Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bài thu hoạch Trần Trung Hiếu, Nguyễn Văn Hải trộm cắp tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.08 KB, 10 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

LS.HS 04: TRẦN TRUNG HIẾU, NGUYỄN VĂN HẢI TRỘM CẮP TÀI SẢN


I.

TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo: Trần Trung Hiếu sinh năm 2001 và Nguyễn Văn Hải sinh năm 1980
Tội danh bị truy tố: Trộm cắp tài sản
- Bị hại
Có 02 bị hại trong vụ án là:
1. Trần Mậu Lân
Trú tại: Phòng 107 nhà K1 tập thể Học viện Nguyễn Ái Quốc
Bị mất cắp 01 chiếc xe đạp mini Nhật.
2. Hoàng Minh Hùng
Trú tại: 36C Vĩnh Phúc III, Ngọc Hà, Hà Nội
Bị mất cắp 01 chiếc xe đạp mini Nhật.
Vào 1 giờ 30 phút ngày 04/10/2018, tại khu tập thể Ban Chính phủ số 222
Đội Cấn, anh Tuấn và Minh là cảnh vệ đang làm nhiệm vụ gác tại đó đã bắt giữ
02 đối tượng Trần Trung Hiếu và Nguyễn Văn Hải nghi vấn trộm cắp đêm.
Kiểm tra người Hải có thu giữ 01 đèn pin và 01 đoạn sắt phi 12 dài 35cm. Các
đồng chí đã đưa Hiếu và Hải về công an phường Cống Vị để làm rõ.
Vào 4 giờ cùng ngày, Công an phường Cống Vị lập biên bản về việc tạm
giữ đồ vật, tài sản và lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hiếu và
Hải.
Công an phường Cống Vị lấy lời khai ban đầu:


-

Hiếu khai rằng Hiếu và Hải đã đi trộm cắp tổng cộng 03 lần: Lần 01 là ở
khu tập thể Nghĩa Tân, dùng kìm cộng lực cắt khóa một nhà lấy 01 xe đạp
mini Nhật bán được 1.030.000 đồng; Lần 02 gần đường Hoàng Hoa Thám,
dùng then sắt bậy chốt khố vào tường bếp của một gia đình lấy 01 chiếc
xe đạp mini Nhật, bán được 970.000 đồng; Lần 03 là đêm 04/10/2018 tại
222A Đội Cấn, Hiếu và Hải chưa phá khoá vào được nhà ai bị phát hiện bắt
giữ.

-

Hải khai rằng Hải và Hiếu đi thăm bạn gái của Hiếu, trên đường về có đi
ngang qua khu 222 Đội Cấn, không phải đi ăn trộm, thanh sắt bị thu giữ là
do Hải nhặt được trên đường đi ở cạnh khu tập thể quân đội.

Ngày 04/10/2018, Công an phường đã lấy lời khai của Trịnh Minh Toàn là
chủ của chiếc kìm cộng lực. Tồn khai Tồn có cho Hải mượn kìm nhưng khơng
1


biết Hải sử dụng như thế nào. Bố của Toàn đã nộp lại chiếc kìm cộng lực cho
Cơng an phường.
Ngày 05/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Ba Đình
(“CQCSĐT – CA Quận Ba Đình”) đã khởi tố vụ án hình sự: Trộm cắp tài sản
xảy ra tại 36C Vĩnh Phúc III, Ngọc Hà, Hà Nội.
Cùng ngày 05/10/2018, CQCSĐT – CA Quận Ba Đình đã ra Quyết định
tạm giữ đối với Hiếu và Hải. Thời gian tạm giữ là 3 ngày kể từ 19 giờ 30 ngày
05/10/2018 đến ngày 08/10/2018.
Ngày 07/10/2018, CQCSĐT – CA Quận Ba Đình đã ra Quyết định gia hạn

tạm giữ (lần thứ nhất) đối với Hải và Hiếu. Thời gian gia hạn tạm giữ là 3 ngày
kể từ 18 giờ ngày 08/10/2018 đến 18 giờ ngày 11/10/2018.
Ngày 08/10/2018, CQCSĐT – CA Quận Ba Đình đã ra Quyết định khởi tố
bị can đối với Hải và Hiếu có hành vi trộm cắp tài sản.
Ngày 10/10/2018, CQCSĐT – CA Quận Ba Đình đã ra Lệnh tạm giam đối
với Hải và Hiếu. Thời hạn tạm giam 02 tháng, kể từ ngày 10/10/2018 đến ngày
10/12/2018.
Quá trình hỏi cung, Hiếu vẫn khai rằng mình có 03 lần cùng Hải đi trộm
cắp như trước đây. Hải vẫn khai không đi trộm cắp với Hiếu lần nào.
Ngày 12/10/2018, CQCSĐT – CA Quận Ba Đình đã tiến hành đối chất giữa
Hiếu với Hải, cả hai bên đều giữ nguyên lời khai của mình.
Ngày 30/1/2019, Thủ trưởng CQCSĐT – CA Quận Ba Đình đã có Bản kết
luận điều tra, xác định Hiếu và Hải có hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể ngày
27/9/2018 Hiếu và Hải đã vào nhà anh Trần Mâu Lân trú tại khu tập thể Học
viện Nguyễn Ái Quốc cắt khoá cửa lấy trộm 01 chiếc xe đạp mini Nhật trị giá
khoảng 1.500.000đ. Đêm 2/10/2018 vào nhà anh Hùng ở 36c Vĩnh Phúc III cắt
khoá lấy 01 xe đạp mini Nhật trị giá khoảng 1.450.000đ. Theo đó, đề nghị truy
tố Hiếu và Hải về hành vi trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173
Bộ luật hình sự 2015.
Ngày 20/02/2019, Viện trưởng VKSND quận Ba Đình đã ra cáo trạng truy
tố Hiếu và Hải ra TAND quận Ba Đình để xét xử về Tội trộm cắp tài sản theo
quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.
II.

CHỨNG CỨ CĨ LỢI CHO BỊ CÁO TRẦN TRUNG HIẾU
Có các nguồn chứng cứ có lợi cho bị cáo Trần Trung Hiếu bao gồm:
1.

Lời khai về việc bị Hải dụ dỗ, lôi kéo
2



Căn cứ vào Biên bản hỏi cung bị can Hiếu ngày 10/10/2018 (BL 28-29):
Biên bản hỏi cung bị can Hiếu ngày 11/10/2018 (BL 30-31): việc trộm cắp đều
do Hải chủ trương nếu khơng có Hải thì Hiếu khơng đi.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 416 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về những vấn
đề cần xác định khi tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi thì việc xác định có hay khơng có người đủ 18 tuổi trở lên xúi giục là rất
quan trọng khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội.
Như vậy, lời khai của Hiếu về việc bị Hải dụ dỗ lôi kéo là có lợi cho bị cáo
khi xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Hiếu.
2.

Biên bản xác minh lý lịch của bị cáo

Tại Biên bản xác minh ngày 13/12/2018 (BL 58) tại Công an phường Hạ
Lý - Hồng Bàng - Hải Phòng cho thấy Hiếu sinh ngày 26/10/2001 là người chưa
thành niên, có điều kiện chăm sóc và nuôi dạy không tốt do bị bố mẹ bỏ rơi từ
nhỏ, được bà Nguyễn Thị Oanh (sinh năm 1945) là một người đã lớn tuổi nuôi
dưỡng.
Theo khoản 2 Điều 416 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về những vấn đề cần
xác định khi tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi thì
việc xác định điều kiện sinh sống và giáo dục là rất quan trọng khi đánh giá tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Như vậy, Biên bản xác minh về hồn cảnh gia đình của bị cáo là tình tiết có
lợi cho bị cáo khi xem xét, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
3.

Các tài liệu, đồ vật khác


Thông báo kết quả tra cứu (tàng thư căn cước vi phạm) ngày 12/10/2018
(BL 56), Thông báo kết quả tra cứu (tàng thư căn cước vi phạm) ngày
23/01/2019 (BL 57), Lý lịch bị can Hiếu ngày 18/11/2018 (BL 55) thể hiện Hiếu
chưa có tiền án tiền sự, đây là nguồn chứng cứ có lợi cho bị cáo vì chứng minh
bị cáo phạm tội lần đầu, là một căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt theo quy định
tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Biên lai thu tiền ngày 24/01/2019 (BL 64) có nội dung: “Trần Trung Hiếu
nộp 400.000đ”, cho thấy bị cáo đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, là
căn cứ để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo Hiếu theo quy định tại điểm b khoản 1
Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.
III.

LUẬN CỨ BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TRẦN TRUNG HIẾU
3


(Bào chữa theo hướng trả hồ sơ điều tra bổ sung).
Kính thưa Hội đồng xét xử! Thưa đại diện Viện Kiểm sát và tất cả những
người có mặt tại phiên tịa hơm nay!
Tơi là luật sư …, thuộc Cơng ty Luật …, Đoàn luật sư …. Theo lời mời của
gia đình bị cáo Trần Trung Hiếu, được sự cho phép của HĐXX tơi có mặt với tư
cách là Người bào chữa cho bị cáo Hiếu tại phiên tịa hơm nay.
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, qua các chứng cứ đã được thẩm định
trong giai đoạn xét hỏi, sau khi nghe quan điểm của vị đại diện VKS, tơi xin
được trình bày quan điểm của mình như sau:
Theo cáo trạng, bị cáo Hiếu bị cáo buộc phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy
định tại khoản 1 Điều 173 BLHS 2015. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án cũng như
tại phiên tịa hơm nay vẫn cịn nhiều tài liệu, chứng cứ chưa được thu thập, dẫn
đến việc kết tội bị cáo Hiếu là chưa xác đáng, tôi xin phân tích sau đây:

1.

Chưa chứng minh được thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra hay nói
cách khác chưa chứng minh được hành vi có cấu thành tội phạm hay
không;
Thứ nhất, chưa đủ chứng cứ để xác định tuổi của bị cáo Hiếu.

Tại Lý lịch bị can ngày 18/11/2018 do Công an phường Hạ Lý xác nhận
(BL 55): “…Trần Trung Hiếu Sinh ngày: 26 tháng 10 năm 2001…”
Theo tài liệu nêu trên thì bị cáo Hiếu sinh ngày 26/10/2001, tại thời điểm
thực hiện hành vi theo truy tố của Viện kiểm sát và cho đến nay bị cáo vẫn dưới
18 tuổi.
Căn cứ vào Điều 416 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về những vấn
đề cần xác định khi tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi “1. Tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLTVKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về phối hợp thực hiện một số
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18
tuổi có quy định việc xác định tuổi của người bị buộc tội căn cứ vào một trong
các giấy tờ, tài liệu sau: Giấy chứng sinh; Giấy khai sinh; Chứng minh nhân dân;
Thẻ căn cước công dân; Sổ hộ khẩu; Hộ chiếu.
Tại Biên bản xác minh ngày 13/12/2018 (BL 58) thể hiện “Bản thân Hiếu
bị bố mẹ bỏ rơi từ nhỏ được bà Nguyễn Thị Oanh trú tại Phòng 101 phường Hạ
Lý - Hồng Bàng - Hải Phịng ni dưỡng. Hiện Hiếu có hộ khẩu tại địa chỉ trên
4


nhưng khơng có giấy khai sinh, bà Oanh khơng lưu giữ và đã xác nhận điều
này là đúng”.
2. Tuy nhiên, Cơ quan tiến hành tố tụng chưa thu thập sổ hộ khẩu của bị

cáo Hiếu cũng như bất kỳ giấy tờ nào khác theo quy định, để đưa vào hồ
sơ vụ án làm căn cứ xác định tuổi của bị cáo Hiếu.
Thứ hai, chưa đủ chứng cứ chứng minh hậu quả của tội phạm
Theo Điều 173 Bộ luật hình sự tội trộm cắp tài sản nếu không thuộc một
số trường hợp được liệt kê thì chỉ cấu thành khi hành vi trộm cắp gây một
mức thiệt hại nhất định, do đó việc xác định giá trị tài sản bị xâm phạm là một
hoạt động không thể thiếu để chứng minh hành vi phạm tội, cũng như làm cơ
sở để giải quyết vấn đề bồi thường dân sự.
Tại Bản kết luận điều tra ngày 30/01/2019 (BL 65-66) và Cáo trạng ngày
20/02/2019 (BL 69-70) các cơ quan tiến hành tố tụng không phân tích lý do
tại sao các bị cáo bị buộc tội theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự: do giá
trị tài sản bị trộm cắp từ 2.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hay là do giá trị
tài sản bị trộm cắp dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc trường hợp liệt kê từ
điểm a đến điểm d của khoản 1 Điều 173 BLHS. Như vậy, khơng có căn cứ để
VKS cáo buộc bị cáo đã trộm cắp trên 2.000.000 đồng và phạm tội Trộm cắp
tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Theo khoản 1 Điều 215 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì khi cần xác định
giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá tài sản. Tuy nhiên Cơ quan điều tra, Viện
Kiểm sát chưa yêu cầu định giá tài sản bị trộm cắp.
Như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng cần thu thập hồ sơ từ bị hại,
những người biết về chiếc xe về thông tin, đặc điểm, thời điểm mua … của 02
chiếc xe bị mất cắp để yêu cầu định giá. Từ đó làm cơ sở giải quyết vụ án.
3.

Có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng

-

Tạm giữ khơng có căn cứ, chưa có phê chuẩn của Viện Kiểm sát;


Theo Điều 419 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về áp dụng biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế thì đối với bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự
quy định hình phạt tù đến 02 năm thì có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu họ
tiếp tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
Như vậy, tội Trộm cắp tài sản mà bị cáo Hiếu đang bị truy tố, xét xử theo
khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 là tội phạm ít nghiêm trọng, bị cáo
5


khơng tiếp tục phạm tội, khơng bỏ trốn thì cơ quan điều tra khơng được tạm giữ
bị cáo.
Bên cạnh đó, việc gia hạn tạm giữ đối với bị cáo Hiếu theo Quyết định gia
hạn tạm giữ số 947 cũng trái pháp luật do khơng có văn bản phê chuẩn của Viện
kiểm sát theo quy định tại khoản 2 Điều 118 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Như vậy, việc tạm giữ đối với bị cáo Hiếu là vi phạm nghiêm trọng tố tụng
bởi vì tạm giữ khơng có căn cứ, thi hành quyết định gia hạn tạm giữ khi chưa
được Viện kiểm sát phê chuẩn. Các vi phạm nghiêm trọng về tố tụng trên xâm
hại nghiêm trọng đến quyền lợi của bị cáo Hiếu.
-

Tạm giam khơng có căn cứ, q thời hạn tạm giam, khơng có phê chuẩn
của Viện Kiểm sát;

Tương tự như đối với tạm giữ, theo khoản 4 Điều 419 Bộ luật tố tụng hình
sự 2015 thì tạm giam cũng không áp dụng đối với bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội ít nghiêm trọng nếu họ
không tiếp tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. Do đó, cơ
quan điều tra đã tạm giam bị cáo Hiếu không có căn cứ.

Bên cạnh đó, theo khoản 1 Điều 419 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định
thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai phần
ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên. Như vậy, chỉ được tạm
giam đối với bị cáo Hiếu tối đa là 35 ngày. Tuy nhiên tại Lệnh tạm giam số
822/CA-QBĐ ngày 10/10/2018 thì thời hạn tạm giam đối với bị cáo Hiếu là 02
tháng, là vượt quá thời hạn tạm giam theo quy định pháp luật.
Đồng thời, theo khoản 5 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì
Lệnh tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Tuy nhiên, hồ sơ vụ án khơng có văn bản phê chuẩn của Viện Kiểm sát.
Như vậy, việc tạm giam đối với bị cáo Hiếu là vi phạm nghiêm trọng tố
tụng xâm hại nghiêm trọng đến quyền lợi của bị cáo Hiếu.
-

Không chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi

Bị cáo Trần Trung Hiếu 17 tuổi, thuộc trường hợp phải chỉ định người bào
chữa theo quy định khoản 1 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 nhưng trong
hồ sơ vụ án khơng có tài liệu, chứng cứ về việc cơ quan tiến hành tố tụng đã yêu
cầu phân công người bào chữa cho Hiếu. Việc không chỉ định người bào chữa
như trên là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm xâm hại nghiêm trọng đến
quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo Hiếu.
6


-

Việc hỏi cung, đối chất khơng có sự tham gia của Kiểm sát viên, người bào
chữa;


Tại khoản 1 Điều 183 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định trước khi hỏi
cung bị can, Điều tra viên phải thông báo cho người bào chữa thời gian, địa
điểm hỏi cung. Tuy nhiên các cơ quan tiến hành tố tụng đã không chỉ định người
bào chữa cho Hiếu nên không thông báo cho người bào chữa tham gia. Như vậy,
có căn cứ cho rằng việc hỏi cung đối với Hiếu có vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng, các Biên bản hỏi cung khơng có giá trị pháp lý và khơng được dùng làm
căn cứ để giải quyết vụ án.
Tại khoản 1 Điều 189 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định trước khi tiến
hành đối chất, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử
Kiểm sát viên kiểm sát việc đối chất. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào
biên bản đối chất. Tuy nhiên, hồ sơ vụ án khơng có thơng báo cho Viện kiểm sát,
biên bản đối chất khơng có sự tham gia của Kiểm sát viên nhưng cũng không
ghi lý do vắng mặt Kiểm sát viên. Do đó, biên bản đối chất cũng khơng hợp
pháp, khơng có giá trị chứng minh.

Kết luận lại, vì chưa đủ chứng cứ chứng minh tội phạm và q trình điều
tra cịn nhiều vi phạm tố tụng, tôi cho rằng cần thiết phải trả hồ sơ điều tra bổ
sung để làm rõ diễn biến vụ việc, các tình tiết trong vụ án, có hay khơng có hành
vi phạm tội của bị cáo. Từ đó, mới có thể xác định được sự thật của vụ án một
cách khách quan, tồn diện, đầy đủ, khơng để lọt tội phạm và khơng hàm oan
người vơ tội.
Do đó, căn cứ điểm a, d Khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm
a, b, c Khoản 2 Điều 3 và điểm k, m Khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số
02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP tôi đề nghị Hội đồng xét xử
xem xét trả hồ sơ điều tra bổ sung

Tôi xin chân thành cảm ơn. Mời HĐXX tiếp tục làm việc.
IV.

PHẦN NHẬN XÉT VIỆC ĐÓNG VAI DIỄN ÁN

1.

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: …

Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
7


Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
2.

Hội thẩm nhân dân: …

aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa

Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa Aa aa aa aaa
3.

Thư ký phiên tòa: …

4.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân:

5.

Bị cáo: …

8


Điểm chấm lần 1:

Điểm chấm lần 2:

HẾT
9




×