cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở
hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số BM 62400 ngày 11/1/2013.

+ Phần thứ 2: 54,7m2 trong thửa đất số 164, tờ bản đồ 09 (bản đồ năm 2000)
phường 5, trên đất có dãy nhà cấp 4 do ơng Mĩ xây năm 2000.

Ngày 7/9/2016 chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố A có thơng báo số
2728/TB-CNVPĐK trả hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu
nhà và tài sản gắn liền với đất cho Ơng Hải và Bà Kim.

Khơng đồng ý với với thông báo 2728/TB-CNVPĐK ông Hải và bà Kim đã nộp
đơn khởi kiện ra tòa án nhân dân TP.A,

Ngày 9/12/2017 tòa án nhân dân TP.A ra bản án sơ thẩm sau đó hai ơng/bà kháng
cáo và tịa án nhân dân tỉnh H ra bản án phúc thẩm ngày 5/4/2018, bản án phúc
thẩm số 04/2018/HC-PT buộc chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai nhận lại hồ sơ
của ông Hải và Bà Kim và giải quyết các thủ tục tiếp theo qui định của pháp luật.


Ngày 20/4/2018 sau khi có bản án phúc thẩm ơng Hải và bà Kim nộp hồ sơ xin cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại bộ phận tiếp nhận


và giao trả hồ sơ thuộc UBND TP. A có biên nhận ngày 6/6/2018 có kết quả.

Ngày 14/8/2018 chi nhánh văn phịng đăng ký đất TP.A ra văn bản số
4171/CNVPĐK-ĐKCG, giải trình đã trình Hồ sơ lên văn phòng đăng ký đất đai
thành phố A vào ngày 2/7/2018 số 3187/ PC-CNVPĐK.

Ngày 24/8/2014 ông Hải làm đơn khiếu nại về việc chậm giải quyết cấp giấp
chứng nhận quyền sử dụng đất .

Ngày 7/1/2019 ông/bà tiếp tục nộp đơn khiếu nại ủy ban nhân dân thành phố A
chậm giải quyết cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình ơng theo bản
án số 04/2018/HC-PT.

Ngày 30/1/2019 ủy ban nhân dân thành phố A ra văn bản số 504/UBND-TNMT trả
lời cho ông Bùi Quang Hải – Đặng Thị Kim, ngày 9/3 UBND thành phố A đã có
cơng văn số 1133/UBND-TNMT xin ý kiến hướng dẫn giải quyết, ngày 6/6/2018
sở tài ngun và mơi trường đã có văn bản số 2847/STNMT-CCQLĐĐ gửi tổng
cục quản lý đất đai xem xét hướng dẫn giải quyết, nên trong thời gian chờ chỉ đạo
tạm trả hồ sơ ông Bùi Quang Hải – Đặng Thị Kim,

Ngày 18/3/2019 UBND thành phố A, đã ban hành văn bản số 1126/UBND-TNMT,
giải quyết đơn khiếu nại ngày 7/1/2019, trả lời lý do tạm trả lại hồ sơ vì lo vướng
mắc trong việc áp dụng qui định của pháp luật, cần xin ý kiến hướng dẫn của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nếu đủ điều kiện thì sẽ cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất theo qui định.

Ngày 4/4/2019 không đồng ý với các phương án giải quyết của UBND thành phố
A, ông/bà đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án Nhân Dân Tỉnh H yêu cầu : tuyên Hủy
văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 và văn bản số 1126/UBND-TNMT



ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A và buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại
và giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sở dụng đất, sở hữu nhà và tài sản
gắng liền với phần đất diện tích 54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ 09 (bản đồ
số 2000) phường 5, thành phố A theo qui định của pháp luật.

XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ

Người khởi kiện: Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim

Người bị khởi kiện: Chủ tịch UBND thành phố A, uỷ Ban nhân dân thành PhốA.

đề thi mơn hành chính

Tham khảo thêm đề thi mơn hành chính

KẾ HOẠCH XÉT HỎI CỦA LUẬT SƯ

Hỏi người được ủy quyền UBND thành phố A:

Nguồn gốc đất ông Mĩ là sàn phơi cá được ông Mĩ đổ đất xây kè từ năm 1993 phải
không?

Thửa đất của ông Hải và Bà kim là được ông Mĩ (bố ông Hải) bán lại phải không ?

Theo bản đồ địa chính được phê duyệt năm 2002 phần diện tích đất 54,7m2 là phần
diện tích đất tăng thêm trong thửa đất số 164 bản đố số 9 phải không?


theo quyết định 1352 thì phần thửa đất phù hợp với qui hoạch đất ở đô thị phải

không?

Hiện tại thửa đất 54,7m2 này khơng có bất cứ tranh chấp gì phải khơng ?

Ngày 20/4/2018 UBND, có nhận được đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận QSĐ,
tài sản gắn liền với đất của ông Hải hay không?

Thửa đất số 164 bản đố số 9 của ông Hải và bà Kim là được ông Mĩ bán lại phải
không ?

Thửa đất số 164 bản đố số 9 này được ông Mĩ xây kè đổ đất từ sàn phơi cá phải
khơng?

Có xát nhận nào nói đất của ơng hải là lấn biển hay không ? hay xác nhận do bố
ông hải kê kè đổ đất trước đó là sàn phơi cá ?

Văn bản số 1126 là văn bản giải quyết khiếu nại của UBND thành phố A với ông
Hải không?

Xin ông cho biết, thể thức ban hành quyết định giải quyết khiếu nại là theo hướng
dẫn luật khiếu nại phải không?

Theo ông việc UBND ban hành quyết định giải khiếu nại này là đúng hay sai?
Bạn đã gửi
Hỏi người khởi kiện:


Việc trả lại hồ sơ nhiều lần của UBND thành phố A có gây nhiều thiệt hại cho gia
đình ơng không?


Nguồn gốc đất của vợ chồng ông là như thế nào?

Bà cho biết có phải bố chồng(ơng Mỹ) đã bán lại cho vợ chồng bà thửa đất này
đúng không ?

LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI KHỞI
KIỆN

Kính thưa Hội đồng xét xử,

Thưa vị đại diện Viện kiểm sát,

Thưa các vị luật sư đồng nghiệp,

Tôi tên là Luật sư Phạm Hữu Thuận, thuộc VPLS A và Cộng sự, thuộc đồn
Luật sư Tp.HCM. Tơi tham gia phiên tòa này với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện Ơng Bùi Quang Hải và Bà Nguyễn Thị
Kim.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng như diễn biến tại phiên tịa hơm nay, tơi xin
trình bày một số ý kiến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện như
sau:

Qua phần trình bày của phía người khởi kiện, người bị kiện và phần xét hỏi công
khai tại phiên tòa đã thể hiện rõ nội dung của vụ án ngày hơm nay. Tơi xin phép
khơng tóm tắt lại nội dung trong vụ án này.


Người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết là tun chấp nhận tồn bộ u cầu
khởi kiện của ơng Hải và bà Kim; Tuyên Hủy văn bản số 1126/UBND-TNMT

ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A, tuyên hành vi từ chối thực hiện thủ tục
“tạm trả hồ sơ” đăng ký quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất
là trái pháp luật, buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp
giấy chứng nhận quyền sở dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắng liền với phần đất
54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ 09 (bản đồ số 2000) phường 5, thành phố
A theo qui định của pháp luật. Đề nghị Tòa án kiến nghị xem xét trách nhiệm, năng
lực của UBND thành phố A, về việc không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ
của mình.

Tơi cho rằng yêu cầu như trên của phía người khởi kiện là hồn tồn có cơ sở chấp
nhận bởi hành vi và quyết định hành chính của UBND thành phố A là không đúng
với quy định của pháp luật thể hiện ở 05 nội dung chính sau đây:

1. Nguồn gốc thửa đất 54,7 m2 là đất sàn phơi cá của cha Bùi Xn Mĩ bán cho
ơng hải có hợp đồng mua bán tay công chứng .

2. Thửa đất 54,7 m2 của vợ chồng ông Hải đầy đủ các điều kiện để được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất .

3. ông Bùi Văn hải và bà đặng thị Kim đã nộp đầy đủ hồ sơ để được Giấy
chứngnhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

4. Tồn bộ diện tích đất 54,7 khơng phải là đất lấn biển.

5. văn bản 1126/UBND-TNMT là sai thể thức và sai lý do ban hành quyết định
giải quyết khiếu nại.


Sau đây tơi trình bày phân tích cụ thể, chi tiết để chứng minh 03 nội dung như đã
nêu trên:


Thứ nhất : Nguồn gốc thửa đất 54,7 m2 là đất sàn phơi cá của cha Bùi Xuân Mĩ
bán cho ông hải có hợp đồng mua bán tay cơng chứng .

Căn cứ vào xát nhận của UBND phường 5 ngày 13/7/2016 và kết quả kiểm tra hồ
sơ số 104/TB/UBND đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà
và tài sản gắn liền với đất, nguồn gốc thửa đất 54,7 là sàn phơi cá của của bố ông
Hải (ông Mĩ) cất sàn từ năm 1993, đến năm 1998 ông Mĩ xây kề đổ đất và tiếp tục
làm nơi phơi cá, đến năm 2000 ơng mỹ cất phịng trị và cho th, Tồn bộ thửa đất
này đã được ơng Mĩ lập hợp đồng mua bán tay có cơng chứng ngày 14/4/2003 bán
tồn bộ cho con trai là ơng Bùi Quang Hải và con dâu là bà Đặng Thị Kim sinh
sống cho đến ngày 8/4/2016 ơng hải đã có đăng ký quyền sử dụng đất và sử dụng
ổn định cho đến nay.

Như vậy nguồn gốc thửa đất 54,7 m2 là đất sàn phơi cá của cha Bùi Xuân Mĩ bán
cho ông Hải và Bà Kim có hợp đồng mua bán tay cơng chứng khơng có bất kỳ dấu
hiệu vi phạm nào về qui định pháp luật.

Thứ hai : thửa đất 54,7 m2 của vợ chồng ông Hải đầy đủ các điều kiện để được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Căn cứ bản đồ địa chính năm 2000 được
phê duyệt 2002 phần Thửa đất 54,7 m2 là phần diện tích tăng thêm thuộc một phần
đất số 164 bản đố số 9 trong đó có 102m2 đã cấp giấy chứng nhận cho ơng Mĩ sau
đó chuyển nhượng biến động cho ơng Hải- bà Kim giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số BM 62400 ngày 11/1/2013, đang sử
dụng đất trong tổng 156,7 m2.

Căn cứ theo điều 20 nghị định 01/2017/NĐ-CP bồ sum điều 24a nghị định 43/2014
hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có diện tích đất

tăng thêm khi có đủ điều kiện sau:


Điều kiện 1 : Đo đạc lại mà diện tích thửa đất thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên
Giấy chứng nhận đã cấp hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100
Luật Đất đai, Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thực tế diện tích đất được cấp
giấy chứng nhận số BM 62400 cho ông hải và bà kim trước đó chỉ 102 m2 nhưng
thực tế hiện tại tăng thêm 156,7 m2 theo bản đồ địa chính năm 2002. Nên hiện tại
ranh giới thửa đất thực tế 156,7 m2 chứ khơng phải là 102 m2 có thay đổi so với
ranh giới thửa đất tại thời điểm có Giấy chứng nhận hoặc giấy tờ về quyền sử dụng
đất số BM 62400 .

Điều kiện 2 : Thửa đất 54,7 m2 là đất tăng thêm khơng có giấy tờ về quyền sử
dụng đất theo quy định tại Điều 100 của Luật đất đai, Điều 18 của Nghị định 43
nhưng sử dụng đất không vi phạm pháp luật về đất đai đã được chứng minh từ luận
điểm 1 về nguồn gốc đất.

Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đối với toàn bộ diện tích thửa đất thực hiện theo quy
định tại Điều 70 nghị định 43. Đối chiếu với trường hợp của ông Hải và bà kim tại
luận điểm 1 đã nêu trên, về nguồn gốc đất ông Hải và bà Kim đã sử dụng ổn định
đất từ trước 1/7/2004 đến nay, thứ 2 căn cứ vào quyết định số 1352/QĐ-UBND
ngày 27/6/2014 của ủy ban nhân dân tỉnh H về việc phê duyệt qui hoạch sử dụng
đất chi tiết đến năm 2020 và bản đồ qui hoạch theo quyết định 1352 thì phần thửa
đất phù hợp với qui hoạch đất ở đô thị , ngồi ra hiện tại đất khơng có tranh chấp
căn cứ theo phiếu lấy ý kiến của cư dân ngày 21/6/2016 và xát nhận của UBND
phường 5 ngày 13/7/2016.

Vì vậy căn cứ các qui định pháp luật nêu trên Thửa đất 54,7 m2 thuộc thửa đất số
164 bản đồ số 9, của vợ chồng ông Hải đầy đủ các điều kiện để được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất .


Thứ ba: ông Bùi Văn hải và bà đặng thị Kim đã nộp đầy đủ hồ sơ để được Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất.


Căn cứ giấy tiếp nhận hồ sơ ngày 20/4/2018 và sự hướng dẫn của bộ phận tiếp
nhận hồ sơ, gồm có đơn đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với tồn bộ diện tích của thửa đất
đang sử dụng, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất ,Giấy
mua bán nhà , Bản án 04/2018, Dánh sách công khai số 104/TB-UBND, Phiếu lấy
ý kiến dân cư , Bộ sao lục , Sơ đồ vị trí năm 2003, phù hợp với các giấy tờ theo
điểm a khoản 3 điều 9a thơng tư 33 Trường hợp diện tích đất tăng thêm có giấy tờ
theo Khoản 16 Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ( giấy đăng ký quyền sử
dụng đất ngày 8/4/2016 )

Vậy hồ sơ ông Hải và bà Kim đã nộp đầy đủ theo qui định của pháp luật về việc
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất.

Thứ tư : Toàn bộ diện tích đất 54,7 khơng phải là đất lấn biển

Căn cứ vào danh sách công khai và giấy xác nhận của UBND khẳng định đất này
là sàn phơi cá được ổng Mĩ đổ kè và bồi đắp đất thêm cho đến năm 2002 thì gọp
chung với thửa số 164, Căn cứ theo bản đồ địa chính được phê duyệt năm 2002
phần diện tích 54,7 m2 thuộc phần diện tích đất số 164 tờ bản bản đồ sớ 09 do ông
Bùi Xuân Mĩ đứng tên đăng ký, sau này chuyển nhượng cho ông Hải và bà Kim,
không có bất kỳ xác nhận nào cho rằng đất này là đất lấn biển .

Như vậy việc UBND thành phố A tạm trả hồ sơ cho ông Hải và bà Kim với lý do
đất lấn biển là hồn tồn bịa đặt khơng có căn cứ pháp lý .


Thứ năm: văn bản 1126/UBND-TNMT là sai thể thức và sai lý do ban hành quyết
định giải quyết khiếu nại.

Căn cứ luật giải quyết khiếu nại 2012 người giải quyết khiếu nại phải ra quyết định
giải quyết khiếu nại đúng với thể thức ban hành quyết định khiếu nại này, theo


đúng qui định tại điều 31 của nghị định này, tuy nhiên văn bản số 1126 thì chủ tịch
UBND thành phố A ban hành văn bản không không đúng qui pháp luật, về giải
quyết khiếu nại theo qui định của pháp luật, khơng có căn cứ pháp lý giải quyết
khiếu nại, nội dung khiếu nại , kết quả thẩm tra xát minh, kết luận khiếu nại, thể
thức không phù hợp với qui định của pháp luật.

vì vậy văn bản số 1126/UBND-TNMT khơng hợp pháp cả về hình thức và nội
dung của qui định pháp luật về giải quyết khiếu nại theo qui định của pháp luật

Qua 05 nội dung tôi trình bày như trên có thể chứng minh việc UBND thành phố
A, với hành vi trả hồ sơ chậm trể thực hiện thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất và
quyền sử dụng nhà ở của ông Hải - bà Kim là trái pháp luật đồng thời quyết định
giải quyết khiếu nại số 1126 là hồn tồn khơng đúng với qui định của pháp luật.

Điều này đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của phía ông Hải và bà Kim.

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước đang chủ trương thực hiện cải cách
hành chính theo hướng đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và
doanh nghiệp, giảm tối đa chi phí tuân thủ thủ tục hành chính của xã hội. Tuy
nhiên UBND thành phố A lại đang gây khó khăn, phiền hà cho người dân.


Do đó tơi kính mong hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 193 Luật Tố
tụng hành chính tuyên chấp nhận tồn bộ u cầu khởi kiện của ơng Hải và Bà
Kim; tuyên bố hành vi hành chính của UBND thành phố A là trái pháp luật, hủy
văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A và buộc
UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sở
dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắng liền với đất diện tích 54,7m2 thuộc thửa đất
số 164 tờ bản đồ 09 (bản đồ số 2000) phường 5, thành phố A theo qui định của
pháp luật.


Đề nghị Tòa án kiến nghị xem xét năng lực, trách nhiệm của UBND thành phố A,
về việc không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.

Trên đây là những quan điểm tơi trình bày để bảo vệ quyền lợi cho phía ơng Hảibà Kim. Kính mong Q tồ cân nhắc xem xét và chấp nhận để ra một bản án đúng
pháp luật.

Cảm ơn Hội đồng xét xử đã lắng nghe.



×