Mục lục
Đặt vấn đề
Nội dung bài làm
I/Chuẩn mực xã hội và những khái niệm cơ bản
1/Khái niệm chuẩn mực xã hội
2/Các hình thức biểu hiện của chuẩn mực xã hội
II/Phân tích mối quan hệ giữa các chuẩn mực xã hội
bất thành văn và pháp luật
1/Chuẩn mực đạo đức
2/Chuẩn mực phong tục,tập quán
3/Chuẩn mực thẩm mỹ
Kết thúc vấn đề
Tài liệu tham khảo
Trang 1
Trang
2
3
3
3
4
5
5
7
9
10
Đặt vấn đề
Các chuẩn mực xã hội có nguồn gốc từ thực tiễn đời sống xã hội,
được hình thành từ nhu cầu, địi hỏi cần có một cơng cụ, phương tiện
điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng hành vi của con người. Nảy
sinh trong đời sống xã hội, chịu sự chi phối mạnh mẽ của pháp luật
nhưng các chuẩn mực xã hội này cũng có tác động khơng nhỏ trở lại
pháp luật.
Bài viết sau xin đi sâu và phân tích mối quan hệ tác động lẫn nhau
giữa các chuẩn mực xã hội bất thành văn và pháp luật.
Trang 2
Nội dung bài làm
I/Chuẩn mực xã hội và những khái niệm cơ bản
1/Khái niệm chuẩn mực xã hội.
Trong cuộc sống, con người luôn thực hiện các hoạt động nhằm thỏa
mãn nhu cầu, lợi ích nhất định. Dù được tự do thực hiện các hoạt động đó
theo ý muốn cá nhân nhưng con người vẫn phải đặt mình trong các nhóm
xã hội hoặc xã hội nói chung, tuân theo những quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi
của những người xung quanh để định hướng hành động của mình.
Vơ hình chung, chính con người, với ý chí chung của nhóm xã hội,
giai cấp, tầng lớp xã hội...đã xác lập một hệ thống các quy tắc, đòi hỏi đối
với hành vi của một cá nhân hay nhóm xã hội.Từ đó, hình thành nên hệ
thống các chuẩn mực xã hội.
Chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội
đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính
xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép,
cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi xã hội
của mỗi người, nhằm củng cố , đảm bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn trật tự,
kỷ cương,an tồn xã hội.
2/Các hình thức biểu hiện của chuẩn mực xã hội.
Chuẩn mực xã hội có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau tùy vào các
tiêu chí phân loại khác nhau. Thơng thường , chúng được phân loại theo
hai tiêu chí sau:
a/Theo mức độ phổ biến, chuẩn mực xã hội được chia thành:
- Chuẩn mực xã hội công khai, tức là những chuẩn mực xã hội phổ biến
trong xã hội, được đa số biết đến, thừa nhận và tuân theo.
- Chuẩn mực xã hội ngầm ẩn, tức là những chuẩn mực xã hội chỉ được
công bố và áp dụng trong phạm vi nhất định, thường chỉ mang tính nội
bộ trong một nhóm xã hội xác định nhằm điều chỉnh hành vi của số ít
người. Và chỉ có số ít người đó có trách nhiệm, nghĩa vụ phải tuân theo
chuẩn mực xã hội ngầm ẩn dành cho họ.
Trang 3
b/Theo đặc điểm được ghi chép hay không được ghi chép lại, chuẩn mực xã
hội được chia thành:
- Chuẩn mực xã hội thành văn, tức là các nguyên tắc, quy định của chúng
được ghi chép lại dưới dạng văn bản. Tiêu biểu nhất của chuẩn mực
thành văn là chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực chính trị,chuẩn mực tơn
giáo.
- Chuẩn mực xã hội bất thành văn là những loại chuẩn mực xã hội mà
các quy tắc,yêu cầu của chúng không được ghi chép lại trong văn bản
mà chúng chủ yếu tồn tại, phát triển thông qua con đường truyền miệng.
Và cứ như thế lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Có ba loại chuẩn mực xã hội bất thành văn là chuẩn mực đạo đức,
chuẩn mực phong tục, tập quán và chuẩn mực thẩm mỹ. Các chuẩn mực
này xin được phân tích rõ hơn ở phần tiếp theo sau đây.
II/Phân tích mối quan hệ giữa các chuẩn mực xã hội bất thành văn và
pháp luật
Ngoài pháp luật, nhà nước sử dụng các quy tắc, chuẩn mực xã hội
khác để quản lý xã hội như đạo đức,tập quán,...So với các chuẩn mực xã
hội khác , pháp luật vẫn là công cụ đặc biệt mang nhiều ưu thế vượt trội,
có ý nghĩa quyết định xu thế phát triển của xã hội. Do đó, nhìn chung,
pháp luật ln giữ vai trị chi phối sự tồn tại và phát triển của các chuẩn
mực khác. Bên cạnh đó, các chuẩn mực xã hội khác cũng có vai trị nhất
định đối với pháp luật.
1/Chuẩn mực đạo đức.
a/Khái niệm:
Đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện ác, lương tâm, danh dự,
trách nhiệm, về lòng tự trọng, về công bằng hạnh phúc...và những quy tắc
xử sự hình thành trên cơ sở các ý niệm, quan điểm đó. Tuy mỗi cá nhân,
mỗi cộng đồng có quan niệm và cách giải thích khác nhau về đạo đức
nhưng quá trình lịch sử tồn tại và phát triển lâu dài của con người đã xây
dựng nên những giá trị đạo đức có tính phổ biến, chung nhất cho tất cả
mọi người. Đạo đức là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội, là kết tinh
của đời sống tinh thần nhân loại.
Chuẩn mực đạo đức là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi đối với
hành vi xã hội của con người, trong đó xác lập những quan điểm, quan
niệm chung về công bằng và bất công, về cái thiện và cái ác, về lương
tâm, danh dự, trách nhiệm và những phạm trù khác thuộc đời sống đạo
đức tinh thần của xã hội.
Trang 4
b/Mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
Khi bàn về mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và pháp luật, chúng
ta cần xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa pháp luật và đạo
đức.
Pháp luật và đạo đức là những hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng
do cơ sở hạ tầng quy định. Giai cấp thống trị, dựa vào quyền lực, có
nhiều ưu thế để nâng ý chí hay các quan niệm đạo đức của mình thành
pháp luật. Do đó, pháp luật ln là sự phản chiếu đạo đức của giai cấp
cầm quyền hay nói cách khác là chịu sự tác động của đạo đức. Tuy nhiên,
dù muốn hay không, pháp luật pháp luật khơng thể khơng phản ánh quan
điển, lợi ích, ý chí hay quan niệm đạo đức của các giai cấp khác nên ở
một mức độ nhất định, pháp luật được trang bị khả năng thích ứng, khiến
nó dường như thể hiện ý chí chung của mọi tầng lớp xã hội.
Dù chịu sự tác động của đạo đức, nhưng pháp luật vẫn có tác động
mạnh mẽ trở lại đạo đức. Cụ thể, pháp luật sẽ cải tạo các chuẩn mực đạo
đức đã lỗi thời, hoặc loại bỏ chúng. Từ đó, chọn lọc và tạo ra những
chuẩn mực đạo đức phù hợp với xã hội và tiến bộ hơn.
Nhìn chung, chuẩn mực đạo đức và pháp luật tuy khác nhau về phạm
vi tác động, cơ chế tác động nhưng đều có chung mục đích điều tiết, điều
chỉnh hành vi con người trong xã hội. Mối quan hệ giữa chúng là mối
quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Pháp luật là sự ghi
nhận các chuẩn mực đạo đức, là công cụ bảo vệ, là phương tiện hữu hiệu
bảo vệ chuẩn mực đạo đức bằng các biện pháp, chế tài cụ thể. Nói cách
khác, pháp luật có vai trị quan trọng trong việc duy trì, bảo vệ, phát triển
các chuẩn mực đạo đức tiến bộ, phù hợp với xã hội. Và ngược lại, chuẩn
mực đạo đức là nền tảng tinh thần để thực hiện các quy định của pháp
luật. Nhiều quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực đao đức được nhà nước sử
dụng và nâng lên thành luật. Khi xây dựng và ban hành văn bản pháp
luật, nhà nước buộc phải tính tới các quy tắc của chuẩn mực đạo đức.
2/Chuẩn mực phong tục, tập quán
a/Khái niệm
Phong tục là từ Hán Việt nếu cắt nghĩa của từng chữ ta có thể hiểu:
- Phong: là nếp sống đã lan truyền, phổ biến rộng rãi
- Tục: là thói quen lâu đời.
Như thế có thể hiểu phong tục là những thói quen, nếp sống lâu đời đã
được lan truyền, phổ biến rộng rãi trên một phạm vi nhất định ( có thể là
tồn xã hội hay nhóm xã hội,cộng đồng xã hội nhất định...)Phong tục là
bao gồm mọi mặt đời sống của dân cư trong một vùng, một miền hoặc cả
Trang 5
quốc gia. Những phong tục tốt đẹp người ta gọi là “Thuần phong mỹ
tục”. Những phong tục xấu, lạc hậu người ta gọi là “Đồi phong bại tục”.
Mỗi vùng miền, mỗi dân tộc thường có những phong tục, đặc trưng khác
nhau, người ta gọi đó là bản sắc dân tộc.
Tập quán là những quy ước, quy tắc giao tiếp, ứng xử giữa các cá
nhân với nhau hoặc với cộng đồng, hoặc giữa các cộng đồng trong cuộc
sống, được lặp đi lặp lại nhiều lần và trở thành thói quen, nếp sống.
Tuy nhiên, do sự tương đồng giữa phong tục và tập quán nên rất khó
để có thể phân biệt chúng rõ ràng. Vì vậy, thuật ngữ "phong tục" và thuật
ngữ "tập quán" thường đi liền với nhau, trở thành thuật ngữ "phong tục,
tập quán".
Chuẩn mực phong tục, tập quán là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi
hỏi được xác lập nhằm củng cố những mẫu mực giao tiếp, ứng xử trong
các cộng đồng người; là các quy tắc sinh hoạt cơng cộng lâu đời của con
người, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần suốt quá trình lịch sử,
trở thành thói quen trong lao động, cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày của
các cộng đồng xã hội.
b/Mối quan hệ giữa chuẩn mực phong tục, tập quán và pháp luật
Phong tục tập quán gắn bó chặt chẽ với những thói quen, nếp sống của
các cộng đồng xã hội từ rất lâu đời, trước cả khi có pháp luật, nên tập
quán được coi là quy tắc xử sự chung, điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Chúng gắn bó bền chặt trong nhân dân, có nhiều khi lấn át cả những điều
luật. Khi nhà nước xuất hiện, nhà nước tìm cách vận dụng các phong tục,
tập quán này hoặc biến đổi chúng cho phù hợp rồi nâng chúng thành các
quy phạm pháp luật hoặc coi là tập quán pháp. Như thế, chuẩn mực
phong tục, tập quán là một nguồn quan trọng của pháp luật.
Bên cạnh đó, nhờ sự tồn tại lâu đời của phong tục, tập quán, các chuẩn
mực này gắn bó bền chặt với đơng đảo quần chúng, được họ chấp thuận
và tuân theo, thực hiện một cách tự nguyện, tạo ra sự đồng thuận xã hội.
Bằng cách đó, các chuẩn mực phong tục,tập quán góp phần quan trọng
giúp pháp luật thâm nhập vào đời sống cộng đồng một cách thuận lợi, dễ
dàng hơn.
Ngược lại, pháp luật cũng tác động tới các chuẩn mực phong tục, tập
quán; thể hiện như sau:
- Đối với các phong tục, tập quán mang giá trị truyền thống, có tính
nhân văn sâu sắc, là "thuần phong mỹ tục", mang tác động tích cực tới
cộng đồng thì pháp luật thừa nhận, bảo tồn, phát huy vai trò của chúng
trong đời sống; đưa chúng vào nếp sống, ý thức và hành vi của con
người.
Trang 6
- Đối với những phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời, trở thành hủ tục,
thậm chí mang tính mê tín dị đoan, là " đồi phong bại tục" , ngoài việc
tuyên truyền để nâng cao ý thức, để nhân dân tự loại bỏ chúng thì nhà
nước dùng sức mạnh của pháp luật loại trừ chúng ra khỏi đời sống; từ
đó xây dựng lối sống văn minh, phù hợp với sự tiến bộ.
3/Chuẩn mực thẩm mỹ.
a/Khái niệm
Quan hệ thẩm mỹ là một trong các mối quan hệ xã hội cơ bản. Trong
quan hệ thẩm mỹ, có ba bộ phận quan trọng nhất của đời sống thẩm mỹ
con người, bao gồm:
- Đối tượng thẩm mỹ, gồm cái đẹp, xấu; cái bi, hài; cái anh hùng,...Nó
chứa đựng các dạng phái sinh và các vùng tiềm ẩn của cái đẹp, cái
xấu, cái bi hài; nó giải thích vì sao thiên nhiên lại chứa yếu tố thẩm
mỹ, vì sao lại có cái bi,hài trong hiện tượng xã hội.
- Chủ thể thẩm mỹ, phản ánh các hoạt động thẩm mỹ của chủ thể thông
qua các giác quan của họ. Các nhu cầu thẩm mỹ, thị hiếu, lý tưởng
thẩm mỹ đều là sự phản ánh các kinh nghiệm haotj động thẩm mỹ của
con người. Năng khiếu,tài năng và thiên tài không tách rời chủ thể
thẩm mỹ
- Thế giới nghệ thuật là bộ phận thứ ba. Đây là nơi diễn ra sự tương tác
giữa đối tượng thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ, như: văn học, âm nhạc,
điêu khắc, điện ảnh,...Trong thế giới này, cái thẩm mỹ chứa đựng các
phạm trù : cảm thụ, sáng tạo, đánh giá,...
Do yêu cầu, đòi hỏi quan hệ thẩm mỹ cần có các quy tắc, yêu cầu, tiêu
chuẩn thẩm mỹ để định hướng, điều chỉnh, đánh giá hành vi thẩm mỹ của
con người trong đời sống cộng đồng mà các chuẩn mực thẩm mỹ nảy
sinh, biến đổi và phát triển.
Chuẩn mực thẩm mỹ là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi về mặt
thẩm mỹ đối với hành vi xã hội của con người, tuân theo những quan
điểm, quan niệm đang được phổ biến, thừa nhận trong xã hội về cái đẹp,
cái xấu, cái bi, cái hài, cái anh hùng, cái tuyệt vời, dược xác lập trong các
quan hệ thẩm mỹ, trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật, trong lối sống và
sinh hoạt...của các cá nhân và các nhóm xã hội.
b/Mối quan hệ giữa chuẩn mực thẩm mỹ và pháp luật.
Mối quan hệ giữa chuẩn mực thẩm mỹ và pháp luật là mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau.
Chuẩn mực thẩm mỹ đòi hỏi các bộ luật, các văn bản được ban hành
phải phù hợp với các giá trị, chuẩn mực thẩm mỹ đang hiện hành trong
Trang 7
xã hội thì mới dễ dàng đi vào đời sống. Nhìn trên phương diện này,
chuẩn mực thẩm mỹ có tác dụng định hướng, điều chỉnh hành vi của các
cá nhân phù hợp với các quy tắc của chuẩn mực thẩm mỹ. Trong nhiều
trường hợp, các quy tắc háp luật phù hợp với các chuẩn mực thẩm mỹ,
các cá nhân dù không biết luật nhưng dựa vào quan điểm thẩm mỹ, họ
vẫn có thể xử sự đúng luật.
Nhiều quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực thẩm mỹ phù hợp, đáp ứng
được yêu cầu của nhà nước nên đã được thừa nhận và trở thành cơ sở để
áp dụng trong các quy phạm pháp luật. Một số ví dụ điển hình là các văn
bản luật điều chỉnh trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, ứng xử cơng
sở...
Ngược lại, pháp luật cũng có sự tác động sâu sắc tới chuẩn mực thẩm
mỹ. Nhờ vào đặc trưng mang tính quyền lực nhà nước, pháp luật góp
phần củng cố, bảo vệ các chuẩn mực thẩm mỹ phù hợp, tiến bộ; đồng
thời, loại bỏ những quy tắc thẩm mỹ đã lạc hậu, lỗi thời trong cuộc sống
văn minh, hiện đại.
Trang 8
Kết thúc vấn đề
Ở nước ta hiện nay, bên cạnh các thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội đã đạt được, vẫn cịn nhiều vấn đề nhức nhối về nhận
thức, hiểu biết, tôn trọng và thực hiện các quy tắc, yêu cầu của chuẩn
mực xã hơi nói chung và pháp luật nói riêng. Một trong những nguyên
nhân của tồn tại đó là do sự thiếu hiểu biết, chưa tôn trọng, nghiêm túc
trong việc thực hiện. Trong điều kiện đó, việc nghiên cứu, củng cố và
phổ biến, phát huy tác dụng của các chuẩn mực xã hội càng có ý nghĩa
quan trọng, thiết thực.
Trang 9
Tài liệu tham khảo
1/ TS Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2010
2/ Trường Đại học Luật Hà Nội, Ngọ Văn Nhân (chủ biên), Tập bài giảng
xã hội học, Nxb CAND, Hà Nội, 2008
3/ PGS.TS Nguyễn Thị Hồi, Hướng dẫn ôn tập môn học Lí luận nhà
nước và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006
Trang 10