Sự cần thiết phát triển dược liệu và sản phẩm từ dược liệu tại Việt Nam
1. Việt Nam với một vị trí tự nhiên hiếm có:
-
một mặt gắn liền với lục địa, mặt khác lại thông với đại dương
-
nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa, khí hậu có nhiều nét độc đáo và đa dạng, thay đổi
từ điều kiện khí hậu nhiệt đới điển hình ở vùng núi thấp phía Nam, đến khí hậu mang tính
chất Á - nhiệt đới vùng núi cao ở các tỉnh phía Bắc
-
Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới với hệ sinh thái phong phú và đa dạng, tiềm năng to lớn
về tài nguyên cây thuốc, tài nguyên dược liệu
Việt Nam: giàu về đa dạng sinh học bao gồm
–
275 loài có vú, 800 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài vừa ở cạn vừa ở nước, 2.500
loài cá, 5.500 loài côn trùng.
–
khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch (đã xác định tên của 8.000 loài), 600
loài nấm, 800 loài rêu và hàng trăm các loài tảo lớn
–
Trong đó có tới gần 4.000 loài thực vật bậc cao và bậc thấp được dùng làm thuốc,
chúng được phân bố rộng khắp cả nước
•
Với chiều dài hơn 3.260 km bờ biển:
–
có nguồn tài nguyên sinh vật biển nhiệt đới rất phong phú đa dạng về số lượng,
giàu về hàm lượng
–
môi trường biển là cái kho khổng lồ cung cấp các hoạt chất thiên nhiên có hoạt
tính sinh học cao, mà nhiều chất cho thấy những đặc điểm cấu trúc chưa hề
gặp ở các hợp chất thiên nhiên trên cạn
•
Hiện nay không chỉ Việt Nam mà trên thế giới
–
xu hướng "Trở về với thiên nhiên"
–
sử dụng các thuốc từ dược liệu ngày càng gia tăng
–
thuốc từ dược liệu: ít tác động có hại và phù hợp với qui luật sinh lý của cơ thể hơn
•
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO)
–
khoảng 80% dân số hiện nay trên thế giới vẫn dựa vào thuốc cổ truyền để chăm sóc sức
khoẻ
–
WHO luôn khuyến nghị dùng các thuốc cổ truyền vào chăm sóc sức khoẻ ban đầu, đánh giá
mức độ an toàn và hiệu quả cũng như bảo đảm nguồn cung cấp những thuốc này
2. Việt Nam có một nền y học dân tộc lâu đời
- với các tri thức sử dụng các loại dược liệu, các bài thuốc có giá trị dùng để chữa các
bệnh thông thường và nan y
-
"Nam dược trị Nam nhân“: nếu chúng ta biết phát huy thì có thể nói có một nền tảng
vững chắc để phát triển
-
Tri thức bản địa
Quá trình tìm hiểu và tiếp cận thông tin
Thu thập kinh nghiệm sử dụng cây thuốc từ người dân và các thầy lang
ở bản làng
•
Thu mẫu
•
Trồng và lưu mẫu
Thuốc mới đến từ
sàng lọc từ tự nhiên
Ô 9:
+ 20 cây
Ô 1:
500 cây
…
Ô 6:
+ 50 cây
Ô 8:
+ 10 cây
Ô 3:
+ 100 cây
……
Ô 8:
+ 30 cây
1.000
loài cây
Từ 1.000 loài cây:
-
Tạo 1.000 dịch chiết tổng
-
Đưa các dịch chiết vào sàng lọc hoạt tính
-
Trung bình thu được khoảng 10 mẫu có hoạt tính
-
Các mẫu có hoạt tính định hướng cho quá trình chiết tách và phân lập
•
Sàng lọc các cây thuốc Việt Nam theo hướng diệt tế bào ung thư và phân lập các hoạt chất để nghiên cứu làm thuốc chữa
bệnh (Nghị Định thư – Nhật Bản + Viện Dược liệu)
•
Sàng lọc dược liệu có tiềm năng điều trị gút thông qua con đường ức chế enzym xanthin oxidase từ nguồn nguyên liệu sinh
học ở Việt nam (Nafosted – 2012, Trường ĐH Dược HN)
Sàng lọc tìm kiếm thuốc mới từ tự nhiên
•
Thời gian: 10 năm
•
Kinh phí: ~ 1 tỷ USD
•
Giá thuốc mới cực kỳ đắt, khoảng 80% dân số không tiếp cận được với thuốc
•
Các thuốc mới tổng hợp đưa ra thị trường trong vòng 20 năm:
–
28% có nguồn gốc tự nhiên
–
24% tổng hợp bắt chước các hợp chất tự nhiên
Mối đe doạ đối với tri thức bản địa
•
Tri thức truyền thống không được tư liệu hoá
•
Sự mai một, ngày một mất đi các tri thức truyền thống
•
Sự xói mòn đa dạng các nền văn hoá
•
Sự phát triển các chế phẩm hiện đại, dẫn đến tâm lý coi thường các tri thức truyền thống
3. Dược liệu có giá trị kinh tế to lớn
- có thể thu nhận trên 100 triệu đồng/ha
- phát triển dược liệu có thể giúp cho nhiều vùng nông thôn, miền núi xóa đói
giảm nghèo, phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường.
- mối tương quan chặt chẽ giữa đa dạng sinh học cây thuốc và đa dạng văn hóa
Thực trạng
•
VN lại trở thành quốc gia nhập khẩu dược liệu
–
nhập cả những dược liệu bản địa
–
dược liệu từng được di thực, trồng thành công trên đất VN
–
nhiều loại dược liệu trở thành quý hiếm, tuyệt chủng hoặc nằm trong Sách đỏ…
–
không ít doanh nghiệp sản xuất thuốc từ dược liệu cổ truyền điêu đứng vì sự lệ thuộc gần
như hoàn toàn vào nguồn dược liệu nhập khẩu
•
Có thời điểm 85% dược liệu để sản xuất đông dược trong nước nhập về từ Trung Quốc (giá trị 144 triệu
USD/năm)
•
Núi Hàm Rồng (Sa Pa, LC): 1972-1973 là rừng rậm, với sâm vũ diệp, tam thất hoang, hoàng liên gai…, đến năm 1985 đã
bị phá gần hết để trồng bắp và các loại cây khác
•
Cao nguyên An Khê (GL và BĐ) trước là trung tâm phân bổ lớn nhất VN của cây vàng đắng, hiện đã nằm dưới lòng hồ
chứa nước thủy điện Vĩnh Sơn
•
Vùng phân bố tự nhiên của sâm ngọc linh, thiên niên kiện, cốt khí củ, ba kích, đẳng sâm, hoàng đằng, ngũ gia bì chân
chim… cũng bị thu hẹp do nạn phá rừng và mất rừng
•
Một số vùng trồng cây thuốc truyền thống đã biến mất
•
Cây vàng đắng: 1980-1990 còn khai thác được từ 1.000-2.500 tấn/năm, từ năm 1995 đến nay gần như không còn
•
Các loại dược liệu như ba kích, đẳng sâm, các loại hoàng tinh thuộc chi Disporopsis và Polygonatum, bình vôi… vốn
phân bố rất nhiều ở các tỉnh miền núi phía Bắc nay đã vào Sách đỏ và Danh lục đỏ cây thuốc VN
•
Dược liệu có nguồn gốc từ TQ ở trên thị trường
–
nhiều loại dược liệu sinh trưởng 3-5 năm mới thu hoạch nhưng bị dùng chất
kích thích nên chỉ vài tháng đến một năm đã thu hoạch
–
nhiều loại bị trộn thuốc bảo quản vượt tỉ lệ cho phép hàng chục lần để chống
nấm mốc
–
tẩm cả tạp chất cho nặng cân, đẹp mã…
–
thanh tra Bộ Y tế từng xác nhận hiện tượng dược liệu bị chiết xuất bớt dược
chất, chỉ còn là xác được nhập về
•
còn rất khó đánh giá chất lượng dược liệu bởi chưa có cơ quan quản lý nhà nước
chính thức (Cục Quản lý dược mới đang lập phòng quản lý dược liệu)
•
giá thành rẻ hơn dược liệu trồng tại VN
•
Năm 2010, Bộ Y tế đã triển khai cho 17 đơn vị liên quan đến phát triển dược liệu
–
quản lý nhà nước
–
viện nghiên cứu
–
doanh nghiệp
–
bệnh viện y học cổ truyền
tham gia thực hiện kế hoạch hành động đến năm 2020 nhằm vực dậy ngành dược liệu
-
400 tỉ đồng để xây dựng ngành dược liệu trong 10 năm tới
-
điều tra về trữ lượng
-
xây dựng vùng trồng nguyên liệu
-
định hướng phát triển thuốc từ dược liệu
Xu hướng hiện nay
•
Không thể trông cậy vào nguồn đông dược thu hái tự nhiên
•
Dứt bỏ sự lệ thuộc vào nguồn dược liệu nhập khẩu (đặc biệt từ Trung Quốc)
•
Nhiều công ty dược VN đã và đang gây dựng lại những vùng nguyên liệu cây thuốc
để chủ động và vững vàng bước đi trong chiến lược phát triển ngành đông dược
hiện đại
•
quy hoạch vùng trồng và có chính sách hỗ trợ người trồng, cam kết thu mua nhằm
ổn định đầu ra cho sản phẩm
•
ký trực tiếp với nông dân hợp đồng tiêu thụ sản phẩm trong vòng năm năm.
–
nông dân ổn đầu ra
–
doanh nghiệp ổn đầu vào
–
đặt hàng nhà khoa học nghiên cứu để áp dụng mô hình trồng dược liệu sạch, quy trình công
nghệ sản xuất
–
nhà khoa học – doanh nghiệp – người nông dân – nhà nước: quyền lợi và trách nhiệm
•
Trong tổng số 3.948 loài cây thuốc và nấm làm thuốc đã biết
–
500 loài là cây thuốc được trồng với các quy mô khác nhau
–
trong đó có 44 loài đang được trồng với quy mô sản xuất (thanh cao hoa vàng, quế, kim tiền
thảo, lược vàng, trinh nữ hoàng cung, hương nhu, dừa cạn, actiso….)
•
Một số vùng trồng dược liệu lớn:
–
Thông đỏ: Đà Lạt
–
Quế: Yên Bái, Quảng Nam, Thanh Hóa
–
Hồi: Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, Bắc Kạn
–
Hòe: Thái Bình, Nghệ An, Đắk Lắk
–
Thanh hao hoa vàng: Hà Nội, Bắc Giang
–
Tràm: Đồng Tháp Mười, Long An, Thừa Thiên Huế, Tây Ninh
–
Kim tiền thảo: Bắc Giang, Tây Ninh
–
Gấc: Hải Dương, Bắc Giang
–
Bụp giấm, Dừa cạn: Ninh Thuận, Bình Thuận.
Tại VN có 22 địa phương có thể khai thác dược liệu ngoài tự nhiên.
•
BV Pharma
–
đầu tư dự án xây dựng nhà máy sản xuất nguyên liệu chữa ung thư và tim mạch từ dược liệu, hướng tới tự túc
50% thuốc ung thư thiết yếu sản xuất tại VN
–
Khi hoạt động, nhà máy sẽ sản xuất
•
tối thiểu 10 loại hóa dược, chủ yếu trong điều trị ung thư, tim mạch, viêm gan B, C
•
ít nhất 15 sản phẩm thuốc chống ung thư, tim mạch
–
xây dựng vùng nguyên liệu cung cấp cho nhà máy này
•
50ha thông đỏ ở Tây nguyên (chọn lọc giống, dòng)
•
20ha dừa cạn ở Ninh Thuận
•
1ha trại nuôi nấm vân chi ở Củ Chi (TP.HCM), Đà Lạt
•
10ha cây bình vôi biển
•
1ha cây bảy lá một hoa
•
3ha trại nuôi bò cạp, rết, địa long
•
100ha trồng nghệ
•
100ha trồng hòe
–
dự án này sẽ giúp hình thành ngành công nghệ hóa dược từ các hợp chất thiên nhiên của VN
•
30 ha thông đỏ = 3 tấn lá tươi = 1 tấn lá khô = 1g taxol
•
Vimedimex: dự án lập nhà máy chế biến taxol đầu tiên ở VN
–
kinh phí đầu tư 100 tỉ đồng
–
quy mô sản xuất 5-10kg taxol/năm
–
Mỗi năm, VN có 150.000 bệnh nhân ung thư, cần có từ 5-9kg taxol và taxotere để chữa trị
–
Vì vậy, nguồn lá thông đỏ cần cho việc chủ động sản xuất thuốc chữa trị ung thư mỗi năm có
thể lên đến trên 100 tấn
Cây thuốc = Cây + tri thức làm thuốc
Các mối đe dọa đối với nguồn gen cây thuốc:
•
Suy giảm các thảm thực vật:
–
Do phát triển dân số
–
Mở rộng đất canh tác
–
Khai thác gỗ
–
Làm đường
–
Công trình thuỷ lợi
•
Khai thác quá mức
–
khai thác > tái sinh tự nhiên