Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phương pháp dạy học giúp học sinh lớp 3 đọc tốt ở trường Tiểu học Trần Quốc Toản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.82 KB, 16 trang )

1

Mẫu 4

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cơ sở huyện .
Tên đề tài sáng kiến: “Phương pháp dạy học giúp học sinh lớp 3 đọc tốt ở trường
Tiểu học Trần Quốc Toản”
1- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Dạy học giúp học sinh lớp 3 đọc tốt ở
trường Tiểu học Trần Quốc Toản
2- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ đầu tháng 8
năm 2020 đến cuối tháng 3 năm 2021
3- Mô tả bản chất của sáng kiến
3.1 Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:
Ưu điểm:
- Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn. Tổ chức bồi
dưỡng giáo viên, cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi, giảng dạy.
- Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng,
tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến
hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy.
- Đội ngũ giáo viên trong tổ có tay nghề vững, lâu năm trong cơng tác, có nhiều kinh
nghiệm, những đồng chí trẻ thì nhiệt huyết, năng động, có ý thức tốt về trách nhiệm
người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên mơn cũng như giúp nhau
tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng
như hạnh kiểm.
- Năm học này thành phần phụ huynh tương đối trẻ nên nhận thức trong phụ huynh có
thay đổi, bước đầu đã có sự quan tâm và đầu tư nhiều hơn cho việc học của con em
mình. Có ý thức trách nhiệm, khơng khốn trắng cho nhà trường, cho giáo viên mà



2
cùng với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị đầy đủ sách vở,
đồ dùng học tập, thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến
lớp cũng như học tập ở nhà. Thường trao đổi với giáo viên về việc học của con em
mình.
-Các em đa số rất ngoan, vâng lời cơ giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ
khích lệ động viên khen thưởng …
- Trong quá trình dạy học nhờ áp dụng những sáng kiến mới của bản thân mà học
sinh học tập tích cực, đọc bài hăng say hơn.Từ việc đọc lưu loát giúp các em học tập
các môn khác dễ dàng hơn, nhanh hiểu câu lệnh hơn…
Tuy nhiên, cùng với những ưu điểm trên bản thân tơi nhận thấy trong q
trình áp dụng sáng kiến vẫn tồn tại một số nhược điểm sau:
- Đèn chiếu, máy tính đầy đủ tuy nhiên phịng học chưa đủ nên việc học chạy phòng
nhiều trong tuần ảnh hưởng đến việc dạy các tiết giáo án điện tử .
- Trình độ học sinh trong lớp khơng đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học tốt,
tiếp thu nhanh vẫn cịn một số em phát triển chậm về trí tuệ, học trước quênsau, rụt rè.
- Do đặc trưng vùng, miền đặc biệt là người dân Quảng Nam chúng ta phát âm chưa
đúng với quy định phổ thông nên việc rèn cho các em đọc đúng giọng phổ thơng rất
khó khăn.
- Đa số phụ huynh trong lớp là dân làm nơng nên vẫn cịn một số ít phụ huynh chưa
quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm
cặp con em mình học bài, đọc bài ở nhà. Một số phụ huynh chỉ quan điểm con biết
đọc là được không quan trọng con mình đọc có hay và diễn cảm hay không.
3.2 Nêu nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm của giải
pháp đã biết:
* Mục đích của giải pháp:
- Tìm ra các biện pháp giúp học sinh đọc đúng, đọc to rõ ràng, đọc diễn cảm,...HS
phát triển được năng lực đọc một cách tốt nhất và đồng đều nhất.



3
- Tạo tiền đề cho học sinh mạnh dạn hơn trong giao tiếp, và sử dụng từ ngữ mạch lạc
hơn…
* Nội dung giải pháp:
Sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ:
Bản thân tôi vẫn thực hiện lại các phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở lớp 3
nói chung và phương pháp dạy phân mơn Tập đọc lớp 3 nói riêng, đồng thời tìm tịi,
học hỏi và đề xuất những biện pháp cụ thể hơn, mới hơn ở một số bài học cụ thể
nhằm giúp các em học sinh trong trường đọc tốt hơn, đặc biệt là học sinh lớp 3.
- Cách thức thực hiện, các bước thực hiện của giải pháp mới:
Đối với đội ngũ giáo viên:
Muốn học sinh học đọc tốt không chỉ dạy cho các em đọc từ khó, giáo viên đọc
trước, học sinh đọc sau, phải tạo điều kiện cho học sinh tự tìm ra từ khó để luyện đọc,
tự đọc theo khả năng của mình sau đó giáo viên mới sửa chữa cho học sinh.
Tạo cho học sinh tâm lý thỏa mái khi học, giúp các em hiểu được lợi ích của việc
đọc tốt, ngồi ra biết chữ cịn giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp cũng
như học tập các mơn khác tốt hơn.
Giúp học sinh thốt khỏi cảm giác tự ti khi đọc, sợ sai sẽ bị cô và các bạn cười, tạo
cho các em không gian học hòa đồng cùng nhau chia sẻ và cùng tiến bộ.
- Đối với học sinh ở trường tôi đa phần các em có đều nói giọng địa phương,
các em phát âm chưa chuẩn chúng ta cần có biện pháp dạy tập trung thực hiện yêu
cầu tối thiểu, đó là đọc đúng, đọc rành mạch, tốc độ dọc từ 60-> 70 tiếng/ phút, nắm
được ý cơ bản của bài học. Để đạt được yêu cầu này giáo viên cần chú trọng hình thức
đọc cá nhân để rèn luyện, uốn nắn học sinh kết hợp hình thức đọc theo nhóm để học
sinh tham gia đọc nhiều lần trong một tiết học, xen kẽ đọc đồng thanh để tạo khơng
khí lơi cuốn học sinh đọc chậm, học sinh còn rụt rè vào hoạt động học, đảm bảo toàn
bộ học sinh được tham gia luyện đọc và đọc được càng nhiều càng tốt.
Đối với phần tìm hiểu bài, cần chú ý giải nghĩa từ khó, tận dụng tối đa tranh



4
minh họa và đồ dùng dạy học, giáo viên cần giải nghĩa một cách cụ thể để học sinh dễ
nhận biết, dành nhiều thời gian vào đọc rõ ràng, mạch lạc.
Ví dụ: Bài tập đọc “ Người con của Tây Nguyên” , giáo viên cần tập trung cho
học sinh học đọc đoạn, còn những học sinh yếu, kém đọc đoạn 1 và 4 dễ ngắt hơi.
Những học sinh khá giỏi đọc đoạn 2, 3 dài hơn, cần có thái độ biểu cảm. Để tăng thời
gian cho việc đọc rõ ràng, mạch lạc giáo viên phải giảm bớt phần tìm nội dung bài,
những câu hỏi dài như câu 4 nên tách ra làm 2 câu hỏi nhỏ như: Đại hội tặng dân làng
Kơng Hoa những gì? Giáo viên cho học sinh theo dõi sách giáo khoa và nên gọi học
sinh đọc đoạn: “ Đại hội tặng dân làng Kông Hoa một ảnh Bác Hồ vác cuốc đi làm
rẫy…cho Núp”. Khi xem những vật đó thái độ của dân làng như thế nào? yêu cầu học
sinh đọc đoạn: “ Khi xem những vật đó thái độ của mọi người hết sức trân trọng xem
đó là những vật tặng thiêng liêng. Ai nấy đều rửa tay sạch trước khi cầm lên xem từng
thứ, coi đi coi lại mãi đến nửa đêm”. Ngoài ra ở những bài tập tập đọc khác, những
câu hỏi khác được giáo viên gợi mở, hoặc chủ động giải thích…
Đó cũng chính là những kinh nghiệm của tơi dạy mơn tập đọc mới lớp 3 đối
với vùng miền núi. Còn những biện pháp dạy học chủ yếu vẫn là theo mục tiêu đề ra.
Đó là:
- Đọc câu, đoạn: Nhằm hướng dẫn, gợi ý hoặc “ tạo tình huống” để học sinh
nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc, có thể đọc vài lần trong quá trình dạy học.
- Đọc cụm từ, từ: Nhằm sửa phát âm sai và rèn cách đọc đúng góp phần nâng
cao về ý thức viết đúng cho học sinh và hiểu được nghĩa cuản từ.
Học sinh tìm hiểu nghĩa của từ: Trước hết tơi xác định những từ ngữ trong bài
cần tìm hiểu, đó là những từ ngữ chú giải trong tài liệu hướng dẫn học, từ ngữ phổ
thơng mà học sinh chưa quen, vì từ ngữ đóng vai trị quan trọng để học sinh hiểu nội
dung bài đọc, nên tôi nghĩ giáo viên nên yêu cầu học sinh nêu lại phần giải nghĩa
trong tài liệu hướng dẫn học hoặc giáo viên dùng đồ dùng dạy học như: tranh, ảnh,vật
thật, mơ hình để giải nghĩa từ giúp học sinh hiểu hơn, song không nên giải nghĩa quá



5
nhiều từ hoặc áp dụng các biện pháp kồng kềnh làm cho giờ tập đọc thiên về học từ
ngữ một cách nặng nề.
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài:
Căn cứ vào câu hỏi, bài tập trong tài liệu hướng dẫn để hướng dẫn học sinh tìm
hiểu nội dung bài, nếu học sinh gặp khó khăn giáo viên có thể gợi dẫn một số câu hỏi
phụ để học sinh dễ hiểu câu hỏi hơn, tránh đặt thêm câu hỏi khai thác nội dung một
cách vượt quá yêu cầu bài học và khơng phù hợp với trình độ học sinh lớp 3.
Giáo viên có thể nêu câu hỏi trực tiếp để định hướng cho học sinh đọc thầm và
trả lời đúng nội dung, đơi khi có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng, những học
sinh khác đọc thầm, sau đó trao đổi, thảo luận những vấn đề giáo viên nêu ra.
Giáo viên tạo điều kiện cho học sinh luyện tập một cách tích cực bằng nhiều
biện pháp khác nhau như: tự cá nhân trả lời câu hỏi, trao đổi theo cặp để trả lời.
Trong quá trình trả lời câu hỏi, giáo viên cần nêu cho học sinh cách trả lời ngắn gọn,
diễn đạt lưu lốt, sau đó giáo viên nhận xét, chốt lại ý chính. Tùy tình hình của lớp mà
giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động một cách hiệu quả không nhất thiết phải
bám theo logo trong tài liệu hướng dẫn học.
* Đối với phụ huynh:
Để đạt được kết quả trong việc rèn cho học sinh đọc tốt, phụ huynh cần quan
tâm hơn nữa tới việc tự học, tự rèn và thái độ đạo đức của các em ở nhà. Không nhất
thiết bắt các em phải đọc bài trong sách mà tạo cho các em sở thích đọc, đọc mọi lúc,
mọi nơi, có thể là đọc báo, thông tin hoặc đọc các thông tin trên các bức tranh ảnh có
chữ.
Ngồi ra cần phải kiểm tra sát sao việc tự học, tự rèn ở nhà của các em. Ln
báo với giáo viên chủ nhiệm những khó khăn mà học sinh chưa làm được ở nhà để
cùng giáo viên uốn nắn, giáo dục.
Luôn chuẩn bị đầy đủ sách vở, dụng cụ học tập cho các em. Động viên khuyến
khích các em kịp thời bằng cách khen thưởng với các hình thức cụ thể: bằng lời nói,



6
bằng hành động, phần thưởng khích lệ…. Phụ huynh cần tích cực tham gia vào cơng
tác giáo dục học sinh.
* Đối với học sinh:
Các em cần tích cực tham gia các hoạt động học, đọc, giao tiếp... mạnh dạn, tự
tin, và hứng thú với việc đọc sách, phát huy tối đa góc thư viện lớp, trường.
Chú ý lắng nghe phương pháp giảng dạy, hướng dẫn của giáo viên, tự giác học
tập dù ở nhà hay ở trường.
3.3. Nêu các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng giải pháp:
+ Chỗ ngồi: bàn ghế đúng quy cách, phù hợp với học sinh.
+ Ánh sáng: Phòng học phải có cửa sổ lớn, đủ ánh sáng.
+ Bảng lớp được treo ở độ cao vừa phải, cạnh dưới của bảng ngang tầm đầu học
sinh ngồi trong lớp.
+ Phòng học: khang trang, thống mát, cơ sở vật chất đầy đủ.
+ Phịng thư viện: Thư viện trường và lớp rộng rãi và đủ các loại sách, báo,
truyện để các em thích thú khi chọn lựa sách để đọc.
+ Tivi, đèn chiếu đầy đủ
+ Giáo viên: Nhiệt tình, ham học hỏi, yêu nghề, tận tụy với học sinh. Theo sát và
quan tâm từng đối tượng học sinh trong lớp để giúp đỡ các em kịp thời. Định hướng
cho các em thời gian đọc phù hợp, đồng thời theo dõi và kiểm tra quá trình đọc của
học sinh.
- Tài liệu hướng dẫn học Mơn Tiếng Việt( VNEN) và tất cả các loại hình khác
miễn là có kênh chữ.
- Để học tốt mơn Tiếng việt 3 của Nhà xuất bản Đà Nẵng.
- Bồi dưỡng Văn - Tiếng Việt tiểu học 3 của Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Một số tập san, chuyên đề báo GD& Thời đại.
+ Học sinh: Ham mê học hỏi, rèn luyện; chuẩn bị đầy đủ dụng cụ học tập.



7
- Tài liệu hướng dẫn học môn Tiếng Việt.
+ Phụ huynh:
- Cần có điều kiện phương tiện tốt nhất để phụ huynh phối hợp với giáo viên chủ
nhiệm( nhóm zalo chung, meseger chung của lớp…). Đặc biệt phụ huynh cần phải có
thời gian nhiều hơn dành cho con em mình, tạo cho các em cơ hội được đọc và nói
chuyện, giao tiếp trong những tình huống thích hợp.
3.4 Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp (nhằm
giải quyết các vấn đề đã nêu trên):
* Các bước thực hiện giải pháp:
- Bước 1: Chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết đọc là một nền tảng quan trọng trong quá trình học tập, trẻ
học được nhiều từ vựng mới khi đọc sách. Trẻ thường xuyên đọc sách sẽ có ngơn ngữ
để phát triển kỹ năng viết , kĩ năng giao tiếp và làm giàu vốn từ khi giao tiếp.. . Trong
giai đoạn tiểu học việc đọc hiển nhiên rất quan trọng đối với các em, việc đọc chậm
dẫn đến sự giao tiếp hay là cách làm những bài văn viết, giải toán, …của học sinh
cũng hạn chế hơn. Nếu chúng ta khơng tìm ra những biện pháp để giúp các em đọc tốt
hơn sẽ dẫn đến những hậu quả khơng nhỏ trong q trình học tập và rèn luyện của các
em.
Phần tập đọc góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ở
bậc tiểu học theo đặc trưng bộ môn của mình, góp phần phát triển một số tư duy cơ
bản như: phân tích, tổng hợp, phán đốn… Xây dựng và năng lực thể hiện những
phép xã giao tối thiểu.
Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hấp dẫn trong tài liệu hướng dẫn học,
hình thành phát triển ham muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản, văn học, cảm
thụ vẻ đẹp của Tiếng việt.
Hiện nay ở trường tiểu học cho ta thấy kỹ năng đọc của học sinh chưa đồng
đều, một số bạn đọc còn chậm, phát âm theo giọng địa phương…dẫn đến tình trạng tự



8
ti, rụt rè trong giao tiếp của học sinh. Nguyên nhân của đọc chậm và đọc chưa tốt của
học sinh là do nhiều tác động như: phương pháp giảng dạy của giao viên, ngôn ngữ
địa phương, cách kết hợp các phương pháp dạy còn hạn chế…
Đặc biệt là đối với các em học sinh đang được học theo chương trình trường
học mới mơ hình VNEN địi hỏi rất nhiều về sự tự tin và mạnh dạn trong giao tiếp,
hợp tác. Đồng thời chúng ta đang từng bước thực hiện chương trình GDPT mới 2018
yêu cầu học sinh phải phát triển cả năng lực và phẩm chất, giao tiếp là một trong
những kĩ năng thể hiện năng lực của học sinh.Trường tôi đang theo dạy là một trong
những trường thực hiện chương trình VNEN và đang thực hiện chương trình GDPT
mới 2018 đối với học sinh lớp 1. Nhưng trong quá trình dạy học tơi nhận thấy kĩ năng
đọc và khả năng giao tiếp của học sinh cịn hạn chế, có em đọc còn đánh vần, trả lời
chưa đủ câu, tâm lý của các em lười đọc, thích chơi những trị chơi điện tử trong điện
thoại, máy tính, ít tiếp xúc nói chuyện cùng người thân, bạn bè…khiến cho khơng ít
các em học sinh khơng đủ tự tin nói trước đám đông.
Trước những vấn đề trên, bản thân tôi đã quyết định nghiên cứu và viết sáng
kiến kinh nghiệm “Phương pháp dạy học giúp học sinh lớp 3 đọc tốt ở trường Tiểu
học Trần Quốc Toản.” để giúp các em đọc tốt, có khả năng giao tiếp tốt, viết được
bài văn hay, có cảm nhận về văn học, u thích mơn Tiếng việt và tích cực đến lớp,
đến trường học.
- Bước 2: Xác định đối tượng nghiên cứu:
Qua nhiều năm công tác và giảng dạy khối lớp 3 ở trường Tiểu học Trần Quốc
Toản. Tôi mạnh dạn chọn và áp dụng những điều tôi đã và đang nghiên cứu vào đối
tượng học sinh lớp 3 và đặc biệt là lớp 3/3 Trường Tiểu học Trần Quốc Toản, lớp tôi
chủ nhiệm và trực tiếp giảng dạy năm học 2020-2021.
- Bước 3: Thu thập và xử lí thơng tin.
- Phương pháp dạy Tiếng việt ở tiểu học của Bộ GD& ĐT.
- Hướng dẫn giảng dạy nghiên cứu bộ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3.



9
- Thiết kế bài giảng Tiếng việt 3, tài liệu hướng dẫn dạy mơn Tiếng Việt 3 theo
chương trình VNEN và sách giáo viên theo chương trình hiện hành.
- Một số tập san, chuyên đề báo GD& Thời đại.
- Tìm hiểu qua một số băng hình dạy mẫu.
- Sách tham khảo gồm:
- Để học tốt môn Tiếng Việt 3 của Nhà xuất bản Đà Nẵng.
- Bồi dưỡng Văn - Tiếng Việt tiểu học 3 của Nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt 3 của Bộ GD&ĐT.
- Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học( Theo Viện Tâm Lí)
- Bước 4: Tiến hành thực hiện đề tài:
Sau khi đã chọn được đề tài, xác định được đối tượng nghiên cứu tôi bắt đầu
tiến hành thực hiện đề tài theo các bước như sau:
- Tháng 8/ 2020: Đăng kí đề tài, lập đề cương.
- Tháng 9/ 2020: Điều tra thực trạng nề nếp lớp học và lí lịch của học sinh đồng
thời khảo sát kĩ năng đọc của học sinh trong lớp phân tích từng đối tượng( đọc tốt,
đọc được và đọc chậm) sau đó xử lí các số liệu điều tra.
- Tháng 10/ 2020 đến tháng 12/ 2020: Thống kê, phân tích các số liệu.
- Tháng 01/ 2021 đến tháng 3/ 2021: Viết đề tài, báo cáo sơ bộ.
- Đầu tháng 4/ 2021: Chỉnh sửa và hoàn thiện đề tài.
* Cách thức thực hiện giải pháp:
1/ Nắm vững những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng học sinh cần đạt được khi học
môn tập đọc
- Trau dồi về kiến thức văn học.
- Yêu cầu kĩ năng khi học môn tập đọc.
- Tập đọc là phân môn thực hành Tiếng Việt, do vậy khi dạy tiết tập đọc cần rèn
cho học sinh 4 kỹ năng đọc như sau:



10
+ Đọc đúng.
+ Đọc nhanh.
+ Đọc thầm, đọc hiểu.
+ Đọc diễn cảm
2/ Để thực hiện được tốt 4 kỹ năng trên, người giáo viên cần phải có những biện
pháp thực hiện như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Mọi sự thành công trong
tiết học phụ thuộc rất nhiều vào việc thiết kế một bài dạy tùy từng nội dung của
từng bài, từng tiết học. Do đó giáo viên cần thiết kế kế hoạch dạy học cho phù
hợp thì tiết học mới đạt hiệu quả cao.
Chính vì vậy tơi mạnh dạn đưa ra một số suy nghĩ, những kinh nghiệm đã
từng vận dụng xen lẫn vào các tiết dạy:
2.1 Luyện đọc đúng
Đọc đúng là sự tái hiện không đọc thừa, khơng xót từng âm, vần , tiếng, đọc
đúng phương pháp, thể hiện đúng hệ thống ngôn ngữ chuẩn, tức là đọc đúng chính
âm. Nói cách khác là khơng đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng
bao gồm đọc đúng, thanh, ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ ( đọc đúng ngữ điệu). Luyện đọc
đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị tiếng Việt. Học sinh trường
tơi thường khi đọc hồn tồn đọc sai vần au -> ao, ao -> ô, ai ->ay, dấu hỏi/dấu ngã,
s/x, ay/ây…., là do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương. Như vậy cần luyện cho học
sinh cách đọc như sau:
- Luyện đọc đúng các tiếng, có ý thức phân biệt sai nghĩa của từ, nếu như sai
dấu thanh. Khi học sinh đọc sai giáo viên cần hướng dẫn các em đọc phát âm những
tiếng từ đó cho đúng.
- Luyện đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi đúng ngữ điệu của câu cần phải
dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt nghỉ hơi cho đúng, khi
đọc không được tách một từ ra làm hai.Ví dụ: Trời thu bận xanh; khơng ngắt hơi: Trời
/ thu bận xanh.



11
Khơng tách với danh từ đi sau. Ví dụ khơng đọc: trăm cô/ gái tựa/ tiên sa, mà
đọc: trăm cô gái / tựa tiên sa.
Dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp sẽ giúp các em xác định cách ngắt nhịp
đúng các câu: “Cảnh hai bên bờ sông Bến Hải/ rất đẹp”. “ Bãi biển cửa Tùng như một
chiếc lược đồi mồi / cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển”.
Khơng đọc: “Cảnh bên bờ sơng Bến / Hải rất đẹp”.
“Bãi biển Cửa Tùng như một chiếc lược đồi / mồi cài vào mái / tóc bạch kim
của sóng biển”.
Với cách dạy như trên số học sinh đọc sai giảm xuống rõ rệt.
2.2 Luyện đọc nhanh
Đọc nhanh còn gọi đọc lưu lốt, đọc trơi chảy, biện pháp đọc nhanh giáo viên
hướng dẫn cho học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị đọc nhanh là cụm, từ, câu,
đoạn, bài. Giáo viên cần điều chỉnh tốc độ đọc. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách
soạn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự tính trong bao nhiêu phút, định tốc độ như
thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc.
2.3 Luyện đọc thầm, đọc hiểu
Đây là phần mà giáo viên rất khó kiểm sốt. Giáo viên phải tổ chức q trình từ
ngồi vào trong, cần kiểm sốt q trình đọc thầm của học sinh bằng cách xác định
đọc thầm cho học sinh từng đoạn, khi học sinh đọc thầm giáo viên cũng phải đọc
thầm theo để đề phịng hoặc phát hiện những học sinh khơng đọc thầm mà đã giơ tay (
nếu thấy học sinh đọc quá nhanh, nhanh hơn cả cô), giáo viên đưa ra câu hỏi từ đoạn
đó. Nếu thấy học sinh lúng túng thì có nghĩa là em đó khơng đọc bàì.
Ví dụ: Bài “ Đôi bạn”, giáo viên đọc thầm một đoạn, thấy học sinh đọc quá nhanh
thì giáo viên đưa ra câu hỏi ở đoạn đó (Thành và Mến kết bạn vào dịp nào?).
Với những biện pháp như trên, bắt buộc học sinh phải đọc thầm để tìm hiểu nội
dung bài. Giờ tập đọc cũng kiểm tra như vậy, từ đó giúp các em tích cực tự giác học
tập. Đối với học sinh yếu, tơi ln động viên, khuyến khích các em đó gây được



12
phong trào đọc thầm cho học sinh.
2.4 Luyện đọc diễn cảm
- Đọc diễn cảm tức là biết làm chủ ngữ điệu để bộc lộ cảm xúc của bài đọc, đọc
diễn cảm không những đạt được yêu cầu đọc đúng mà cịn kèm theo cử chỉ, lời nói để
góp phần diễn tả nội dung bài.
Qua thực tế giảng dạy trên lớp, tôi thấy để đọc được diễn cảm người giáo viên
cần chuẩn bị các bước sau:
+ Soạn bài chu đáo, nắm được nội dung bài, đọc kỹ bài để thể hiện được ngữ
điệu đọc, cường độ đọc bài đó ra sao? đọc cao giọng, nhấn giọng ở những từ nào? nét
mặt vui, buồn thể hiện ở những từ ngữ nào trong bài.
+ Yêu cầu học sinh đọc bài nhiều lần ở nhà, tập đọc theo ngữ điệu sao cho phù
hợp với nội dung bài đọc đó. Khi đến lớp giáo viên hướng dẫn học sinh có thể tiếp thu
nhanh cách đọc đúng và đọc diễn cảm.
Bên cạnh đó, giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng, tranh ảnh, vật thực cho giờ học,
bảng phụ hoặc trình chiếu câu văn, đoạn văn khó cần luyện cho học sinh.
Đối với bài tập có lời đối thoại, giáo viên có thể tổ chức cho các em đọc sắm
vai.
Ví dụ bài: “Cuốn sổ tay” của nhân vật trong chuyện rất phù hợp với lứa tuổi các
em, sôi nổi, hào hứng, hồn nhiên, các em sắm vai :(Thanh, Tuấn, Lân, Tùng).
Sau đó giáo viên gọi từng nhóm học sinh lần lượt lên bảng nhập vai đọc bài,
như vậy tất cả học sinh trên lớp đều làm việc, được luyện nói và được thể hiện nét
mặt thơng qua các nhân vật mà mình nhập vai. Qua các giờ học như vậy, học sinh sẽ
tiến bộ dần, các em sẽ tự tin hơn ở bản thân mình, tạo ra tiết học đạt kết quả cao.
2.5 Luyện đọc thuộc lòng
Ở những bài dạy có u cầu luyện đọc thuộc lịng, giáo viên chú ý kết hợp
luyện đọc thành tiếng bằng cách tổ chức đọc cá nhân riêng lẻ, hoặc nối tiếp đọc đồng
thanh theo nhóm, tổ, cả lớp, đọc theo vai phối hợp nhiều học sinh.



13
Giáo viên cần biết nghe khi học sinh đọc để có cách rèn luyện thích hợp với
từng em, gợi ý, khuyến khích trong lớp trao đổi, nhận xét về chỗ được, chỗ chưa được
của bạn giúp học sinh biết rút kinh nghiệm để tự tin và đọc tốt hơn. Bên cạnh luyện
đọc thành tiếng giáo viên nên cho các em rèn kĩ năng nhớ thông qua đọc cá nhân, đọc
đồng thanh nhiều lần.
2.6 Tổ chức giờ học thân thiện - học sinh tích cực
Theo tơi, đây là một biện pháp mới, rất có ý nghĩa trong các giờ học đối với các
học sinh ở địa phương.Ở lứa tuổi này học sinh thường hiếu động, nếu giờ học chỉ đọc
và trả lời khơng thơi thì học sinh khơng hứng thú học tập, khơng khích lệ được học
sinh chậm tiến vươn lên, không tạo được môi trường thân thiện để các em thích thú
trong giờ học . Chính vì vậy trong giờ học giáo viên cần kết hợp cho học sinh tham
gia các trị chơi học tập mang tính chất hịa đồng thân thiện giữa thầy và trò, giữa trò
và trò. Nếu là bài học có hội thoại thì giáo viên cùng sắm vai với học sinh đọc theo
nhân vật và đọc ngắn gọn. Còn đối với các thể loại khác, giáo viên tổ chức trò chơi
đọc truyền điện. Giáo viên đọc câu 1, gọi một em khác đọc tiếp, sau đó em đó lại chỉ
bạn bên cạnh và đọc tiếp, cứ như vậy lần lượt đọc hết bài. Với phương pháp này học
sinh tham gia đọc được nhiều, các em lại chú ý vào bài đọc một cách vui vẻ, nếu
không chú ý không đọc được. Khi đọc truyền điện các em rất chăm chú và trật tự, nên
giờ học đạt kết quả cao, các em thoải mái học bài, mà không gây áp lực, nên tạo được
môi trường thân thiện, học sinh tích cực.
Phương pháp đọc trên có thể chia thành 2 đội, các đội thi nhau đọc hay, đọc lưu
lốt, diễn cảm. Từ hình thức đọc trên tơi thấy các em trước đây đọc chậm, giờ đã đọc
tốt hơn rất nhiều và có ý thức vươn lên trong các mơn học khác. Ngồi ra tơi cịn tổ
chức cho các em học nhóm ở gia đình, giao nhiệm vụ cho em đọc tốt kèm cặp bạn đọc
yếu ở gần nhà vào ngày nghỉ thực hiện mơ hình đơi bạn cùng tiến, cùng vui cùng học.
Đồng thời tân dụng tối đa góc thư viện ở lớp: cơ cùng đọc với em..
2.7 Kết hợp với chuyên môn nhà trường và học hỏi ở đồng nghiệp



14
Ngồi những biện pháp mà tơi đã áp dụng ở trên, tôi đều tham gia và đề nghị
chuyên môn nhà trường tích cực tổ chức dự giờ thăm lớp để học hỏi và rút kinh
nghiệm cho mỗi tiết học, đồng thời tôi thường xuyên dự các giờ dạy của đồng nghiệp
để học hỏi những kinh nghiệm, những phương dạy hay nhất, hiệu qủa nhất.
2.8 Kết hợp giữa gia đình và nhà trường
Thời gian các em học tập ở trường có hạn. Vì vậy về nhà các em phải có thời
gian học tập. Đối với học sinh chậm tiến, cha mẹ chưa quan tâm nhiều đến các em.
Chính vì vậy tơi đã sử dụng biện pháp là: đến thăm gia đình học sinh, tìm hiểu hồn
cảnh, đời sống sinh hoạt cũng như văn hóa trong gia đình, khảo sát góc học tập của
các em, tiếp xúc với gia đình và tâm sự với phụ huynh học sinh về sự cần thiết của
việc học tập và nhất là môn tập đọc, yêu cầu gia đình tạo điều kiện và kèm cặp thêm
những lúc các em học ở nhà. Tổ chức các cuộc họp phụ huynh giữa nhà trường và gia
đình để thơng báo và đề ra những biện pháp học tập cụ thể cho từng em, từng đối
tượng học sinh.
Các giờ học trên lớp, tôi thường xuyên gọi các em đọc chậm, chưa lưu loát để
đọc bài rồi uốn nắn, sửa chữa những câu, từ do học sinh đọc sai, sửa ngay tại lớp đơng
thời tun dương, khích lệ khi các em đọc có tiến bộ. Mặt khác, giáo viên đưa bài tập
về nhà, đến lớp phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét.
3.5. Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến (đã được áp dụng, kể cả áp
dụng thử trong điều kiện KT- KT tại cơ sở; khả năng áp dụng cho những đối
tượng, cơ quan, tổ chức khác):
Sáng kiến này tôi đã áp dụng rất thành công trong năm học 2020-2021, tại lớp
3/3 trường Trần Quốc Toản. Trong quá trình thực hiện tôi đã trao đổi kinh nghiệm với
các đồng nghiệp dạy cùng khối và họ đã thực hiện đạt được kết quả như mong muốn.
Sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi trong các khối học của bậc tiểu học.
4. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có).
5. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tác giả:



15
Với những biện pháp như trên tôi đã vận dụng vào tình hình thực tế một cách hợp
lí và kết quả mang lại cho các em nhiều thành quả đáng khích lệ:
* Đến thời điểm giữa kì 2 hiện nay- Năm học 2020-2021:
- Lớp tôi đang chủ nhiệm số lượng học sinh hồn thành tốt mơn Tiếng Việt
tăng lên đáng kể, khơng có học sinh chưa hồn thành ở mơn Tiếng Việt. 3 em HS đọc
chậm ở đầu nằm đã có tiến bộ kể cả học sinh khuyết tật, các em đã mạnh dạn, tự tin
hơn trong giao tiếp.
- Đến hiện tại chỉ còn 1 em đọc hơi chậm hơn so với lớp nhưng em vẫn đánh
vần và đọc đúng chữ.
- 100% học sinh lớp hồn thành chương trình mơn Tiếng Việt.
Đặc biệt có em: Đinh Thùy Bích Trâm là học sinh trầm, rụt rè, đọc chậm
nhưng đến thời điểm hiện tại em đã có tiến bộ khơng chỉ là đọc bài mà cịn giao tiếp,
nói chuyện với bạn vui vẻ hơn, và biết đặt câu hỏi cho các bạn khi nói chuyện.
+ Tổng số học sinh lớp là 34 em và kết quả tiến bộ ở môn Tiếng Việt cụ thể như
sau:
Kết quả điều tra cuối tháng 3/ 2021
Lớp
3/3

Tổng
số HS
34

Số em hoàn

Số em hoàn


thành tốt

thành

Số em chưa hoàn thành

SL

%

SL

%

SL

%

22

64,7%

12

35,3%

0

0


Qua quá trình thực hiện các biện pháp đề xuất đã nêu, tôi thấy việc áp dụng
“Phương pháp dạy học giúp học sinh lớp 3 đọc tốt ở trường Tiểu học Trần Quốc
Toản” đã giúp cho học sinh có nhiều tiến bộ rõ rệt. Đến nay, tôi đã tự tin học sinh lớp
tơi đọc có tiến bộ hẳn lên, các em đọc to, rõ ràng, một số em đọc diễn cảm tốt và hơn
nữa các em rất tự tin trong giao tiếp.
Với kết quả đạt được như vậy, bản thân tôi đã nghiên cứu từ tài liệu, học hỏi
từ đồng nghiệp và nhiều năm kinh nghiệm dạy lớp 3. Tôi đã tìm cho mình một số
biện pháp bổ ích và rút ra cho mình một số kinh nghiệm sau:


16
+ Bản thân luôn không ngừng rèn luyện cách phát âm của mình để đọc đúng,
chuẩn làm gương cho học sinh.
+ Tìm hiểu thật kỹ về các phương pháp dạy Tập đọc cho học sinh.
+ Ngoài những hiểu biết về chun mơn, giáo viên cần phải có tính kiên trì và
bền bỉ, cẩn thận, yêu nghề, mến trẻ và phải hiểu được đặc điểm tâm lí lứa tuổi học
sinh mình để rèn giũa, uốn nắn các em.
+ Khích lệ các em bằng cách biểu dương trước lớp những lúc các em đọc có
tiến bộ, có nhiều cố gắng.
+ Thường xuyên trao đổi với cha mẹ học sinh để cùng thống nhất kèm cặp, uốn
nắn các em ở trường và ở nhà.
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể
cả áp dụng thử (lợi ích kinh tế, xã hội so với trường hợp không áp dụng giải
pháp đó; hoặc so với những giải pháp tương tự đã biết ở cơ sở hoặc số tiền làm
lợi).
Qua sáng kiến tôi áp dụng trong năm học này học sinh đã đọc bài tốt hơn, mạnh
dạn tự tin hơn trong giao tiếp, nói trước đám đơng. Từ việc đọc trôi chảy các em học
các môn khác rất nhanh và kéo theo tiến bộ cả một quá trình rèn luyện. Từ đó phụ
huynh khi nghe con mình đọc bài to rõ, giao tiếp lưu loát họ tỏ ra rất hài lịng và vui

mừng. Các đồng chí giáo viên trong tổ, cả giáo viên tổ 2 cũng áp dụng những phương
pháp tôi đưa ra và hiển nhiên kết quả là như mong đợi.



×