Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN TCCT đổi mới tổ CHỨC và HOẠT ĐỘNG của QUỐC hội đáp ỨNG yêu cầu xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.31 KB, 12 trang )

1

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
*

BÀI THU HOẠCH HẾT HỌC PHẦN
Chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính

CHỦ ĐỀ:

ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA QUỐC HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Họ tên học viên:
Lớp: Trung cấp LLCT-HC,
Phần: Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp
luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam

............................... năm 2021
PHẦN I. MỞ ĐẦU
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện


2

quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước
Đổi mới để tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội là yêu cầu


tiên quyết, trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa hiện nay. Việc đổi mới này cần được triển khai đồng bộ trên nhiều mặt, trong
đó việc phát huy vai trị của từng đại biểu Quốc hội có ý nghĩa quyết định.
PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Quốc hội và vai trò của quốc hội trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Ở nước CHXHCN Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng
dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân
và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.
Hiến pháp quy định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam. Vị trí đặc biệt
này xuất pháp từ việc Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước trực tiếp bầu
ra.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất bởi vì theo quy định của
Hiến pháp, ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân. Nhân dân là chủ thể của
quyền lực nhà nước. Quốc hội do Nhân dân bầu ra, là cơ quan nhà nước cao nhất
thực hiện quyền lực của Nhân dân. Quốc hội là cơ quyền lực nhà nước cao nhất
còn thể hiện ở chức năng của Quốc hội. Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội là
cơ quan thực hiện quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi
luật. Bằng việc làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, Quốc hội quy định các vấn đề
cơ bản nhất, quan trọng nhất về hình thức và bản chất của Nhà nước; ghi nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quy định các nội
dung cơ bản về chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi
trường, bảo vệ Tổ quốc và về tổ chức bộ máy nhà nước. Bằng việc làm luật và sửa



3

đổi luật, Quốc hội điều chỉnh các quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Bên cạnh đó, Quốc hội là cơ quan có quyền quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước, đó là những chủ trương lớn, những vấn đề quốc kế dân sinh,
những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh của đất nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Không một cơ quan nào đứng trên Quốc hội
trong xem xét, đánh giá việc thi hành Hiến pháp, luật - những văn bản mà chỉ Quốc
hội mới có quyền ban hành. Các cơ quan do Quốc hội thành lập và người giữ các
chức vụ do Quốc hội bầu, phê chuẩn phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước
Quốc hội và chịu sự giám sát của Quốc hội.
1.2. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội
Nhiệm kì của mỗi khóa Quốc hội kéo dài 5 năm. Mỗi năm Quốc hội họp
thường kỳ 2 lần. Quốc hội Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Bộ máy hoạt
động của Quốc hội gồm: Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, Tổng thư
ký Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội (cơ quan thường trực), Hội đồng dân tộc
và 12 Ủy ban, Ban và Viện khác. Đây là các cơ quan của Quốc hội, chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội khơng họp thì
báo cáo công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Hội đồng Dân tộc nghiên cứu
và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi
hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền
núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án khác và báo cáo được Quốc hội
hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt
động của Hội đồng, Ủy ban.
Đoàn đại biểu Quốc hội là tổ chức của các đại biểu Quốc hội được bầu tại

một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc được chuyển đến công tác tại tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương. Đoàn đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tổ chức để
các đại biểu Quốc hội tiếp công dân; tổ chức để các đại biểu Quốc hội thảo luận về


4

dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác, dự kiến chương trình kỳ họp Quốc hội
theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; tổ chức hoạt động giám sát của
Đoàn đại biểu Quốc hội và tổ chức để các đại biểu Quốc hội trong Đoàn thực hiện
nhiệm vụ giám sát tại địa phương.
Ngoài ra, Quốc hội có thể thành lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra dự án luật,
dự thảo nghị quyết hoặc báo cáo, dự án khác do Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình
Quốc hội hoặc có nội dung liên quan đến lĩnh vực phụ trách của Hội đồng Dân tộc
và nhiều Ủy ban của Quốc hội; điều tra làm rõ về một vấn đề cụ thể khi xét thấy
cần thiết.

Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, tổng số đại biểu Quốc hội

không quá 500 người, bao gồm đại biểu hoạt động chuyên trách và đại biểu hoạt
động không chuyên trách. Số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ít
nhất là 40% tổng số đại biểu Quốc hội.
Ðiều 4 Luật Tổ chức Quốc hội cũng quy định: "Quốc hội tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; làm việc theo chế độ hội nghị và quyết
định theo đa số. Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được bảo đảm bằng hiệu quả
của các kỳ họp của Quốc hội, hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội."
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
QUỐC HỘI HIỆN NAY
1. Những kết quả đạt được.

Trong nhiệm kỳ 2016 – 2021, thực hiện chủ trương của Đảng về việc tiếp
tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội tại Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ XII, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ
Sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về một số vấn đề về tiếp tục đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả. Quốc hội khóa XIV đã tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách theo
mục tiêu đã đề ra lên 30%; giảm hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm
công tác ở các cơ quan hành pháp xuống 15%. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng Dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội có số lượng với tỷ lệ hợp lý giữa lãnh đạo, Ủy viên
Thường trực, Ủy viên Chuyên trách.
Xác định công tác lập pháp là nhiệm vụ trọng tâm, Quốc hội khóa XIV tiếp
tục đẩy mạnh việc xây dựng và ban hành một khối lượng lớn văn bản quy phạm


5

pháp luật, đã kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, tiếp tục cụ thể
hóa Hiến pháp năm 2013, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển
kinh tế – xã hội và hội nhập của đất nước. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
đã ban hành 72 luật, 02 pháp lệnh và nhiều nghị quyết có chứa quy phạm pháp
luật, trong đó, có những đạo luật giữ vị trí, vai trị nền tảng trong hệ thống pháp
luật, có những luật hoặc chính sách mới lần đầu tiên được ban hành, tác động lớn,
toàn diện, sâu sắc đến đời sống kinh tế – xã hội, kịp thời đáp ứng đòi hỏi của thực
tiễn.
Hoạt động giám sát của Quốc hội tiếp tục được tăng cường, có sự đổi mới,
ngày càng nâng cao hiệu lực, hiệu quả, đạt được nhiều kết quả quan trọng, được cử
tri và Nhân dân đánh giá cao. Nội dung giám sát tập trung vào nhiều vấn đề bức
xúc của cuộc sống, bao quát hầu hết các lĩnh vực. Thông qua hoạt động giám sát,
đã kịp thời phát hiện hạn chế, bất cập và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện chính
sách, pháp luật, làm cơ sở cho việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước,

bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, thúc đẩy các cơ quan hữu quan thực hiện tốt hơn nhiệm
vụ.
Quốc hội đã xem xét, quyết định nhiều quyết sách quan trọng, có tác động,
ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế – xã hội, gắn với nhiệm vụ bảo đảm quốc
phịng, an ninh, trong đó có những vấn đề mới, khó, phức tạp, chưa có tiền lệ.
Quốc hội đã quyết định kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm giai đoạn 20162020 và hằng năm, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, hệ thống
kế hoạch trong lĩnh vực tài chính, ngân sách; bảo đảm tính tổng thể, có sự gắn kết
chặt chẽ hơn giữa yêu cầu nhiệm vụ với nguồn lực thực hiện.
Các mục tiêu, chỉ tiêu, định hướng, chính sách tiền tệ và tài khố được xem
xét thận trọng, linh hoạt, bảo đảm ứng phó kịp thời, góp phần hạn chế các tác động
bất lợi, duy trì, phục hồi các hoạt động sản xuất – kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng,
kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh tài chính quốc
gia, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Quốc hội đã bầu và phê chuẩn các chức danh
trong bộ máy nhà nước theo quy định, bảo đảm chặt chẽ, thận trọng, đúng quy
trình và nhận được sự đồng thuận cao. Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội đã bầu
đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng


6

sản Việt Nam giữ chức vụ Chủ tịch nước, là sự kiện chính trị quan trọng của đất
nước, được Nhân dân và cử tri đánh giá cao.
2.2. Những hạn chế yếu kém và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cơ cấu đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ
khóa XIV vẫn cịn một số khó khăn, hạn chế như: tỷ lệ đại biểu hoạt động chuyên
trách, đại biểu nữ, đại biểu ngoài đảng, đại biểu người dân tộc thiểu số, đại biểu là
nhân sỹ, trí thức, các nhà khoa học tiêu biểu vẫn chưa đạt so với yêu cầu đặt ra;
hoạt động của một số đại biểu Quốc hội, nhất là đại biểu kiêm nhiệm cịn có khó
khăn về thời gian cũng như điều kiện bảo đảm khác để thực hiện nhiệm vụ đại
biểu. Một số đại biểu chưa tích cực chuẩn bị, tham gia đóng góp ý kiến, chất lượng

phát biểu chưa cao; có đại biểu vi phạm pháp luật bị bãi nhiệm hoặc mất quyền đại
biểu Quốc hội. Do thiếu kỹ năng nên có đại biểu cịn lúng túng trong hoạt động
giám sát, nhất là theo dõi, đôn đốc việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo và kiến
nghị của cử tri; chưa chủ động đề xuất nội dung giám sát, đưa ra sáng kiến lập
pháp hoặc tự giám sát những vấn đề mình quan tâm...
Tính dự báo trong việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa cao;
Chương trình cịn phải điều chỉnh nhiều, trong đó có khơng ít dự án được bổ sung
gần sát kỳ họp Quốc hội, gây khó khăn, bị động cho việc thẩm tra, xem xét, quyết
định;
Một số vấn đề mang tầm chiến lược, vĩ mô chưa được thảo luận một cách
đầy đủ, thấu đáo (như: quan điểm về tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế trong một
chiến lược dài hạn, định hướng và giải pháp cho phát triển kinh tế vùng, ngành
động lực; định hướng, giải pháp huy động và phân bổ nguồn lực của đất nước
trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; các cân đối vĩ mơ của nền kinh tế…);
khó đánh giá, xác định trách nhiệm trong trường hợp khơng hồn thành các chỉ tiêu
kinh tế – xã hội đề ra;…
Những hạn chế khuyết điểm trong tổ chức và hoạt động của Quốc Hội xuất
phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Đất nước ta đang trong quá trình phát triển, các quan hệ kinh tế – xã hội thay
đổi thường xuyên, diễn biến khó lường, dẫn đến việc chưa dự liệu đầy đủ, toàn
diện. Một số cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong nhiều trường hợp chưa
phát huy hết trách nhiệm trong công tác chuẩn bị dự án luật, pháp lệnh, dự thảo


7

nghị quyết; chưa bám sát yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
như: chưa chú trọng cơng tác tổng kết, đánh giá tác động của chính sách, rà soát hệ
thống pháp luật cũng như việc lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan, đối
tượng chịu sự tác động của chính sách theo quy định, chưa trù liệu được hết các

yếu tố ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng chuẩn bị dự án, dự thảo; việc tuân thủ
quy định về thời hạn chưa nghiêm, nhất là việc gửi dự án luật đến các cơ quan của
Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Trong việc trình Quốc hội biểu quyết những vấn đề
quan trọng, vấn đề lớn cịn có ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo tại lần đầu cho
ý kiến, các cơ quan một mặt chưa thật sự chú trọng, mặt khác, do các dự án, dự
thảo được gửi đến cơ quan thẩm tra khá muộn, nên khó có điều kiện nghiên cứu kỹ
lưỡng để đề xuất, kiến nghị…
Trong hoạt động thẩm tra, số thành viên của các cơ quan của Quốc hội dự
họp còn chưa đầy đủ, thời gian tại một số phiên họp ngắn, nguồn lực cho công tác
thẩm tra còn hạn chế, một số trường hợp chưa thảo luận sâu các vấn đề lớn cũng
như các điều, khoản cụ thể, các cơ quan của Quốc hội cũng chưa thực sự kiên
quyết trong việc kiến nghị chưa xem xét, cho ý kiến đối với văn bản trình chậm
tiến độ, hồ sơ không đầy đủ, chất lượng chưa bảo đảm.
Công tác phối hợp giữa cơ quan soạn thảo với cơ quan thẩm tra cũng như
giữa các cơ quan của Quốc hội trong việc tham gia thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện
dự án, dự thảo có lúc chưa chặt chẽ, hiệu quả. Kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động
xây dựng pháp luật đơi lúc chưa nghiêm, chưa có đầy đủ các chế tài trong việc xử
lý đối với trường hợp không tuân thủ quy trình xây dựng luật, pháp lệnh. Bên cạnh
đó, cũng chưa có cơ chế rõ ràng, phù hợp để phát huy một cách thiết thực, hiệu quả
trí tuệ của các chuyên gia, nhà khoa học cũng như việc nắm bắt, lắng nghe đầy đủ
ý kiến của các đối tượng chịu sự điều chỉnh của luật.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
QUỐC HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bắt đầu
từ hoạt động lập pháp, lập pháp có đúng, có chuẩn mực thì mới tạo nên nền tảng
vững chắc của nhà nước pháp quyền, bởi bản chất của nhà nước pháp quyền là


8


thượng tôn pháp luật. Trong thời gian tới, để đổi mới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội khóa cần tuân thủ một số phương hướng sau:
Một là, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII và Luật Tổ chức
Quốc hội năm 2014, được sửa đổi, bổ sung năm 2020; tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XII) về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Kế hoạch số
07-KH/TW ngày 27/11/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc thực
hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW; Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của
Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Thực hiện tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách theo mục tiêu đã đề ra;
nghiên cứu việc giảm hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm công tác ở
các cơ quan hành pháp. Quy định số lượng với tỷ lệ hợp lý giữa lãnh đạo, Ủy viên
Thường trực, Ủy viên Chuyên trách của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc
hội theo hướng giảm số lượng cấp phó và Ủy viên Thường trực. Sắp xếp, cơ cấu lại
tổ chức bên trong của Văn phòng Quốc hội theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả.
Hai là, chú trọng nâng cao chất lượng đại biểu, giảm số lượng đại biểu công
tác tại các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước, tăng tỷ lệ đại biểu có trình
độ, năng lực và điều kiện hoạt động Quốc hội. Các vị đại biểu Quốc hội tiếp tục
phát huy trách nhiệm, chủ động hơn trong việc tham gia các hoạt động của Quốc
hội; tăng cường lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cử tri và Nhân dân, nghiên
cứu, tìm hiểu, nắm bắt thực tiễn đời sống xã hội để kịp thời phản ánh, kiến nghị với
Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan hữu quan; đầu tư nghiên cứu sâu, chuẩn bị ý
kiến có chất lượng, chính kiến rõ ràng; tích cực tham gia đóng góp các ý kiến vào
các nội dung trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Tiếp tục hoàn thiện các quy định về chế độ và các điều kiện bảo đảm để đại
biểu thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Có

cơ chế thích hợp để đánh giá kết quả và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đại biểu,
làm cơ sở để cử tri giám sát hoạt động của đại biểu; xem xét ban hành quy định về


9

trình tự, thủ tục việc cử tri thực hiện quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc hội. Có giải
pháp bảo đảm số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách theo quy định (ít nhất là
40% tổng số đại biểu Quốc hội), tạo lực lượng dòng cốt trong triển khai các hoạt
động của Quốc hội, góp phần tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương.
Tiếp tục nghiên cứu đổi mới cách thức tổ chức và phương thức hoạt động của các
cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội.
Ba là, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ,
cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội trên cơ sở các quy định mới được sửa đổi,
bổ sung trong nhiệm kỳ vừa qua. Kiện toàn tổ chức bộ máy Văn phòng theo hướng
thống nhất, tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm sự hợp lý, rõ ràng trong
việc phân định chức năng, nhiệm vụ, có tính ổn định, nâng cao tính chun nghiệp,
chun mơn sâu trong phục vụ hoạt động của Quốc hội.
Tăng cường đội ngũ công chức làm công tác tham mưu; tạo điều kiện để các
vụ, đơn vị tập trung làm tốt nhiệm vụ tham mưu, phục vụ Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Có cơ chế
phù hợp để thu hút các chun gia có trình độ chun mơn cao, chuyên sâu về các
lĩnh vực; nghiên cứu, xây dựng cơ chế thư ký giúp việc riêng cho các đại biểu
Quốc hội, nhất là các đại biểu hoạt động chuyên trách. Đẩy mạnh nghiên cứu, chủ
động đổi mới, sáng tạo để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác tham
mưu, tổng hợp, phục vụ các hoạt động của Quốc hội. Tăng cường cơ sở vật chất,
kỹ thuật, điều kiện bảo đảm phục vụ các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội, đại biểu Quốc hội.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động lập pháp, nâng cao chất lượng, tính

đồng bộ, thống nhất, khả thi của các đạo luật. Tổ chức thực hiện nghiêm các quy
định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về việc lập dự kiến Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh; xác định rõ yêu cầu, điều kiện cần thiết của các dự
án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết đưa vào Chương trình, bảo đảm các dự án
được tổng kết, đánh giá tác động chính sách đầy đủ, lấy ý kiến thực chất. Phân
công cụ thể, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội trong việc thực


10

hiện, đôn đốc việc thực hiện của các chủ thể liên quan để bảo đảm tính khả thi của
Chương trình.
Tiếp tục tăng cường năng lực xây dựng pháp luật cho đại biểu Quốc hội. Đổi
mới mạnh mẽ trong tư duy lập pháp theo hướng chuyển đổi từ xây dựng pháp luật
để tạo thuận lợi cho cơ quan nhà nước sang xây dựng pháp luật để tạo hành lang
pháp lý cho cơ quan, tổ chức, người dân được bảo đảm thực hiện các quyền của
mình. Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội quan tâm thực hiện việc trình
dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết; đại biểu Quốc hội tăng cường thực hiện
quyền kiến nghị về luật, pháp lệnh và quyền đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của
đại biểu Quốc hội. Hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ mới trong hoạt
động lập pháp của Quốc hội đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong điều
kiện hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Năm là, xác định tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh công tác giám sát là khâu
trọng tâm, “mũi nhọn” để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Xây dựng chương trình giám sát bám sát tình hình thực tiễn, tập trung vào hoạt
động của bộ máy nhà nước, vấn đề được dư luận, cử tri, đại biểu Quốc hội quan
tâm, gắn với công tác lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng. Bảo đảm cân
đối giữa các hoạt động giám sát (xem xét báo cáo, giám sát chuyên đề, chất vấn,
giám sát văn bản quy phạm pháp luật…), mặt khác, đẩy mạnh một số hoạt động
được quan tâm (như: chất vấn, giải trình). Tiếp tục chú trọng cơng tác chỉ đạo, điều

hòa, phối hợp hoạt động giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng
cao chất lượng công tác phối hợp phục vụ hoạt động giám sát.
Tăng cường tính tranh luận, đi sâu làm rõ vấn đề, trách nhiệm trong thảo luận, xem
xét các báo cáo, chất vấn và trả lời chất vấn. Nghị quyết về giám sát, chất vấn cần
có các tiêu chí định lượng rõ ràng, mốc thời gian, trách nhiệm thực hiện cụ thể của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Tiếp tục phát huy kinh nghiệm, cải tiến,
đổi mới trong giám sát chuyên đề; đẩy mạnh tương tác với đối tượng chịu sự ảnh
hưởng của chính sách, pháp luật; tăng cường sử dụng thông tin từ cơ quan thanh
tra, kiểm tra, kiểm toán, chuyên gia, nhà nghiên cứu trong xây dựng báo cáo và
nghị quyết giám sát.


11

Sáu là, rà sốt, chuẩn hóa các quy định về xem xét, quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước theo hướng xác định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan
trình, cơ quan thẩm tra; quy định rõ hơn việc phân công, phối hợp giữa các cơ quan
của Quốc hội trong việc thẩm tra các báo cáo, dự án; quy định trách nhiệm tổ chức,
thực hiện nghị quyết của Quốc hội về các vấn đề quan trọng. Tăng cường việc
cung cấp đầy đủ thông tin cho đại biểu Quốc hội làm cơ sở cho việc xem xét, quyết
định. Làm rõ vai trị, nâng cao tính pháp lý và tính độc lập của Hội đồng thẩm định
nhà nước trong việc thẩm định các dự án, cơng trình quan trọng quốc gia trình
Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư.
PHẦN III. KẾT LUẬN
Có thể nói, Quốc hội chính là nhân dân, đại diện cho nhân dân trong việc
thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của mình do Luật và Hiến pháp quy định.
Tính đại diện cao nhất của nhân dân thể hiện trong tổ chức của Quốc hội, trước hết
Quốc hội là "hình ảnh của nhân dân được thu nhỏ" bao gồm những đại biểu ưu tú
thuộc mọi thành phần, giai cấp, dân tộc rộng lớn trong cả nước. Trong hoạt động,
tính đại diện cao nhất của nhân dân đó là việc các đại biểu Quốc hội khi thực hiện

chức năng của mình phải thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước, đại
diện cho nhân dân cả nước để quyết định dưới dạng các đạo luật, nghị quyết có
hiệu lực thực thi thống nhất trong cả nước. Vì vậy, mọi hoạt động của Quốc hội
thực sự có ý nghĩa khi hướng về nhân dân, chăm lo cho đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân. Khẳng định vai trò trung tâm, hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết
định của đại biểu trong tồn bộ hoạt động của Quốc hội, Phát biểu tại phiên khai
mạc kỳ họp lần thứ nhất Quốc hội khóa XV, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc
biệt nhấn mạnh “tất cả các vị đại biểu Quốc hội chúng ta khóa này cần tiếp tục nêu
cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân, phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, nâng cao
trình độ về mọi mặt, gần gũi và lắng nghe ý kiến của nhân dân, thực hiện và hoàn
thành tốt nhất nhiệm vụ mà cử tri và nhân dân giao phó.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


12

1. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, “Những vấn đề cơ bản về hệ
thống chính trị, nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa” (Giáo trình Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính), Nxb.Lý luận chính trị, 2017.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Kết luận Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, hồn thiện hệ thống chính
trị từ Trung ương đến cơ sở” (Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCHTW khóa XI).
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” (Nghị quyết số

18-NQ/TW, ngày 25-10-2017).
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị 30/CT-TW ngày 18/2/1998 của Bộ
Chính trị về Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.



×