Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ bản thân của trẻ tại lớp mẫu giáo Bé

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.04 KB, 16 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cấp cơ sở huyện .
Tên sáng kiến: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ bản thân
của trẻ tại lớp mẫu giáo Bé
1. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục mầm non. Nâng cao chất
lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé.
2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử :
Sáng kiến được áp dụng lần đầu.
Bắt đầu áp dụng trong năm học 2020-2021, từ tháng 9/2020 đến tháng 4/2021.
3. Mô tả bản chất của sáng kiến:
Như chúng ta đã biết dạy con tự lập là một phẩm chất quan trọng đối với
một con người ngay từ khi còn nhỏ cho tới khi trưởng thành. Nếu từ nhỏ trẻ
được cha mẹ bao bọc q thì khi lớn lên trẻ sẽ khơng có tính tự lập, làm gì cũng
phụ thuộc vào người khác. Những đứa trẻ như vậy thường yếu đuối, ích kỷ,
khơng biết giúp đỡ và yêu thương người khác. Đồng thời tự lập cũng là một
phẩm chất để khẳng định nhân cách, bản lĩnh sống của mỗi người. Trong cuộc
sống mà khơng tự mình làm được gì, ln dựa dẫm vào người khác sẽ trở thành
gánh nặng cho gia đình và xã hội và đặc biệt là sẽ cảm thấy bản thân vơ dụng.
Từ đó sẽ thấy cuộc sống trở nên nhàm chán và vơ nghĩa. Và tất nhiên tính tự lập
khơng phải tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của q trình học hỏi rèn luyện
khơng ngừng. Khơng phải chỉ những người trưởng thành mới có khả năng tự lập
mà chúng ta hồn tồn có thể rèn luyện tính tự lập ngay từ khi cịn nhỏ để có thể
vượt qua những khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Một đứa trẻ tự lập có
thể tự làm những cơng việc phù hợp với lứa tuổi của mình
Nếu quan sát kĩ chúng ta sẽ thấy thật ra thì tính tự lập của trẻ được hình
thành rất sớm và là một biểu hiện tâm lí có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
hình thành các phẩm chất nhân cách của trẻ. Một số dấu hiệu đáng tin cậy của
bắt đầu sự hình thành tính tự lập của trẻ đó là nhu cầu tự khẳng định mình xuất
hiện. Trẻ muốn bắt chước làm một số công việc trong hoạt động diễn ra của


người lớn hàng ngày. Phần lớn giáo viên đều nhận thức đầy đủ và có thái độ
1


đúng đắn trong giáo dục tính tự lập cho trẻ. Song về hướng dẫn trẻ hoạt động để
hình thành tính tự phục vụ cho trẻ lại rất hạn chế. Nguyên nhân là do một số
giáo viên cho rằng trẻ còn q nhỏ để rèn tính tự lập, bên cạnh đó điều quan
trọng là giáo viên ngại khó, sợ tốn thời gian (Vì trẻ thực hiện chậm chạp, lóng
ngóng, vụng về...) và có tư tưởng “thơi để cơ làm cho nhanh”. Vì vậy để hình
thành và rèn cho trẻ mẫu giáo bé có thói quen làm một số cơng việc tự phục vụ
trước hết giáo viên phải phối hợp với cha mẹ trẻ cùng hướng dẫn, nhắc nhở trẻ
làm những công việc tự phục vụ cho bản thân để phát huy khả năng tự phục vụ,
làm cơ sở cho sự hình thành nhân cách cho trẻ sau này. Khi nhắc đến dạy kỹ
năng tự phục vụ cho trẻ mầm non, nhiều người cho rằng đó là một cái gì cao
siêu, nhưng thực tế là dạy trẻ những thói quen sinh hoạt rất thường ngày trong
giao tiếp và ứng xử của trẻ đối với bản thân và những người xung quanh
Tuy nhiên thực tế không phải phụ huynh nào cũng hiểu được điều đó. Một
hiện trạng khá đáng buồn là hiện nay nhiều bậc phụ huynh chỉ cần con mình học
giỏi mà quên đi việc rèn luyện cho con kỹ năng sống. Việc cha mẹ nuông chiều
con đã dẫn đến con không có tính tự lập, khơng biết làm một việc gì ngoài việc
học. Nếu con cứ ỷ lại, sống dựa dẫm vào cha mẹ như vậy thì tương lai con sẽ
thiếu đi cơ hội việc làm, khả năng thích ứng trong xã hội và thích ứng với cơng
việc. Muốn vậy, người lớn không chỉ cho trẻ học trên sách vở mà cịn cho trẻ
học kiến thức thực tế ngồi đời và kỹ năng tự chăm sóc bản thân phù hợp với
lứa tuổi, phải tạo niềm tin, tinh thần tập thể, đây là một trong những kỹ năng
quan trọng thúc đẩy hoàn thiện nhân cách trẻ một cách tốt nhất, giúp trẻ nhanh
chóng khơn lớn và trưởng thành trong cuộc sống.
Xuất phát từ những vấn đề đó, tơi ln suy nghĩ tìm ra những biện pháp
làm sao để trẻ có thói quen tự lập, tự phục vụ bản thân. Đặc biệt ở lứa tuổi mẫu
giáo bé 3 tuổi mà tôi đang trực tiếp giảng dạy, nhằm giúp trẻ có kỹ năng tự lập,

tự phục vụ bản thân trong mọi công việc hàng ngày, phù hợp với lứa tuổi và sự
phát triển của trẻ. Để trẻ bước đầu có được kỹ năng tự lập, tự phục vụ khơng chỉ ở
trường mà cịn cả ở gia đình và ngồi xã hội, vì vậy tơi mạnh dạn đưa ra ý kiến của
mình về “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ bản thân của trẻ tại lớp
mẫu giáo Bé trường Mẫu giáo Anh Đào, Tam Thái, , Quảng
Nam”.
3.1. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:

2


Trong năm học 2020-2021 này tôi được nhà trường phân cơng dạy lớp
Bé. Tổng số trẻ là 25. Trong đó nam: 14 trẻ, nữ: 11 trẻ. Sau khi nhận lớp bản
thân tơi nhận thấy lớp có những thuận lợi và khó khăn như sau:
* Thuận lợi:
Về cơ sở vật chất: Lớp học khang trang, sạch sẽ, rộng rãi, thoáng mát, có
đầy đủ đồ dùng dạy học theo thơng tư 02/2010 của BGD&ĐT ban hành danh
mục đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học tối thiểu dùng cho Giáo dục mầm non.
Được sự quan tâm của Phòng giáo dục và đào tạo huyện , sự chỉ đạo sâu
sát của Ban giám hiệu trường Mẫu giáo Anh Đào.
Ban giám hiệu nhà trường kết hợp với tổ chuyên môn thường xuyên tổ
chức các buổi chuyên đề theo tháng để giáo viên tham dự.
Được tham gia các chuyên đề do Phòng Giáo dục và trường Mẫu giáo
Anh Đào tổ chức.
Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện để bản thân được tham gia học
nâng chuẩn, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ sư phạm.
Trẻ đi học chuyên cần, tích cực tham gia các hoạt động. Có nề nếp, thói
quen tốt, lễ phép, biết vâng lời, biết chào hỏi cô khi đến lớp.
Phụ huynh thực hiện tốt trong việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường và
xã hội trong cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ.

Sự phối hợp chặt chẽ giữa các đoàn thể trong nhà trường. Đội ngũ giáo
viên đoàn kết thống nhất, có tinh thần trách nhiệm cao đồng lịng phát huy hết
khả năng để đạt được mục đích giáo dục.
Bản thân là giáo viên mầm non tơi thường xun tìm tịi, học hỏi nâng cao
trình độ chun mơn nghiệp vụ. u nghề, mến trẻ, tận tâm nghiên cứu để làm ra
những biện pháp giáo dục phù hợp, phát huy tính tích cực chủ động ở trẻ theo hướng
giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Hình thành ở trẻ tính tự lập tự phục vụ cho bản thân
* Khó khăn:
Phụ huynh thường quan tâm tới học chữ, học số, học viết, ít quan tâm đến
nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống hiện đại: Internet, điện tử, các trị chơi…
Trẻ sống trong mơi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm, không có
tính tự lập, ích kỉ, chưa quan tâm nhiều đến môi trường xung quanh.
Đa số trẻ ra lớp năm đầu tiên nên chưa mạnh dạn, tự tin, chưa thực sự chủ
động và linh hoạt trong mọi hoạt động.
3


Một số trẻ hiếu động chưa có ý thức giữ gìn đồ dùng đồ chơi dù được cơ
giáo nhắc nhở.
Một số trẻ chưa tự mình nhớ ký hiệu riêng, tự cất đồ dùng cá nhân đúng
nơi quy định.
* Kết quả khảo sát của trẻ đầu năm như sau: (Tổng số: 25 trẻ)
Nội dung khảo sát
Biết tự cất, lấy đồ dùng khi đến lớp và ra về
Biết tự cầm thìa xúc ăn cơm
Biết tự lấy cốc uống và cất đúng nơi quy định
Biết tự đi vệ sinh khi có nhu cầu
Biết cất, xếp đồ dùng, đồ chơi vào nơi quy định
Biết tự rửa tay với xà phòng

Biết bỏ rác vào thùng quy định
Biết tự cởi, mặc quần áo
Biết tự đi giày, dép
Biết tự súc miệng sau khi ăn
Biết chào hỏi người lớn tuổi
Biết giúp đỡ cô khi được yêu cầu
Biết tự đi lên xuống cầu thang
Biết tự lau mặt, gấp khăn của mình
Trẻ tự tin làm một số việc
Biết gọi người giúp đỡ khi cần

Kết quả khảo sát ban đầu
Số trẻ
Tỉ lệ
8/25
32%
8/25
32%
10/25
40%
10/25
40%
8/25
32%
10/25
40%
12/25
48%
8/25
32%

13/25
52%
12/25
48%
15/25
32%
8/25
56%
15/25
60%
10/25
40%
8/25
32%
7/25
28%

Với kết quả khảo sát trên, bản thân là giáo viên mầm non dạy lớp 3 tuổi,
tôi cảm thấy lo lắng và luôn suy nghĩ nên làm thế nào để góp phần vào việc nâng
cao chất lượng giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ để trẻ có thể tự tin hơn trong
cuộc sống
3.2. Nêu nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược
điểm của giải pháp đã biết:
Như Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dạy “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ
theo sức của mình”. Đúng vậy chúng ta cần rèn kỹ năng sống cho trẻ ngay từ khi
còn nhỏ, đặc biệt là kỹ năng tự phục vụ bản thân từ những việc đơn giản nhất
như tự xúc cơm ăn, tự mang dép, tự đi vệ sinh. Dạy trẻ những kỹ năng tự phục
vụ bản thân giúp trẻ ý thức được bản thân, đây là cơ hội nhanh nhất giúp trẻ
khôn lớn và trưởng thành trong cuộc sống.
Là một giáo viên tôi luôn mong những điều tốt đẹp nhất đến với trẻ để trẻ

phát triển một cách toàn diện về kỹ năng và nhân cách. Để thực hiện mục tiêu
4


này, bằng những kiến thức sư phạm, kinh nghiệm hiểu về tâm lý trẻ, sự tâm
huyết yêu nghề mến trẻ tơi đã đúc kết và tìm ra “Một số biện pháp giáo dục kỹ
năng tự phục vụ bản thân của trẻ mẫu giáo Bé trường Mẫu giáo Anh Đào,
Tam Thái, , Quảng Nam”.
Với sáng kiến này tơi muốn góp phần giúp trẻ có được tính tự lập biết tự
phục cho bản thân mà không cần đến sự giúp đỡ của người lớn, để từ đó giúp trẻ
mạnh dạn tự tin hơn khi đến lớp. Chính vì vậy giáo dục kỹ năng tự lập, tự phục
vụ cho trẻ mầm non là cơ sở cho sự hình thành nhân cách của trẻ giúp trẻ phát
triển một cách toàn diện sau này.
Để đạt được kết quả nêu trên, tôi đã áp dụng những biện pháp sau:
Biện pháp 1: Giáo viên tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chun
mơn và kỹ năng chăm sóc giáo dục trẻ tự phục bản thân.
Biện pháp 2: Tạo cơ hội cho trẻ tự phục vụ mọi lúc mọi nơi.
Biện pháp 3: Tạo hứng thú,động viên, khích lệ trẻ khi trẻ thực hiện các kỹ
năng tự phục vụ.
Biện pháp 4: Sắp xếp, tạo mơi trường nhóm lớp lành mạnh nhằm thực hiện
nhiệm vụ giáo dục trẻ kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Biện pháp 5: Dạy kỹ năng đơn giản cho những cháu chậm phát triển.
Biện pháp 6: Phối hợp với cha mẹ trẻ để rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân
cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
3.3. Nêu các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực
hiện và áp dụng giải pháp:
Được sự đồng thuận, nhất trí, ủng hộ của Ban giám hiệu nhà trường, chị
em đồng nghiệp, phụ huynh học sinh của lớp và sự tập trung, hứng thú của trẻ.
* Đối với bản thân:
Bản thân luôn thường xuyên nghiên cứu, sưu tầm, học hỏi những giải pháp

dạy trẻ kỹ năng tự phục bản thân có hiệu quả của đồng nghiệp, của những đơn vị
trên địa bàn hay những đơn vị có điều kiện phù hợp với khả năng và tình hình
thực tế của trường, của lớp mình.
Có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, giản dị, tác phong chuẩn mực.
Giáo viên có hiểu biết về chương trình giáo dục mầm non, hiểu được sự
cần thiết về giáo dục kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ, giúp trẻ phát triển một
cách tồn diện về nhân cách, được phụ huynh tín nhiệm, học sinh yêu mến.
Tôi luôn tôn trọng, chú ý lắng nghe ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, của
mọi người.
5


Tạo niềm tin trong phụ huynh. Giúp phụ huynh nhìn thấy được sự khác
biệt theo hướng tích cực trong kỹ năng tự phục vụ bản thân của trẻ trước và sau
khi áp dụng sáng kiến.
Hiểu được tâm sinh lí của từng trẻ, luôn luôn nêu cao tinh thần trách
nhiệm của mình, thực sự là người mẹ thứ hai của trẻ, kiên trì trong q trình dạy
trẻ, có lịng nhiệt tình và có lịng ham muốn học hỏi. Nắm vững phương pháp
giáo dục dành cho trẻ. Sưu tầm, cập nhật, nghiên cứu qua mạng Intrernet, sách,
báo, đài… những kiến thức mới, bổ ích, phù hợp với đặc điểm phát triển tâm
sinh lý trẻ để áp dụng có hiệu quả vào nội dung nghiên cứu. Thường xuyên thay
đổi các hình thức tổ chức cho trẻ để tránh sự nhàm chán.
* Đối với cơ sở vật chất:
Cơ sở vật chất, trang thiết bị tại lớp học được trang bị đầy đủ phù hợp với
trẻ lứa tuổi mầm non, có đủ đồ dùng học tập, tối thiểu theo quy định.
Nhà trường tạo điều kiện về tài liệu có liên quan đến nội dung, phương
pháp, hình thức giáo dục kỹ năng tự phục vụ bản thân của trẻ mẫu giáo bé. (Tài
liệu chuyên môn).
Tham mưu, phối hợp cùng nhà trường xây dựng môi trường giáo dục thân
thiện có hiệu quả cho trẻ.

Vận động sự phối hợp giữa phụ huynh làm cơ sở để tổ chức hoạt động
giáo dục kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ.
3.4. Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp:
* Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
Biện pháp 1: Giáo viên tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chun
mơn và kỹ năng chăm sóc giáo dục trẻ.
Xã hội càng phát triển, giáo dục đào tạo cũng phát triển theo, đòi hỏi ngày
càng cao hơn phẩm chất năng lực của đội ngũ giáo viên. Trước tiên giáo viên là
tấm gương để cho trẻ học tập vì ở lứa tuổi này trẻ hay bắt chước người lớn. Nói
cách khác, hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý cũng như sự
hình thành tính cách của trẻ. Trẻ em là người có sức sống, năng động, hoạt bát
và luôn phát triển nên cô giáo phải quan sát và nghiên cứu trẻ em thật kỹ lưỡng,
tìm hiểu thế giới nội tâm của chúng, phát hiện “bí mật thời thơ ấu”, phải u
thương trẻ em, tơn trọng tính cách của chúng, giúp trí não, tinh thần, thân thể và
tính cách của trẻ phát triển tự nhiên. Nếu hàng ngày cô thực hiện nghiêm túc
thời gian biểu cháu sẽ thực hiện đúng giờ nào việc đó. Vì những việc làm tốt
được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành thói quen tốt cho trẻ.
6


Tự học, tự bồi dưỡng là phương thức tốt nhất giúp người giáo viên tiến
bộ, trưởng thành, có đủ phẩm chất và năng lực chun mơn nghiệp vụ, hồn
thành nhiệm vụ giáo dục đào tạo được giao. Mỗi giáo viên trước hết phải nhận
thức được vị trí, vai trị, trách nhiệm về tự học, tự bồi dưỡng. Quyết tâm, có ý
thức trách nhiệm, kiên trì vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành mục tiêu đặt ra.
Thực hiện việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh” bằng các hành động và việc làm thiết thực hằng ngày.
Ngồi ra bản thân tơi ln chú trọng đến việc học tập từ bạn đồng nghiệp
trong trường và trên sách báo, mạng internet...
Thường xuyên tham gia dạy và dự chuyên đề dạy kỹ năng sống, kỹ năng

tự phục vụ cho trẻ do nhà trường hoặc các trường lân cận trong huyện tổ chức
(Hình ảnh 1,2, 3: Họp chuyên mơn tổ, tập huấn và hình ảnh dự giờ).
Biện pháp 2: Tạo cơ hội cho trẻ tự phục vụ mọi lúc mọi nơi, thông qua
chế độ sinh hoạt hằng ngày:
+ Giờ đón, trả trẻ:
Cơ giáo thường xun trị chuyện với trẻ, rèn trẻ kỹ năng giao tiếp, tự cất
đồ dùng cá nhân (cất dép, cất mũ, áo, khẩu trang, ba lơ đúng vị trí, tự lấy sữa
đưa cơ giáo) mà không cần cô giáo nhắc, không cần đến sự giúp đỡ của ba mẹ.
Dạy trẻ chào hỏi lễ phép. Tuy nhiên muốn trẻ lao động tự phục vụ như tự cất,
lấy đồ dùng đúng nơi qui định, tự đi giày dép, tự mặc quần áo... thì tủ đựng đồ
đùng cá nhân, giá treo mũ, giá để giày dép có chiều cao phù hợp với trẻ để trẻ tự
cất, tự lấy… tơi ln sắp xếp, bố trí các phương tiện để đồ dùng cá nhân, đồ
dùng trong sinh hoạt thuận tiện để trẻ tự lấy, cất, di chuyển, thay đổi... tạo cơ hội
để trẻ chủ động lựa chọn phương tiện phục vụ cho hoạt động của mình, thỏa
mãn nhu cầu, sở thích trong hoạt động hàng ngày của trẻ.
Chẳng hạn, khi trẻ đến trường tự cất được đồ dùng cá nhân vào đúng nơi
quy định. Tơi đã dùng lời nói và cử chỉ khích lệ trẻ như “con rất giỏi, hơm nay
đã tự cất đồ dùng của mình”. Hay, trong khi trẻ thực hiện các nhiệm vụ mà tôi
đưa ra dưới hình thức thi như “Thi xem ai có bàn tay sạch nhất”, “Ai có khn
mặt đẹp nhất”... tơi cho trẻ tự nhận xét về bản thân mình xem đã tự làm sạch
được chưa? Cho các bạn tự kiểm tra cho nhau và tơi cùng trẻ xem ai có bàn tay
sạch, khn mặt sạch... Như vậy, qua nhiều tình huống và được lặp đi, lặp lại
nhiều lần sẽ hình thành ở trẻ khả năng tự đánh giá và biết đánh giá về người khác.
Ví dụ: Giờ đón trẻ, tơi có thể thiết kế trị chơi “Tìm chỗ cho đồ dùng của
bạn”, hay “Đồ dùng của bạn để ở đâu”… để hình thành cho trẻ thói quen tự phục
7


vụ; trị chơi “Kể nhanh những cơng việc con có thể làm khi đến lớp hay trước
khi ra về”… để cùng chơi với trẻ trong các góc chơi, trong hoạt động chiều,

những lúc chơi tự do… để giáo dục trẻ tự cất, lấy đồ dùng đúng nơi quy định,
khi đến lớp và khi ra về. (Hình ảnh 4, 5,6: Giờ đón trẻ).
+ Đối với giờ học:
Cũng như các hoạt động khác hoạt động học cũng góp phần rèn kỹ năng
tự phục vụ cho trẻ hiệu quả. Với mỗi hoạt động tơi quan sát, tìm tịi, lựa chọn
hình thức, giúp trẻ hình thành ý thức tự phục vụ một cách tốt nhất.
Tơi ln chú trọng tạo góc chơi trong lớp, ngồi lớp với sự đa dạng của
nguyên vật liệu thiên nhiên, cơng cụ gắn với hoạt động mà trẻ thích làm... để trẻ
thoải mái thực hiện những ý định của chúng mà khơng cần có sự can thiệp của
người lớn.
Hằng ngày trong giờ học, tôi thường hay thiết kế nội dung học dưới hình
thức các trị chơi, khuyến khích trẻ học qua chơi.
Ví dụ: Giờ Khám phá khoa học về mơi trường xung quanh, thay vì yêu
cầu trẻ chọn những loại quả có nhiều hạt và ít hạt, tơi cho trẻ đóng vai những
chú thỏ và gấu thi đua hái quả, những chú thỏ hái những quả có nhiều hạt, gấu
hái quả có ít hạt… trẻ sẽ rất thích thú và tự giác tham gia vào hoạt động học.
Cuối ngày tôi cùng trẻ xem lại, trẻ tự xem, tự nói lên cảm xúc, nhận xét
của mình về bức ảnh, về các sản phẩm của mình. Tơi khen ngợi để tạo động cơ,
thúc đẩy nhu cầu hoạt động của trẻ. Cuối chủ đề, cuối giai đoạn kết hợp với các
lớp, với phụ huynh tổ chức sự kiện của lớp để trưng bày, chia sẻ sản phẩm của mình.
Ví dụ cuối giờ học trẻ có thể giúp cơ tự cất dụng cụ học tập như (màu tô,
đất nặn, sách vở đúng nơi quy định) hay giờ hoạt động góc xong trẻ có thể tự thu dọn
đồ chơi cất đúng nơi, đúng chỗ… (Hình ảnh 7&8: Hoạt động học, hoạt động góc).
+ Thơng qua hoạt động ngồi trời:
Thơng qua hoạt động này tơi tận dụng các cơ hội để giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ bằng cách tham gia vào các hoạt động thực tiễn như “làm bác nông
dân”; “làm bác chăm vườn” để tự nhổ cỏ, lau lá, không ngắt lá bẻ cành, khơng
dẫm lên cỏ, hoa. Biết giữ gìn vệ sinh mơi trường sạch sẽ, nhặt rác và bỏ vào
thùng rác. Hướng dấn trẻ cách chăm sóc cây, tưới cây, nhổ cỏ, cho trẻ cầm chổi
quét rác, rèn cho trẻ ý thức tự phục vụ và chăm sóc những gì gần gũi, xung quanh.

Ví dụ: Trong góc thiên nhiên, tơi cho trẻ tưới cây, tạo tình huống là hết
nước thì hỏi trẻ bây giờ phải làm thế nào? Cho trẻ và tôi tự thảo luận cùng nhau,
cho trẻ đưa ra nhiều phương án và cách giải quyết.
8


Thơng qua hoạt động ngồi trời, tơi cho trẻ được trở thành những nhân vật
mà trẻ rất thích được làm như “Nhà khoa học tí hon” để khám phá thơng qua các
trị chơi như “Vật chìm, vật nổi”, “Chất tan, chất không tan”, “Vật lăn được, vật
không lăn được”… hay “Nhà thám hiểm tí hon” để tìm hiểu về sự thay đổi của
sự vật xung quanh (cây nẩy mầm, lớn lên, nở hoa…) để trẻ được tự tìm hiểu,
chủ động tham gia và tự khám phá trong hoạt động. (Hình ảnh 9: Hoạt động
chăm sóc vườn rau, vườn hoa).
+ Đối với giờ ăn, ngủ:
Trong giờ ăn, để giáo dục trẻ tự tham gia vào tổ chức bữa ăn (tự kê ghế, tự
ra xếp hàng rửa tay, tự tìm chỗ ngồi, tự xúc ăn…), thay vì u cầu trẻ làm những
cơng việc tự phục vụ, tơi ln khuyến khích, động viên trẻ tổ chức cho trẻ dưới
hình thức thi đua “Thi xem ai là người làm được nhiều việc giúp cô để chuẩn bị
bữa ăn”, hay thi “Bạn nào có bàn tay sạch, đẹp nhất”, “Bạn nào có khn mặt
sạch nhất”, “Bạn nào tự xúc ăn giỏi nhất”..., qua đó khích lệ trẻ tự làm dưới sự
theo dõi của cô để kịp thời giúp đỡ trẻ khi cần thiết. (Hình ảnh 10, 11, 12: Giờ
ăn, ngủ).
+ Trong giờ chơi:
Hoạt động vui chơi mang tính tích hợp cao trong giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ. Vui chơi được tổ chức đáp ứng nhu cầu của trẻ, đồng thời tích hợp
nội dung giáo dục, khi cho trẻ chơi hoạt động góc thì trẻ biết tự cất dọn đồ
chơi vào đúng nơi quy định. Và trong hoạt động chơi, tôi luôn đưa ra nhiều tình
huống để trẻ cùng suy nghĩ và tự đưa ra sự lựa chọn:
Ví dụ như hơm nay chúng mình dự định chơi những trị chơi gì? Để chơi
được trị chơi đó phải cần có ai? Cần những đồ dùng đồ chơi gì? Các con sẽ

chuẩn bị được những gì? Con thích chơi gì?... với những câu hỏi gợi ý như vậy,
trẻ tự đưa ra lựa chọn của mình về trị chơi, các vai chơi, nội dung chơi theo sở
thích của mình mà khơng bị áp đặt theo dự định của tôi.... Thông qua hoạt động,
trẻ tự lựa chọn đồ dùng, phương tiện phù hợp để hoàn thành nhiệm vụ.
Cuối chủ đề, tổ chức cuộc thi cấp trường lớp “Bé chăm, bé ngoan”, “Bé
sạch, bé đẹp”, “Tơi làm gì và bạn làm gì”… để trẻ có cơ hội được tự giải quyết
các tình huống dưới dạng trị chơi với tính chất thi đua để luyện tập, thực hành,
trải nghiệm thông qua các nhiệm vụ cụ thể.
Việc tự phục vụ của trẻ khơng chỉ được thể hiện ở trường mà nó cịn được
thể hiện ở nhà với gia đình ,trẻ rất thích thú khi được bố mẹ nhờ làm cơng việc
gì đơn giản đối với trẻ.
9


Ví dụ: Khi mẹ nhặt rau trẻ có thể giúp mẹ lấy rổ đựng rau, phụ giúp mẹ
nhặt rau.
Biện pháp 3: Sắp xếp, tạo mơi trường nhóm lớp lành mạnh nhằm thực
hiện nhiệm vụ giáo dục trẻ kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Xây dựng môi trường giáo dục thân thiện, đảm bảo an toàn tuyệt đối cả về
thể chất và tinh thần cho trẻ là một yêu tố quan trọng. Chính vì vậy việc xây
dựng mơi trường cho trẻ hoạt động là xây dựng một mơi trường an tồn, thân
thiện, ấm cúng, trình bày đẹp mắt, sắp xếp đồ chơi gọn gàng bố trí đẹp mắt thu
hút trẻ và phù hợp với trẻ từ đó giúp trẻ chủ động tham gia vào các hoạt động.
Có cơ hội trải nghiệm và tích cực tham gia các hoạt động.
+ Mơi trường vật chất:
Ngay từ những ngày đầu được giao nhiệm vụ phụ trách lớp. Tơi đã lên kế
hoạch trang trí mơi trường trong và ngồi lớp xanh, sạch, đẹp. Trang trí các góc
đảm bảo tính sư phạm, an tồn và thuận tiện khi trẻ sử dụng. Ngoài những đồ
dùng, dụng cụ theo thơng tư 02 như xích đu, cầu trượt, đu quay, bàn ghế trang
thiết bị đồ dùng dạy học, được trang bị đầy đủ. Tôi đã mạnh dạn tham mưu thêm

với Ban giám hiệu nhà trường về một số đồ dùng trang thiết bị để phục vụ cho
hoạt động của trẻ (Nhà trường kết hợp với phụ huynh mua bình nước nóng cho
lớp) các nguyên vật liệu cần thiết (xốp màu, đề can, giấy màu, hồ dán, keo
nến…) để phục vụ cho hoạt động trang trí lớp cũng như làm đồ dùng đồ chơi
phục vụ cho hoạt động của cả cô và trẻ.
Tôi thường xuyên kiểm tra điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng
đồ chơi của lớp, nếu phát hiện hỏng hay xuống cấp sẽ báo ngay với ban giám
hiệu nhà trường để kịp thời sửa chữa, khắc phục những yếu tố gây nguy cơ mất
an toàn cho trẻ khi tham gia hoạt động tại lớp.
Bên cạnh đó trong lớp tơi bố trí các góc chơi phù hợp, có góc thư viện để
trẻ trải nghiệm, góc chơi sáng tạo chung ngay dưới sân trường để cho trẻ hoạt
động. Phần là trẻ được hoạt động, trải nghiệm ngồi trời sẽ tạo cho trẻ thêm sự
hứng thú, kích thích tư duy sáng tạo cho trẻ.
Phần là khi trẻ được hoạt động tập thể, không những phát triển mối quan
hệ qua lại giữa trẻ và trẻ, giúp chúng thể hiện rõ ý thức làm chủ, độc lập mà còn
giúp trẻ sẽ nâng cao được ý thức trách nhiệm của bản thân về việc cất xếp và sử
dụng đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định, lấy ở đâu, chỗ nào sẽ cất đúng vào nơi
đó đúng mục đích và u cầu của hoạt động. Góp phần hình thành kĩ năng tự lập
10


cho trẻ ngay từ nhỏ mà không tốn nhiều thời gian và công sức, lại tạo được sự
thoải mái, không gị bó đối với trẻ.
Nhận thức được điều này tơi luôn chuẩn bị các đồ dùng, phương tiện đa
dạng về hình dáng, mẫu mã gắn với những con vật, đồ vật gần gũi với trẻ, trẻ
yêu thích, mầu sắc đẹp. Cụ thể: đồ dùng, dụng cụ để trẻ tự phục vụ cá nhân (Ca,
bàn chải, mặt, chậu, xơ... có hình dạng gần gũi với sở thích của trẻ như hình mặt
cười, hình quả táo, quả cam...) để thu hút sự chú ý, kích thích trẻ thích thú tham
gia vào thực hiện lao động tự phục vụ tong sinh hoạt hàng ngày. Lựa chọn đồ
dùng, đồ chơi dễ làm, dễ thực hiện để khuyến khích trẻ tự làm trong các hoạt

động, mặt khác để giúp trẻ dễ dàng tự thực hiện được mong muốn, nhu cầu tự
hoạt động của mình. (Hình ảnh 13,14, 15: Quang cảnh môi trường).
+ Tạo môi trường tinh thần:
“Mơi trường thân thiện, học sinh tích cực”. Theo khẩu hiệu đó, trong các
hoạt động ở mọi lúc mọi nơi. Tơi ln tìm cách tạo ra cho trẻ một bầu khơng khí
vui tươi, lành mạnh, thoải mái giúp trẻ được vui chơi, khám phá đạt hiệu quả
cao nhất. Tôi luôn thực hiện tốt mọi chỉ đạo của nhà trường về xây dựng môi
trường lấy trẻ làm trung tâm nhằm giúp trẻ phát triển tồn diện. Vì vậy trong
việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chăm sóc ni dưỡng giáo dục trẻ tôi không ép
buộc, bắt trẻ phải làm một cái gì đó mà trẻ khơng muốn. Bởi khi đó chắc chắn
hiệu quả sẽ không cao, mà nhiều khi lại làm tác dụng ngược. Bên cạnh đó, cách
cơ trị chuyện với trẻ vui vẻ, ân cần, cách cô giáo dục trẻ nói chuyện với người
lớn và bạn bè, cách cơ và trẻ cùng chơi cùng tham gia các hoạt động cũng góp
phần khơng nhỏ tạo nên một mơi trường tinh thần thoải mái, hứng thú cho trẻ.
Hằng ngày tôi luôn quan tâm đến biểu hiện của trẻ để kịp thời phát hiện
những biểu hiện vui, buồn, những biểu hiện khác lạ, kịp thời động viên, khích lệ
trẻ trong khi trẻ hoạt động. Cho trẻ tự chọn hoạt động để làm, tự chọn trị chơi
để chơi. Tơi thường làm cùng trẻ, chơi cùng trẻ, nghĩ cách nghĩ của trẻ, chơi kiểu
chơi của trẻ... tạo cho trẻ cảm giác tôi thực sự là một “người bạn nhỏ” của trẻ.
Khuyến khích trẻ nói lên những cảm xúc, suy nghĩ của mình trong các hoạt động.
Ví dụ: Tơi hay hỏi trẻ “con tự làm việc giúp cô con thấy thế nào?”, “con
được tự chơi theo ý mình con thấy thế nào?”, “con có khó khăn gì khi tự làm
khơng?”... qua đó tơi nắm được nhu cầu, nguyện vọng, khả năng của trẻ để có
tác động phù hợp. Cùng trẻ lưu lại những kết quả trong các hoạt động thơng qua
sản phẩm, những hình ảnh đáng yêu của tôi và trẻ trong các hoạt động.
11


Ngoài ra như chúng ta cũng biết là trẻ mầm non rất thích được khen, nghe
những lời ngọt ngào, lời hay, do vậy mỗi khi trẻ làm tốt cô giáo cần động viên

khen ngợi trẻ kịp thời đó cũng là một biện pháp mang lại hiệu quả cao. Cô giáo
cần hiểu được tâm sinh lý mỗi trẻ cô khen ngợi những trẻ biết tự phục vụ bản
thân, cô động viên khích lệ những bạn chưa tự làm được để trẻ có tinh thần cố
gắng làm được như các bạn.
Ví dụ trong giờ ăn cô tuyên dương bạn nào ăn giỏi tự xúc ăn hết phần của
mình sẽ được cơ khen, cơ tặng phiếu bé ngoan,như thế trẻ sẽ rất thích thú và cố
gắng tự xúc ăn để được cô khen, bạn nào chưa tự xúc ăn thì cơ nhẹ nhàng hướng
dẫn cho trẻ biết cầm muỗng và xúc cơm ăn.
Việc khen ngợi cần được xem như một hành động công nhận trẻ đã hồn
thành một cơng việc nào đó, ở bất cứ một mức độ nào (Sơ sài, bình thường hay
hồn chỉnh). Chính vì vậy cần đưa ra lời khen ngợi bằng sự nhận xét tích cực
sau mỗi việc mà trẻ đã làm, cần hạn chế khen ngợi quá mức với những việc đơn
giản, điều đó sẽ làm tác dụng của việc khen ngợi bị đảo ngược lại. (Hình ảnh
16: Cắm cờ bé ngoan).
Biện pháp 4: Dạy kỹ năng đơn giản cho những cháu chậm phát triển
Đối với những trẻ kỷ năng tự phục vụ trong các hoạt động còn hạn chế, tơi
ln tạo tình huống để gợi ý, định hướng, khắc phục dần những hạn chế và từng
bước nâng dần khả năng tự làm, tự thể hiện trong hoạt động, trong vai chơi của trẻ.
Ví dụ: trẻ chưa tự lựa chọn được trò chơi, vai chơi, nội dung chơi, tơi tạo
tình huống như đóng vai là bạn để gợi ý cho trẻ như “Bạn ơi, chúng mình cùng
chơi nấu ăn được khơng? Hơm nay, tơi có món ăn mới muốn cùng bạn nấu để
cùng thưởng thưởng thức nhé ”. Hay “Hôm nay là sinh nhật của Bác Gấu, bác
Gấu nhờ GV chiều nay mời tất cả các bạn đến dự sinh nhật bác Gấu, chúng
mình cùng thảo luận xem nên làm gì để tặng quà sinh nhật cho bác gấu nào? ”.
Với những lời vừa có tính định hướng cho trẻ, xong lại như một lời đề nghị
mong muốn được tham gia chơi cùng trẻ sẽ làm cho trẻ thích thú và dễ dàng
chấp nhận để tham gia vào những nội dung chơi mới, tự mở rộng nội dung chơi.
Mặt khác, lời định hướng này kích thích trẻ phải tự suy nghĩ xem mình phải làm
gì? Làm như thế nào? Trẻ phải tự trình bày suy nghĩ, ý tưởng của mình,… Thực
hiện theo cách giải quyết của trẻ.

Rèn kỹ năng chào hỏi, cất đồ dùng đúng nơi quy định.

12


Đối với những cháu còn chậm chưa quen với việc tự phục vụ, tôi luôn ân
cần chỉ dạy, hướng dẫn cho trẻ biết chào hỏi cô khi đến lớp, hướng dẫn cháu tự
cất đồ dùng cá nhân đúng theo ký hiệu riêng của mình.
Rèn kỹ năng tự xúc ăn, cách cầm thìa, bát.
Rèn kỹ năng đi vệ sinh đúng nơi quy dinh, kỹ năng sử dụng khăn mặt, rửa
tay bằng xà phòng.
Biện pháp 5: Phối hợp với cha mẹ trẻ để rèn kỹ năng tự phục vụ bản
thân cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi
Việc kết hợp giữa phụ huynh và nhà trường là rất cần thiết để tìm hiểu đặc
điểm nhận thức cũng như tâm sinh lí của lứa tuổi, cùng với kinh nghiệm nuôi
dạy con từ bản thân, tơi đã tìm tịi, sưu tầm cũng như học hỏi để trao đổi cho các
bậc phụ huynh tìm ra những biện pháp tối ưu giúp trẻ có được kỹ năng tự phục
vụ bản thân để có hiệu quả tốt nhất.
Thơng qua buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã thông qua chương trình
giáo dục trẻ nói chung và giáo dục kỷ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ nói riêng
với phụ huynh, giúp họ nắm bắt và góp ý để thống nhất về nội dung, phương
pháp, biện pháp giáo dục cho trẻ như thông qua ngôn ngữ viết, thông qua hình
ảnh, các video. Theo từng chủ đề, ngồi việc tun truyền nội dung giáo dục
thơng qua các góc trao đổi, tơi tạo các nhóm liên kết qua Zalo, Facebook để phụ
huynh nắm bắt thông tin về giáo dục trẻ ở nhà trường và lớp. Hàng ngày, tơi ghi
hình về việc trẻ tham gia trong các hoạt động ở lớp, ở trường đưa lên nhóm của
lớp để trẻ có dịp xem lại, phụ huynh kịp thời nắm bắt và ủng hộ việc làm của tôi,
đồng thời kết hợp hỗ trợ giáo dục trẻ tại gia đình.
Ví dụ: Đối với gia đình, tơi ln khuyến khích phụ huynh ghi lại những
việc trẻ làm được và đăng trên nhóm để trẻ, phụ huynh trong lớp được biết,

khuyến khích tính thi đua trong trẻ, sự đồng bộ trong phụ huynh. Cuối chủ đề,
tôi tạo thành những video về những hoạt động tự lập của trẻ ở nhà cũng như ở
trường theo mức độ tự lập của trẻ trong tất cả các hoạt động trong ngày và mở
cho cả lớp cùng xem, để khích lệ tinh thần trẻ.
Đối với những trẻ biểu hiện tự lập chưa tốt, tôi trao đổi trực tiếp với phụ
huynh để họ nắm bắt về khả năng của trẻ. Đồng thời, bản thân tôi nắm bắt được
quan điểm giáo dục con của họ để có biện pháp trao đổi phù hợp và cùng thống
nhất về việc giáo dục kỷ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ. Sau mỗi chủ đề, tôi
đánh giá trẻ, rút kinh nghiệm từ bản thân, tổng hợp ý kiến từ phụ huynh và rút
kinh nghiệm cho chủ đề sau trong quá trình sử dụng biện pháp tác động tới trẻ.
13


Trao đổi với phụ huynh qua sổ nhật kí của từng trẻ. Những kết quả trên trẻ
hàng ngày, trong chủ đề, trong tháng, hết giai đoạn giáo viên lưu lại sổ nhật kí
để giáo viên và phụ huynh nắm bắt được biểu hiện tự lập của trẻ cũng như sự
tiến bộ trong quá trình giáo dục để kịp thời điều chỉnh biện pháp phù hợp.
Bên cạnh đó thơng qua góc tuyên truyền ở lớp tôi luôn đưa tin về những
biện pháp giáo dục kỷ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ để phụ huynh cùng tìm
hiểu và tham khảo. (Hình ảnh 17,18: Tuyên truyền, trao đổi với phụ huynh)
4.5. Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ bản thân của
trẻ mẫu giáo Bé trường Mẫu giáo Anh Đào, Tam Thái, ,
Quảng Nam” có thể áp dụng cho tất cả giáo viên trong trường, các địa phương
khác trong huyện và ngồi huyện trong q trình thực hiện nhiệm vụ chăm sóc
và giáo dục trẻ.
Với những vấn đề trình bày ở trên có thể thấy việc giáo dục kỷ năng tự phục
vụ cho trẻ trở nên dễ dàng hơn chỉ cần chúng ta tâm huyết với trẻ, đặt niềm tin vào trẻ.
- Những thói quen, dần hình thành ở trẻ:
+ Trẻ có thêm tự tin vào khả năng của bản thân.

+ Trẻ có ý thức, trách nhiệm hơn trước trong mọi hành vi, hành động của mình.
+ Trẻ khơng cịn ỷ lại vào người lớn, hiểu và biết rằng tự làm những việc
tự phục vụ bản thân, tự lập là một điều đáng khen.
+ Biết phối hợp với bạn, biết đoàn kết và giúp đỡ người khác.
- Trên cơ sở những thói quen đó những đức tính cần thiết cũng sẽ hình thành:
+ Tính tự lập: Thích “tự làm lấy” tự giác làm những việc trẻ tự làm được.
+ Tính mạnh dạn: Mạnh dạn khi giao tiếp với mọi người, khi đến chỗ xa lạ,
khi cô yêu cầu (hát, múa) hoặc cô nhờ trẻ giúp đỡ, không nhút nhát, e dè…
+ Tính ngăn nắp: Ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ, sắp lại đồ chơi ngăn nắp sau
khi chơi, khơng bày bừa, vứt đồ vật lung tung.
+ Tính kỉ luật: Biết nghe lời, biết tôn trọng những quy tắc sinh hoạt
chung, biết tự kiềm chế…
5. Những thông tin cần được bảo mật: (Khơng có)
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Qua các biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục của trẻ tại lớp, trẻ dần trở
nên tự tin, mạnh dạn tham gia vào các hoạt động, biết tự làm được những việc
đơn giản phục vụ bản thân.
14


Thơng qua giờ đón, trả trẻ cơ ln tun truyền đến phụ huynh các hình
thức giáo dục kỹ năng tự phục vụ bản thân của trẻ. Nhờ vậy các bậc phụ huynh
luôn tin tưởng, kết hợp với nhà trường, giáo viên để thực hiện biện pháp giáo
dục kỹ năng tự phục vụ bản thân của trẻ thông qua các hoạt động với nhiều hình
thức khác nhau.
7. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến
lần đầu, kể cả áp dụng thử:
Sáng kiến được đánh giá đảm bảo tính khoa học, tính sáng tạo, có hiệu

quả và ứng dụng thực tiễn dễ dàng .
Qua một thời gian áp dụng và thực hiện một số biện pháp trên, bước đầu
đạt kết quả như sau:
* Kết quả trên trẻ:

TT

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

Kết quả
khảo sát
ban đầu
Số
Tỷ lệ
trẻ


Nội dung đánh giá

Biết tự cất, lấy đồ dùng khi đến lớp và
ra về
Biết tự cầm thìa xúc ăn cơm
Biết tự lấy cốc uống và cất đúng nơi
quy định
Biết tự đi vệ sinh khi có nhu cầu
Biết cất, xếp đồ dùng, đồ chơi vào nơi
quy định
Biết tự rửa tay với xà phòng
Biết bỏ rác vào thùng quy định
Biết tự cởi, mặc quần áo
Biết tự đi giày, dép
Biết tự súc miệng sau khi ăn
Biết chào hỏi người lớn tuổi
Biết giúp đỡ cô khi được yêu cầu
Biết tự đi lên xuống cầu thang
Biết tự lau mặt, gấp khăn của mình
Trẻ tự tin làm một số việc
Biết gọi người giúp đỡ khi cần

Kết quả
So sánh
khảo sát
với đấu năm
cuối năm
Số
Tỷ lệ Tăng Giảm

trẻ

8/25 32% 23/25 92% 60%
8/25 32% 22/25 88% 56%
10/25 40% 25/25 100% 60%
10/25 40% 24/25 96% 56%
8/25 32% 23/25 92% 60%
10/25
12/25
8/25
13/25
12/25
15/25
8/25
15/25
10/25
8/25
7/25

40%
48%
32%
52%
48%
32%
32%
60%
40%
32%
28%


24/25
24/25
25/25
25/25
25/25
24/25
23/25
25/25
25/25
23/25
24/25

96%
96%
100%
100%
100%
96%
92%
100%
100%
88%
96%

56%
48%
68%
48%
52%

64%
60%
40%
60%
56%
68%

Trẻ có thêm tự tin vào khả năng của bản thân.
Trẻ có ý thức, trách nhiệm hơn trước trong mọi hành vi, hành động của mình.
Biết phối hợp với bạn, biết đoàn kết và giúp đỡ người khác.
15


Trẻ có thói quen tốt trong việc giữ gìn vệ sinh thân thể, vệ sinh lớp học…
Đa số trẻ biết sắp xếp đồ dùng đồ chơi gọn gàng, đúng nơi quy định. Biết
giữ gìn, bảo vệ đồ dùng đồ chơi. Biết nêu ý kiến của bản thân khi bạn có hành vi
khơng tốt với đồ dùng đồ chơi.
Trẻ có thói quen văn minh nơi công cộng thể hiện bằng việc nhận thức
được: Không vứt rác bừa bãi, không vẽ bẩn lên tường, không bẻ cành, ngắt hoa
nơi công cộng, không cười nói ồn ào làm ảnh hưởng đến người khác…
Trẻ biết tự lập, tự làm những việc làm phục vụ bản thân, không nhõng
nhẽo, không ỷ lại vào người lớn, ham thích lao động.
* Kết quả từ phía các bậc phụ huynh:
Hiểu thêm được được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng tự lập, tự
phục vụ cho trẻ từ nhỏ. Không làm thay cho trẻ những việc mà trẻ có thể làm để
tự phục vụ bản thân.
Quan tâm hơn tới chương trình và hồn tồn ủng hộ giáo viên thực hiện.
Thêm tôn trọng giáo viên, đề cao hơn cấp học mầm non và từ đó cho trẻ
đi học đúng giờ, đều đặn hơn.
* Về phía giáo viên và nhà trường:

Giáo viên có kế hoạch cụ thể để tổ chức, rèn luyện kỹ năng tự lập cho trẻ.
Giáo viên có thêm tài liệu, biện pháp trong việc giáo dục trẻ kỹ năng tự lập.
Giáo viên tự tin khi thực hiện.
Nâng cao cơng tác chăm sóc ni dưỡng, giáo dục trẻ.
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn,
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự
chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với người chăm sóc trẻ.
Ý thức được rằng việc giáo dục kỹ năng tự lập, tự phục vụ cho trẻ mầm
non nói chung và lứa tuổi mẫu giáo bé nói riêng là vơ cùng quan trọng trong
việc hình thành nhân cách con người. Mỗi giáo viên chúng ta cần có kế hạch rõ
ràng, cụ thể, chi tiết cho mọi hoạt động trong ngày. Từ đó mỗi một hoạt động lại
cung cấp cho trẻ những trải nghiệm khác nhau nhưng mục đích cuối cùng vẫn là
giáo dục kỹ năng tụ lập, tự phục vụ cho trẻ.

16



×