Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

thảo luận dân sự lần 4 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.32 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

MƠN HỌC: LUẬT DÂN SỰ

VẤN ĐỀ 1: ĐỊI BẤT ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA.
Tóm tắt quyết định số 123/2006/DS-GĐT ngày 30/05/2006 về vụ việc tranh
chấp quyền sở hữu tài sản.
Nguyên đơn: ông Triệu Tiến Tài.
Bị đơn: ông Hà Văn Thơ.
Tóm tắt vụ việc: ngày 3/5/2004 ơng Tài u cầu Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn,
tỉnh Lào Cai buộc ông Thơ phải trả lại trị giá 2 mẹ con trâu cho gia đình ơng. Tại
bản án dân sự sơ thẩm số 10/DSST ngày 30/8/2004 Tòa án nhân dân huyện Văn
Bàn đã quyết định đáp ứng yêu cầu của ông Tài về việc buộc ông Thơ trả lạ trị giá 2
mẹ con trâu nói trên cùng trả lại cho ơng Tài 100.000 đồng phí giám định. Ngày
1/9/2004, ơng Thơ kháng cáo khơng đồng ý với Tịa sơ thẩm. xét thấy lời khai của
các đương sự cùng các nhân chứng và kết quả giám định của cơ quan chun mơn,
Tịa phúc thẩm xác định ông Thơ là người chiếm hữu, sử dụng tài sản khơng có căn
cứ pháp luật, xác định việc buộc ông Thơ trả 2 mẹ con trâu cho ông Tài là có căn cứ
pháp luật nhưng con trâu cái đang do ơng Dịn quản lí nên ơng Tài phải khởi kiện
địi ơng Dịn. Tịa phúc thẩm quyết đinh: hủy bản án dân sự phúc thẩm số 25/DSPT
ngày 22/10/2004, giao vụ án lại cho Tòa án nhân dan tỉnh Lào Cai xét xử lại để đảm
bảo lợi ích của các bên đương sự.
Câu 1 Trâu là động sản hay bất động sản? vì sao?
-

Theo Điều 174 BLDS 2005 quy định


“1. Bất động sản là các tài sản bao gồm:
a) Đất đai;


b) Nhà, cơng trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà,
cơng trình xây dựng đó;
c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
d) Các tài sản khác do pháp luật quy định.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”
 Trâu là động sản
Câu 2: trâu có là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu khơng? Vì sao ?
-

Theo Điều 167 BLDS 2005 quy định về đăng ký quyền sở hữu tài sản:

“Quyền sở hữu đối với bất động sản được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và
pháp luật về đăng ký bất động sản. Quyền sở hữu đối với động sản khơng phải đăng
ký, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
 trâu không là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu.
Câu 3: Đoạn nào của quyết định trên cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền
sở hữu của ông Tài ?
-

Tại phần xét thấy của Quyết định có ghi nhận:

“Căn cứ vào lời khai của ơng Triệu Tiến Tài BL 06, 07, 08), lời khai của các nhân
chứng là anh Phúc (BL 19), anh Chu (BL20), anh Bảo (BL22) và kết quả giám định
con trâu đang tranh chấp (biên bản giám định ngày 16/6/2004, biên bản để xác minh
của cơ quan chuyên môn về vật nuôi ngày 17/8/2004, biên bản diễn giải biên bản
kết quả giám định trâu ngày 20/8/2004), (BL 40, 41, 41a, 42) thì có đủ cơ sở xác
định con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi mới sấn mũi lần đầu và con nghé
được khoảng 3 tháng tuổi là thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Triệu Tiến Tài.”
Câu 4: Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu trong hồn
cảnh có tranh chấp trên ?

Theo điều 182 BLDS 2005 quy định về quyền chiếm hữu: “Quyền chiếm hữu
là quyền nắm giữ, quản lý tài sản”.
-

Trong hoàn cảnh có tranh chấp trên ơng Dịn là người chiếm hữu con trâu.
2


Câu 5: Chiếm hữu như trong hồn cảnh của ơng Dịn có căn cứ pháp luật khơng? Vì
sao?
-

Theo điều 183 BLDS 2005 quy định về chiếm hữu có căn cứ pháp luật:

“Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các trường hợp
sau đây:
1. Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
2. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;
3. Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp
với quy định của pháp luật;
4. Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở
hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ qn, bị chơn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều
kiện do pháp luật quy định;
5. Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp
với các điều kiện do pháp luật quy định;
6. Các trường hợp khác do pháp luật quy định”.
 Việc chiếm hữu trong hoàn cảnh của ơng Dịn là khơng có căn cứ pháp luật
vì ơng khơng thuộc bất kỳ trường hợp được điều luật trên quy định.
Câu 6: Thế nào là chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

-

Chiếm hữu khơng có căn cứ nhưng ngay tình là việc chiếm hữu mà người
chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.

Cơ sở pháp lý:
Theo Điều 189 BLDS 2005:
“Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Điều 183 của Bộ luật này
là chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật.
Người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người
chiếm hữu mà khơng biết và khơng thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là khơng có
căn cứ pháp luật.”
Câu 7: Người như hồn cảnh ơng Dịn có là người chiếm hữu ngay tình khơng?
Vì sao?
3


- Người như hồn cảnh ơng Dịn là chiếm hữu ngay tình.
- Vì giao dịch có nhiều giai đoạn, từ ông Thơ bán cho ông Thi rồi ông Thi đổi trâu
cho ơng Dịn. Tuy vậy, ngay từ đầu ơng Thơ đã là chiếm hữu khơng có căn cứ pháp
luật nên giao dịch giữa ông Thơ và ông Thi cũng như giao dịch của ơng Thi và ơng
Dịn là khơng có căn cứ pháp luật. Nhưng ơng Dịn cũng khơng biết và không thể
biết được con trâu không thuộc quyền sở hữu của ông Thơ nên ông cho rằng giao
dịch giữa ông và ông Thi là có căn cứ pháp luật.
- Căn cứ theo Điều 189 BLDS 2005, ơng Dịn là người chiếm hữu ngay tình.
Câu 8: Thế nào là hợp đồng có đền bù và khơng có đền bù theo quy định về đòi
tài sản trong BLDS?
- Theo Điều 257 BLDS 2005 quy định về quyền đòi lại động sản không phải đăng
ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình: “Chủ sở hữu có quyền địi lại động
sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường

hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thơng qua hợp đồng khơng
có đền bù với người khơng có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng
này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền địi lại động sản nếu động sản
đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngồi ý chí của chủ sở
hữu.”
- Hợp đồng có đền bù là hợp đồng theo thỏa thuận giữa các bên, mà một bên sau khi
thực hiện lợi ích cho bên kia thì sẽ nhận được lợi ích tương ứng từ bên kia. Ví dụ
như hợp đồng mua bán tài sản tại Điều 428 BLDS 2005, hợp đồng trao đổi tài sản
tại Điều 463 BLDS 2005, hợp đồng thuê tài sản tại Điều 480 BLDS 2005.
- Hợp đồng không đền bù là hợp đồng theo thỏa thuận theo thỏa thuận giữa các bên ,
mà một bên nhận lợi ích từ bên kia mà khơng phải thực hiện lợi ích tương ứng nào.
Ví dụ như hợp đồng tặng cho tài sản tại Điều 465 và Điều 470 BLDS 2005, hợp
đồng mượn tài sản tại Điều 512 BLDS 2005.
Câu 9: Ơng Dịn có được con trâu thơng qua giao dịch có đền bù hay khơng có
đền bù? Vì sao?
- Ơng Dịn có được con trâu là qua giao dịch có đền bù.
- Từ chi tiết trong bản án, ta thấy ông Thơ là người chiếm hữu con trâu tranh chấp
tạm thời, sau đó ơng bán cho ông Thi với giá 3.800.000đ, sau đó ông Thi đổi con
trâu trên cho ơng Dịn để lấy con trâu cái sổi. Qua hợp đồng miệng giữa ơng Thi và
ơng Dịn, giá trị của con trâu tranh chấp đã được trao đổi với giá trị của mất hoặc bị
chiếm hữu ngoài ý chí của con trâu cái sổi.
4


Câu 10: Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngồi
ý chí của ông Tài không?
Trâu tranh chấp là tài sản bị chiếm hữu ngồi ý muốn của ơng Tài.
- Ơng chưa từ bỏ quyền sở hữu con trâu (hàng tháng vẫn lên xem trâu).
- Ơng cũng khơng định đoạt con trâu (bán, tặng, cho).
- “Chiều ngày 18-3-2004 ông Hà Văn Thơ dắt 1 con trâu mẹ và 1 con nghé khoảng

3 tháng tuổi đi qua nhà ông, ông nhận ra là trâu, nghé của ơng và có nói với ơng
Thơ nhưng ơng Thơ nói là con trâu đó ơng mua vào tháng 6-2002 vì thả rơng nên bị
mất từ 9-2003 nay mới tìm thấy.”, ơng Tài đã bộc lộ sự bất ngờ khi thấy trâu bị dắt
đi bởi ông Thơ, ông đồng thời cũng đã can ngăn hành vi của ông Thơ nhưng khơng
thành.
Câu 11: Theo Tịa dân sự Tịa án nhân dân tối cao, ơng Tài được địi trâu từ
ơng Dịn không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
Theo Tịa dân sự Tịa án nhân dân tối cao, ơng Tài được địi trâu từ ơng Dịn.
“Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tiến Tài (BL 06, 07, 08), lời khai của các nhân
chứng là anh Phúc (BL 19), anh Chu (BL 20), anh Bảo (BL 22) và kết quả giám
định con trâu đang tranh chấp (biên bản giám định ngày 16/08/2004, biên bản xác
minh về cơ quan chuyên mơn về vật ni ngày 17/08/20041), (BL 40,41, 41a, 41)
thì có đủ cơ sở xác minh con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi mới sấn mũi lần
đầu và con nghé đực khoảng 3 tháng tuổi thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ơng
Triệu Tiến Tài. Ơng Thơ là người chiếm hữu, sử dụng tài sản khơng có căn cứ pháp
luật.
Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân
tối cao.
Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tiến Tài, lời khai của các nhân cứng là anh Phúc,
anh Chu, anh Bảo và kết quả con trâu đang tranh chấp, biên bản xác minh của cơ
quan chuyên môn về vật nuôi đã đủ xác định con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng
tuổi mới sấm mũi lần đầu và con nghé khoảng 3 tháng tuổi là tài sản thuộc quyền sở
hữu của ông Tài, ông Thơ là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
 Vì vậy ơng Thơ phải hồn lại con trâu và con nghé cho ơng Tài là phù hợp,
đảm bảo lợi ích của ơng Tài.
Theo Tịa án cấp sơ thẩm thì ơng Dịn là người chiếm hữu con trâu nên ơng Tài khởi
kiện địi ơng Dịn, theo Điều 257 BLDS 2005 về quyền đòi lại động sản không phải
5



đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình: “Chủ sở hữu có quyền địi lại
động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong
trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thơng qua hợp đồng
khơng có đền bù với người khơng có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp
đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền địi lại động sản nếu động
sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngồi ý chí của chủ sở
hữu.”
 Ơng Dịn có được trâu qua hợp đồng ơng Thi đổi cho ơng Dịn, như vậy ơng
Tài có quyền địi lại trâu từ ơng Dịn.
Câu 13: Khi ơng Tài khơng địi lại được trâu từ ơng Dịn thì pháp luật hiện
hành có quy định nào bảo vệ ơng Tài khơng?
Khi ơng Tài khơng địi lại được trâu từ ơng Dịn thì pháp luật hiện hành có quy định
bảo vệ quyền lợi của ông Tài.
Theo pháp luật hiện hành sẽ áp dụng điều 162 BLDS 2015 về quyền đòi lại động
sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình:
“Chủ sở hữu có quyền địi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người
chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản
này thơng qua hợp đồng khơng có đền bù với người khơng có quyền định đoạt tài
sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền địi lại
động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu
ngoài ý chí của chủ sở hữu.”
 Như vậy ơng Tài có quyền địi lại trâu từ ơng Dịn. Căn cứ khoản 2 Điều 164
BLDS 2015 quy định về biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản:
“2. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền u cầu Tịa án, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải
trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
 Vì vậy, ơng Tài khơng địi được trâu từ ơng Dịn thì theo quy định khoản 2
Điều 164 sẽ bảo vệ ông Tài.

Câu 14:Khi ông Tài không địi được trâu từ ơng Dịn thì Tịa án đã theo ông
Tài được quyền yêu cầu ai trả giá trị con trâu? Đoạn nào của quyết định cho
câu trả lời?

6


Khi ơng Tài khơng địi được trâu từ ơng Dịn thì Tịa án đã theo ơng Tài được quyền
u cầu ông Thơ hoàn lại giá trị con trâu.
“Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tiến Tài (BL 06, 07, 08), lời khai của các nhân
chứng là anh Phúc (BL 19), anh Chu (BL 20), anh Bảo (BL 22) và kết quả giám
định con trâu đang tranh chấp (biên bản giám định ngày 16/08/2004, biên bản xác
minh về cơ quan chuyên môn về vật nuôi ngày 17/08/20041), (BL 40,41, 41a, 41)
thì có đủ cơ sở xác minh con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi mới sấn mũi lần
đầu và con nghé đực khoảng 3 tháng tuổi thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ơng
Triệu Tiến Tài. Ơng Thơ là người chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp
luật.
Câu 15: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân
tối cao.
Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tiến Tài, lời khai của các nhân cứng là anh Phúc,
anh Chu, anh Bảo và kết quả con trâu đang tranh chấp, biên bản xác minh của cơ
quan chuyên môn về vật nuôi đã đủ xác định con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng
tuổi mới sấm mũi lần đầu và con nghé khoảng 3 tháng tuổi là tài sản thuộc quyền sở
hữu của ông Tài, ông Thơ là người chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật.
 Vì vậy ơng Thơ phải hồn lại con trâu và con nghé cho ơng Tài là phù hợp,
đảm bảo lợi ích của ơng Tài.
Theo Tịa án cấp sơ thẩm thì ơng Dịn là người chiếm hữu con trâu nên ơng Tài khởi
kiện địi ơng Dòn, theo Điều 257 BLDS 2005 về quyền đòi lại động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình: “Chủ sở hữu có quyền địi lại
động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong

trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thơng qua hợp đồng
khơng có đền bù với người khơng có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp
đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền địi lại động sản nếu động
sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở
hữu.”
 Ơng Dịn có được trâu qua hợp đồng ơng Thi đổi cho ơng Dịn, như vậy ơng
Tài có quyền địi lại trâu từ ơng Dịn.

7


VẤN ĐỀ 2: ĐÒI BẤT ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ 3.
TÓM TẮT BẢN ÁN DÂN SỰ 07/2018/DS-GĐT NGÀY 9/5/2018 CỦA HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TỐI CAO
Nguyên đơn: Bà Trần Thị X
Cùng những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà X gồm 5 người con cùng
cư trú tại: Tổ A, phường L.T, thành phố B, tỉnh B.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: 7 người, trong đó:
+ 3 người cùng cư trú tại số 46 (số cũ 2/15) T, khu phố 2, phường L, thành phố B
tỉnh B.
+ 4 người cùng cư trú tại số 10 Đ, khu phố 2, phường 1, thành phố B, tỉnh B.
Đất tranh chấp có diện tích 1.518,86m2, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà cấp cho
bà Nguyễn Thị X ngày 9/5/1989 trên đất có nhà cấp bốn, do bà Nguyễn Thị N quản
lý sử dụng, theo lời khai của bà N thì chồng bà X giới thiệu đó là đất hoang khơng
ai sử dụng nên bà dọn đến cải tạo, q trình sử dụng có nộp thuế cho nhà nước, còn
bà X từ khi được bà T chuyển nhượng thì bà khơng sử dụng đất, khơng nộp thuế.
Ngày 19/8/2010 bà N được cấp giấy sử dụng đất và đã chuyển nhượng cho ông M,
tặng cho con gái là chị L, sau đó chị L chuyển nhượng một phần đất cho ông Đ và
bà T.

Quyết định GIÁM ĐỐC THẨM:
Căn cứ khoản 2 điều 337, khoản 3 điều 343, điều 345 của BLTTDS;
Chấp nhận quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 73/2017/KN-DS ngày
25/9/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Hủy toàn bộ án dân sự phúc thẩm- số 91/2016/DS-PT ngày 06 và ngày 9/5/2016 của
TAND tối cao tại TPHCM và bản án dân sự sơ thẩm số 07/2015/DS-ST ngày
24/9/2015 của TAND tỉnh B.
Giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh B xét lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của
pháp luật.

8


Câu 1: Đoạn nào của quyết định giám đốc thẩm cho thấy quyền sử dụng đất
có tranh chấp thuộc bà X và đã được bà N chuyển giao cho người thứ ba ngay
tình?
“Căn cứ quy định tại khoản 2 điều 138 và điều 258 bộ luật dân sự 2005 thì các giao
dịch chuyển nhượng và tặng cho đất của ông M, bà Q, chị L, ông Đ, bà T là các
giao dịch của người thứ ba ngay tình được pháp luật bảo vệ.”

Câu 2: Theo quy định (Trong BLDS 2005 và BLDS 2015), chủ sở hữu bất
động sản được bảo vệ như thế nào khi tài sản của họ được chuyển giao cho
người thứ 3 ngay tình?
Theo quy định tại điều 258 BLDS 2005 : Quyền đòi lại động sản phải đăng ký
quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình
« Chủ sở hữu được địi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ
trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thơng qua bán
đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở
hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa. »

Theo quy định tại điều 168 BLDS 2015 Quyền đòi lại động sản phải đăng ký
quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình
“Chủ sở hữu được địi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản
từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 của
Bộ luật này.”
Khoản 2 điều 133 BLDS 2015 quy định cụ thể
“2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự
khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác
lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó khơng bị vơ hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người
thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm
quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở
hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.”
Câu 3: Để bảo vệ bà X, Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án phải xác định trách
nhiệm của bà N như thế nào đối với bà X?

9


“Tòa án buộc bà N trả bằng giá trị quyền sử dụng diện tích 914m2 đất cho nguyên
đơn mới phù hợp (...).
 Lẽ ra, Tòa án phải buộc bà N trả cho nguyên đơn giá trị đất 1.254.400.000
đồng mới phù hợp.
Câu 4: Hướng của Tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên đã được quy
định trong BLDS chưa?
Hướng của TAND tối cao trong câu hỏi trên đã được quy định tại khoản 2 điều 137
BLDS 2005

Điều 137. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vơ hiệu
«2. Khi giao dịch dân sự vơ hiệu thì các bên khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn
trả cho nhau những gì đã nhận; nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì phải
hồn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị
tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.”
Và theo khoản 3 điều 133 BLDS 2015
Điều 133. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vơ
hiệu
3. Chủ sở hữu khơng có quyền địi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao
dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này
nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác
lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
Câu 5: Theo anh chị, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao (trong
câu hỏi trên) có thuyết phục khơng? Vì sao?
Theo em, hướng giải quyết của Tịa Án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên là
thuyết phục, vì đã áp dụng đúng luật trong quy trình giải quyết vụ việc (cụ thể là áp
dụng điều 133 BLDS 2015 và điều 137 BLDS 2005)

10


VẤN ĐỀ 3: LẤN CHIẾM TÀI SẢN LIỀN KỀ
*Tóm tắt Quyết định số 23/2006/DS-GĐT ngày 07-09-2006 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Tranh chấp quyền sử dụng đất.
Gia đình ơng Diệp Vũ Trê (vợ là bà Châu Kim Thi) - nguyên đơn kiện ông Nguyễn
Văn Hậu (bị đơn) về việc lấn chiếm đất đai.
Ông Trê và ông Hậu tranh chấp 185m2 đất giáp ranh, hiện do ơng Hậu đang sử
dụng.
Tịa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8m 2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất
trống cho ơng Trê và bà Thi, cịn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây

dựng nhà (52,2m 2 ) thì giao ơng Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền
sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi.
Quyết định cuối cùng:
+ Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 313/DSPT ngày 21-10-2003 và sơ thẩm số
9/STDS ngày 21-7-2003 giải quyết việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Trê,
bà Thi và ông Hậu.
+ Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh CM giải quyết xét xử sơ thẩm lại theo
đúng quy định của pháp luật.

*Tóm tắt quyết định 671:
- Nguyên đơn: ông Lương Ngọc Trụ ủy quyền cho Bà Đinh Thị Ngun.
- Bị đơn: ơng Ngơ Văn Hịa.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 15/2008/DSST ngày 12-3-2008, Tòa án nhân dân thị
xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh quyết định:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lương Ngọc Trụ và bà
Đinh Thị Nguyên u cầu ơng Ngơ Văn Hịa trả lại phần diện tích đất xây nhà lấn
ranh ngang 0,3m dài 34m và phần đất phía sau nhà chiều ngang 1m dài 6,2m.
- Buộc ơng Ngơ Văn Hịa tháo dỡ 04 ơ văng cửa sổ (tháo dỡ với sát mí tường nhà
ơng Hịa), tháo dỡ 01 máng bê tông trước nhà (tháo dỡ sát với mí cột nhà ơng Hịa),
tháo dỡ mái tơn phía sau nhà và địn tay phía sau nhà (phần mái tôn dài 13m và 10
11


cái đòn tay nhà sau theo bản vẽ xây dựng từ điểm F đến điểm J giáp ranh với đất
ông Trụ tháo dợ sát với mí tường nhà ơng Hịa).
Ngày 12-3-2008, bà Nguyên kháng cáo không đồng ý với bản án sơ
thẩm.
Ngày 21-3-2008, ơng Hịa kháng cáo khơng đồng ý với bản án sơ thẩm.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 127/2008/DSPT ngày 13-5-2008, Tòa

án nhân dân tỉnh Trà Vinh quyết định:
- Bác yêu cầu kháng cáo của bà Đinh Thị Ngun và ơng Ngơ Văn Hịa.
- Giữ ngun bản án dân sự sơ thẩm số 15/2008/DSST ngày 12-3-2008 của Tịa án
nhân dân tỉnh Trà Vinh.
- Buộc ơng Ngơ Văn Hòa và bà Đinh Thị Nguyên và các đương sự có liên quan có
nghĩa vụ thi hành phán quyết định của bản án sơ thẩm nêu trên. Sau khi xét xử phúc
thẩm, ông Lương Ngọc Trụ và Đinh Thị Nguyên có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm
nêu trên.
Tại quyết định số 294/2011/KN-DS ngày 12-5-2011, chánh án Tòa án nhân dân tối
cao đã kháng nghị đối với bản án số 127/2008/DSPT ngày 13-5-2008 của Tòa án
nhân dân tỉnh Trà Vinh; đề nghị Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm số
15/2005/DSST ngày 12/3/2008 của Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh xét xử sơ thẩm
lại theo quy định của pháp luật.
Quyết định:
1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 127/2008/DSPT ngày 13-5-2008 của Tòa án
nhân dân tỉnh Trà Vinh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 15/2008/DSST ngày 12-32008 của Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh về vụ án “tranh chấp ranh
đất” giữa nguyên đơn là ông Lương Ngọc Trụ, bà Đinh Thị Nguyên với bị đơn là
ơng Ngơ Văn Hịa.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ
thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc
quyền sử dụng của ông Trê, bà Thi và phần lấn cụ thể là bao nhiêu?
-

Đoạn của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền sử
dụng của ông Trê, bà Thi là:
12


“Ơng Hậu cho rằng diện tích đất trên do ơng nhận chuyển nhượng lại từ anh Trần

Thanh Kiệt; tuy nhiên, theo giấy biên nhận đề ngày 29-3-1994 giữa ông Hậu với
anh Kiệt (giấy khơng có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) thì diện
tích đất mà ơng Hậu mua từ anh Kiệt khơng nêu vị trí cũng như tứ cận, mốc giới cụ
thể, cũng khơng có xác nhận của các chủ đất liền kề. Trong khi đó, gia đình ơng Trê
đã quản lý, sử dụng đất tranh chấp từ trước khi có việc sang nhượng giữa ơng Hậu
với anh Kiệt và năm 1994 ông Trê đã được Ủy ban nhân dân huyện CN cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà Châu
Kim Thi-vợ ông Trê đứng tên); theo sơ đồ vị trí đất được thể hiện trong giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì thửa đất này có mốc giới rõ ràng, đối chiếu sơ đồ này
với sơ đồ tranh chấp do Tòa án nhân dân huyện CN phối hợp với các cơ quan chức
năng đo vẽ ngày 28-3-2000 và tại Cơng văn số 01/XN-TNMT ngày 10-3-2006 của
Phịng tài ngun và mơi trường huyện CN gửi Tịa án nhân dân tỉnh CM vẫn khẳng
định ranh giới đất đã cấp giấy chứng nhận cho bà Thi với đất ông Hậu đang sử dụng
là “ranh thẳng” thì có căn cứ xác định ông Hậu đã lấn đất của ông Trê.”
-

Phần lấn cụ thể là:

+ 132,8m2 đất trống.
+ 52,2m 2 đã xây dựng nhà.
+ 10,71m2 hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất nhà ông
Trê và
bà Thi.
+ 18,57m 2 căn nhà phụ của ông Hậu xây dựng trên diện tích đất.
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ơng Hịa đã lấn sang
đất (khơng gian, mặt đất, lịng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ơng Trụ,
bà Ngun?
Đoạn trong Quyết định cho thấy gia đình ơng Hịa lấn sang đất thuộc quyền sử dụng
của gia đình ơng Trụ, bà Ngun: “Khi cha, mẹ ông chết để lại cho ông 320m 2 tại
95 Hồng Hoa Thám, khóm 10, phường 6, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Ông đã

sử dụng từ trước năm 1975 đến nay. Năm 1987, ông đi làm ăn nơi khác nên vợ
chồng ơng Ngơ Văn Hịa đã lấn 15,2m2 đất của ơng; cụ thể phía sau nhà lấn chiều
ngang 1m; dài 5m; phía trước lấn chiều ngang 0,3m, chiều dài 34m, nên u cầu gia
đình ơng hịa tháo dỡ các cơng trình phụ và trả lại phần đất cho ông.”
Câu 3: BLDS có quy định nào điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lịng đất và khơng
gian thuộc quyền sử dụng của người khác không?
13


Theo điều 175 BLDS 2015. Ranh giới giữa các bất động sản:
1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ranh giới cũng có thể được xác
định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà khơng có
tranh chấp. Khơng được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp
ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tơn trọng,
duy trì ranh giới chung.
2. Người sử dụng đất được sử dụng khơng gian và lịng đất theo chiều thẳng đứng
từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm
ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác. Người sử dụng đất chỉ được trồng
cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và
theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải
xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Theo khoản 3 Điều 176 BLDS 2015 quy định :
3. Đối với mốc giới là tường nhà chung, chủ sở hữu bất động sản liền kề không
được trổ cửa sổ, lỗ thơng khí hoặc đục tường để đặt kết cấu xây dựng, trừ trường
hợp được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý. Trường hợp nhà xây riêng biệt
nhưng tường sát liền nhau thì chủ sở hữu cũng chỉ được đục tường, đặt kết cấu xây
dựng đến giới hạn ngăn cách tường của mình.Đối với cây là mốc giới chung, các
bên đều có nghĩa vụ bảo vệ; hoa lợi thu được từ cây được chia đều, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.

Câu 4: Ở nước ngoài việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế nào?

Câu 5: đoạn nào của quyết định 617 cho thấy quyết định của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao theo hướng buộc gia đình ơng Hịa tháo dỡ tài sản thuộc
phần lấn sang không gian, mặt đất và lịng đất của gia đình ơng Trụ, bà
Ngun?
-

Đoạn cho thấy Quyết định của Tịa theo hướng buộc gia đình ơng Hịa tháo
dỡ tài sản lấn sang đất gia đình ông Trụ, bà Nguyên: “khi sửa chữa lại nhà
gia đình ơng Hịa có làm 4 ơ văng cửa sổ, một máng bê tơng và chơn dưới
đất một ống thốt nước nằm ngồi phía tường nhà. Q trình giải quyết vụ án,
Tòa cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định gia đình ơng Hịa làm 4 ơ văng
cửa sổ, một máng bê tông chồm qua phần đất thuộc thuộc quyền sử dụng của
gia đình ơng Trụ, bà Ngun nên quyết định buộc gia đình ơng Hịa tháo dỡ
là có căn cứ. Tuy nhiên dưới lịng đất sát tường nhà ơng hịa cịn ống nước do
gia đình ơng Hịa chơn, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
14


khơng buộc gia đình ơng Hịa tháo dỡ là khơng đúng, khơng đảm bảo quyền
lợi của gia đình ơng Trụ.”
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án dân sự Tòa
án nhân dân tối cao?
Quyết định của Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý. Căn cứ quyết định
của tòa hồn tồn thỏa đáng vì trong tài liệu các bên cung cấp ta thấy rõ diện tích
đất của ơng Trụ do thừa kế nhận được là rõ ràng, ông đã sử dụng đến nay. Việc ơng
Hịa lấn chiếm là đã xâm phạm nặng nề quyền sử dụng đất của ông Trụ.
Câu 7: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy Tịa án khơng buộc ơng Hậu
tháo dỡ nhà đã được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2m 2 )?

Quyết định số 23 cho thấy Tịa án khơng buộc ơng Hậu tháo dỡ nhà đã được xây
dựng trên đất lấn chiếm (52,2m 2 ) thể hiện qua đoạn:
“Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8m 2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất
trống cho ông Trê và bà Thi, cịn phần đất ơng Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây
dựng nhà (52,2m 2 ) thì giao ơng Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền
sử dụng đất cho ơng Trê và bà Thi là hợp tình, hợp lý.”
Câu 8: Ơng Trê, bà Thi có biết và phản đối ơng Hậu xây dựng nhà trên khơng?
Ơng Trê và bà Thi có biết và khơng phản đối ơng Hậu xây dựng nhà trên.
Cụ thể được thể hiện qua:
+ Lời khai của ông Hậu (bị đơn): “Vào ngày 29-3-1994, ông nhận chuyển nhượng
một phần diện tích đất của anh Trần Thanh Kiệt. Khi sang nhượng hai bên chỉ lập
giấy tay, khơng ký giáp ranh và lúc đó chủ đất (anh Kiệt) chỉ ranh giới cho ông. Sau
khi sang nhượng xong ơng đã làm nhà cơ bản trên diện tích đất đang tranh chấp, lúc
ơng xây nhà gia đình ơng Trê khơng có ý kiến gì.”
+ Lời khai của ngun đơn: “Trong q trình sử dụng, ơng Hậu đã lấn chiếm sang
đất của gia đình ơng Trê khoảng 185m2. Khi ơng Trê u cầu chính quyền địa
phương giải quyết thì ông Hậu đã chặt phá một số cây kiểng của gia đình ơng.”
Vì vậy, có thể thấy khi ơng Hậu tiến hành xây dựng nhà trên phần đất đang tranh
chấp thì ơng Trê và bà Thi khơng có phản ứng gì. Chỉ khi ơng Hậu đã đưa căn nhà
vào sử dụng thì ơng Trê và bà Thi mới lên tiếng yêu cầu chính quyền địa phương
tham gia giải quyết.

15


Câu 9: Nếu ông Trê, bà Thi biết và phản đối ơng Hậu xây dựng nhà trên thì
ơng Hậu có phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trê, bà Thi khơng? Vì sao?
Nếu ơng Trê, bà Thi biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên thì ơng Hậu phải
tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ơng Trê, bà Thi. Vì:
Căn cứ tại Điều 169 BLDS 2015: “Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với

tài sản, chủ thể có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm
dứt hành vi đó hoặc có quyền u cầu Tịa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.”
Lấn chiếm quyền sử dụng đất và không gian của người khác là hành vi cản trở chủ
sở hữu thực hiện các quyền sở hữu của mình. Do đó, tháo dỡ cơng trình lấn chiếm
cho phép chấm dứt hành vi vi phạm. Trong thực tế, Tòa án thường yêu cầu người
lấn chiếm thực hiện việc tháo dỡ này. 1(1 Đỗ Văn Đại – Lương Văn Lắm, “Xử lý
việc lấn chiếm tài sản người khác trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 4 (59) 2010.)
Câu 10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan
đến phần đất ông Hậu lấn chiếm và xây nhà trên.
Hướng giải quyết trên của Tịa án liên quan đến phần đất ơng Hậu lấn chiếm và xây
nhà trên là hoàn toàn hợp lý.
+ Theo quy định của pháp luật thì ơng Hậu phải chấm dứt hành vi lấn chiếm quyền
sử dụng đất và không gian của người khác. Tuy nhiên, ông Hậu đã xây một ngơi
nhà cơ bản trên phần đất có tranh chấp đó thì việc tháo dỡ cơng trình để hồn trả đất
trống cho ơng Trê và bà Thi sẽ khiến ông Hậu chịu thiệt hại nặng nề về mặt kinh tế.
+ Việc ông Hậu xây nhà trên phần đất của ông Trê, bà Thi diễn ra một cách công
khai nhưng tại thời điểm đó vợ chồng ơng Trê khơng thể hiện sự phản đối. Điều này
có thể hiểu là vợ chồng ông Trê “ngầm” chấp nhận để người khác “lấn chiếm” tài
sản của mình nên việc yêu cầu tháo dỡ cần được giới hạn.
+ Tuy pháp luật hiện hành chưa ghi nhận các điều kiện để không tháo dỡ nhưng tùy
vào hoàn cảnh thực tế mà xem xét trên nhiều khía cạnh khác để có thể xử lý một
cách hợp tình, hợp lý nhất.

16


+ Cách xử lý của Tòa án vừa bù đắp được phần nào thiệt hại cho ông Trê và bà Thi
do bị lấn chiếm đất, vừa nghĩ đến những bất lợi về kinh tế cho ông Hậu khi tháo dỡ

căn nhà trên phần đất tranh chấp.1

Câu 11: Theo Tòa án, phần đất ơng Hậu xây dựng khơng phải hồn trả cho
ông Trê, bà Thi được xử lý như thế nào? Đoạn nào của Quyết định số 23 cho
câu trả lời.
Theo Tịa án, phần đất ơng Hậu xây dựng khơng phải hồn trả cho ơng Trê, bà Thi
thì sẽ giao cho ông Hậu quyền sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng
đất choông Trê và bà Thi.
Đoạn của Quyết định số 23 cho câu trả lời: “Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu
trả 132,8m 2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất trống cho ông Trê và bà Thi, cịn phần
đất ơng Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà (52,2m 2 ) thì giao ơng Hậu sử
dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ơng Trê và bà Thi là hợp
tình, hợp lý.”
Câu 12: Đã có quyết định nào của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết
như Quyết định số 23 liên quan đến phần đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà
không? Nêu rõ quyết định mà anh/chị biết.
- Đã có quyết định của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết như Quyết định
số 23 liên quan đến phần đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà là quyết định số
128/2018/DSPT ngày 18/12/2018 về tranh chấp quyền sử dụng đất.
- Quyết định số 128/2018/DSPT ngày 18/12/2018 về tranh chấp quyền sử dụng
đất: Ngày 18 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 105/2018/TLPT-DS ngày 10 tháng
10 năm 2018 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số
12/2018/DSST ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức bị
kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 121/2018/QĐXXPTDS ngày 25 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hỗn phiên tịa số 92/2018/QĐ-PT
ngày 13 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

1 Đỗ Văn Đại – Lương Văn Lắm, “Xử lý việc lấn chiếm tài sản người khác trong
pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4 (59) 2010.
1


17


1. Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Thùy C, sinh năm 1975; địa chỉ: Tổ A, ấp Đ, xã X
(phường X), huyện T (thị xã M), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1970; địa chỉ: Tổ B, đường A, thôn T,
xã T, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1940; địa chỉ: Tổ B, đường A, thôn T, xã T,
huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
3.2. Ủy ban nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Trụ sở: Đường Đ,
thị trấn G, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Công V, chức vụ: Chủ tịch UBND
huyện (vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Bị đơn là bà Nguyễn Thị Thu H (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo đơn khởi kiện và q trình tham gia tố tụng tại Tịa án cấp sơ thẩm, nguyên
đơn bà Hồ Thị Thùy C trình bày:
Năm 2007, cha ruột của bà Hồ Thị Thùy C là ơng Hồ Q có tặng cho bà C diện tích
đất 463m2 thuộc thửa 364, Tờ bản đồ số 06 tại xã Nghĩa Thành, huyện Châu Đức;
theo Hợp đồng tặng cho số 275.12.HĐTA được Ủy ban nhân dân xã Nghĩa Thành,
huyện Châu Đức chứng thực ngày 17/12/2007. Ngày 08/01/2018, Văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất huyện Châu Đức điều chỉnh sang tên cho bà Hồ Thị Thùy C
tại trang 4 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK250437 ngày 13/11/2007
do ông Hồ Q đứng tên. Bà C đã chuyển mục đích 100m2 sang đất ở theo quyết định
số 906/QĐ-UBND ngày 08/4/2008 của Ủy Ban nhân dân huyện Châu Đức. Theo hồ
sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ơng Hồ Q và sau đó ơng Hồ Q tặng
cho bà C đất này thì hàng ranh đất từ trước ra sau là hàng ranh thẳng, đúng với sơ
đồ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2008, bà C lấy chồng và sinh

sống tại xã Mỹ Xuân, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nên khơng quản lý
sử dụng thửa đất nói trên. Năm 2015, bà C phát hiện bà Nguyễn Thị Thu H trồng
cột bê tông, rào lưới B40 và trồng cây lấn sang thửa đất của bà C với diện tích
khoảng 70m2. Bà C đã đến chính quyền địa phương trình báo và yêu cầu bà H trả
lại đất cho bà C nhưng bà H và ông L không đồng ý nên bà C có gửi đơn lên Phịng
tài ngun Mơi trường huyện Châu Đức để đề nghị xác định lại ranh giới. Phịng
Tài ngun Mơi trường huyện Châu Đức cùng Ủy ban nhân dân xã Nghĩa Thành đã
xuống kiểm tra nhưng bà H vẫn không trả lại đất cho bà C. Theo kết quả đo vẽ thì
bà H lấn sang đất của bà C là 105m2 là một phần diện tích thuộc thửa 364, Tờ bản
18


đồ số 06 tại xã Nghĩa Thành, huyện Châu Đức. Nay bà Hồ Thị Thùy C yêu cầu bà
Nguyễn Thị Thu H tháo gỡ lưới B40 và trụ bê tông để trả lại cho bà C diện tích đất
105m2. Bà C đồng ý hoàn trả cho bà H số tiền tương ứng với số cây trồng trên đất
mà bà H trả cho bà C theo biên bản định giá tài sản ngày 19/4/2018.
2. Trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm bà Nguyễn Thị Thu H Là
bị đơn trình bày: Bà Nguyễn Thị Thu H là con ruột của ông Nguyễn Văn L. Năm
2012, ông L tặng cho bà H diện tích đất 402m2 thuộc thửa số 535, Tờ bản đồ số 06
tại xã Nghĩa Thành, huyện Châu Đức và đã được Ủy ban nhân dân huyện Châu Đức
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 910735 ngày 26/9/2012 cho bà H
đứng tên. Từ khi ông Nguyễn Văn L nhận chuyển nhượng đất thì đã có hàng ranh.
Ban đầu chỉ là 01 ranh đơn sơ, sau đó vào năm 1981 do sợ bị của ông Hồ Q qua
phá hoa màu nên ông L đã dùng dây kẽm gai để rào và có gieo hạt keo theo bờ ranh
với mục đích làm hàng rào. Sau đó, hàng rào đã cũ nên năm 2011 ơng L làm hàng
rào trụ bê tông giăng lưới B40. Ngày 06/9/2012, ông Nguyễn Văn L tách thửa để
tặng cho bà H diện tích đất 402m2. Theo hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông L và ông L tách thửa để cho bà H đất thì hàng ranh đất từ trước ra sau
là đường thẳng. Khi bà H nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà H biết
ranh theo sơ đồ đất là đường thẳng nhưng ranh đất thực tế là cong. Nay bà C cho

rằng bà H đã lấn sang đất của bà C diện tích là 105m2 và yêu cầu bà H trả lại thì bà
H khơng đồng ý vì ranh đất này đã có từ lúc ơng L nhận sang nhượng đất vào năm
1980 cho đến nay. Nếu có cơ sở cho rằng bà H lấn đất của bà C thì bà H đồng ý dời
hàng rào trụ bê tông và lưới B40 theo đúng hàng ranh mà bà C được chấp nhận. Về
kết quả đo vẽ sơ đồ vị trí đất và kết quả định giá tài sản thì bà H khơng có ý kiến gì.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ơng Nguyễn Văn L trình bày: Năm 1980,
ơng Nguyễn Văn L nhận chuyển nhượng diện tích đất 2.786m2, tọa lạc tại thôn
Quảng Tây, xã Nghĩa Thành, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Khi nhận
chuyển nhượng thì giữa đất ơng L và đất ơng Hồ Q đã có hàng ranh trồng cây vơng
và rào kẽm gai từ trước ra sau. Ơng L và ơng Q canh tác đất và không ai tranh chấp.
Năm 2011, số kẽm gai bờ rào bị mục và một số cây vông bị chết nên ông L làm lại
hàng rào bằng lưới B40 theo đường ranh cũ. Lúc đó, ơng L có mời ơng Hồ Q ra xác
định ranh thì ơng Q khơng có ý kiến gì. Năm 2012, ơng L tách thửa và cho con gái
là bà Nguyễn Thị Thu H diện tích đất 402m2 thuộc thửa đất số 535, Tờ bản đồ số
06 tại xã Nghĩa Thành. Như vậy, Khi hàng ranh cũ bị hư thì ơng L làm lại hàng ranh
mới rồi mới tách thửa và tặng cho bà H diện tích đất 402m2. Kể từ khi bà H nhận
đất sử dụng cho đến nay thì khơng có gì thay đổi. Bà C cho rằng bà H đã lấn sang
đất của bà C diện tích 105m2 và yêu cầu bà H trả lại cho bà C phần diện tích đất lấn
chiếm thì ơng L khơng đồng ý vì ranh đất này đã có từ lúc ơng L nhận sang nhượng
đất vào năm 1980 cho đến nay.

19


4. Theo ý kiến tại các văn bản của Ủy ban nhân dân huyện Châu Đức và do ông Lê
Văn Dũng là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Việc Ủy ban nhân dân huyện
cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cho ông L, ông Q và sau đó cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà C và bà H là đúng theo trình tự, thủ tục.
5. Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2018/DSST ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Tòa án
nhân dân huyện Châu Đức đã tuyên như sau:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị Thùy C về việc buộc bà Nguyễn Thị
Thu H phải trả lại cho bà C diện tích đất 105m2, loại đất nơng nghiệp, là một phần
trong diện tích đất 463m2 thuộc thửa 364, Tờ bản đồ 6 tọa lạc tại xã Nghĩa Thành.
Đất được Ủy ban nhân dân huyện Châu Đức cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số AK 250437 ngày 13/11/2007 cho hộ ông Hồ Q, bà Hồ Thị Thùy C được nhận
tặng cho quyền sử dụng đất này theo xác nhận ngày 08/01/2008, có sơ đồ đo vẽ
ngày 30/10/2017 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Châu Đức kèm
theo. Bà H phải di dời hàng rào trụ bê tông và lưới B40 để trả lại đất cho bà C. Bà C
được sử dụng 01 cây Mít và 03 cây Tràm có trên diện tích đất 105m2; bà C trả cho
bà H trị giá số cây trồng này là 1.375.100 đồng. Ngồi ra, Bản án sơ thẩm cịn tun
về án phí sơ thẩm, chi phí đo vẽ, định giá và thời hạn kháng cáo.
6. Ngày 11 tháng 9 năm 2018, bà Nguyễn Thị Thu H kháng cáo yêu cầu Tòa án
nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồ
Thị Thùy C về việc buộc bà H phải tháo dỡ hàng rào lưới B40 và trụ bê tông để trả
lại cho bà C diện tích đất 105m2.
7. Tại phiên tịa phúc thẩm phía nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị
đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về vấn đề tranh chấp và khơng cung cấp thêm chứng cứ mới. Ơng L cho rằng
trên diện tích đất tranh chấp là 01 cây mít, 01 cây tràm và 02 cây lồng mứt chứ
không phải 03 cây tràm như trong bản án sơ thẩm nêu. Bà C cũng xác định trên diện
tích đất tranh chấp là 01 cây mít, 01 cây tràm và 02 cây lồng mứt nhưng bà C yêu
cầu bà H chặt bỏ chứ bà H không sử dụng các cây này nên không bồi thường cho bà
H.
8. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu: Trong quá
trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm và
tại phiên tòa phúc thẩm thì những người tiến hành tố tụng và những người tham gia
tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử khơng chấp nhận tồn bộ nội dung kháng
cáo của bà Nguyễn Thị Thu H; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.


20


NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa;
căn cứ và kết quả tranh tranh tụng tại phiên tòa;
Về áp dụng pháp luật tố tụng:
[1]. Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thu H nộp trong thời hạn luật định, phù
hợp với quy định tại các điều 271, 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự và bà H đã
nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định tại Điều 276 của Bộ luật tố tụng dân sự nên
hợp lệ.
[2]. Người đại diện theo ủy quyền của UBND huyện Châu Đức tại Tòa án cấp sơ
thẩm đã hết thời hạn ủy quyền tại Tòa án cấp phúc thẩm. Người đại diện theo pháp
luật của UBND huyện Châu Đức được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn
vắng mặt nên phiên tòa xét xử vắng mặt người đại diện theo pháp luật của UBND
huyện Châu Đức là đúng quy định tại Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung:
[3]. Nguồn gốc diện tích đất 463m2 thuộc thửa 364, Tờ bản đồ số 06 tại xã Nghĩa
Thành, huyện Châu Đức đã được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện
Châu Đức sang tên cho bà Hồ Thị Thùy C vào ngày 08/01/2018 tại trang 4 của Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 250437 ngày 13/11/2007 do ông Hồ Q đứng
tên; theo hợp đồng tặng cho giữa ông Q và bà C số 275.12.HĐTA được Ủy ban
nhân dân xã Nghĩa Thành, huyện Châu Đức chứng thực ngày 17/12/2007. Bà C đã
chuyển mục đích sang đất ở 100m2 theo quyết định số 906/QĐ-UBND ngày
08/4/2008 của Ủy Ban nhân dân huyện Châu Đức. Theo sơ đồ thửa đất tại trang 2
của sổ đỏ số AK 250437 ngày 13/11/2007 do ông Hồ Q đứng tên có tứ cận: Bắc
giáp đất thửa 207 rộng 5m; Nam giáp đường 31 rộng 5m; Tây giáp thửa đất 262 là
đường thẳng dài 100m; phía Đơng giáp thửa đất 263 (đất ông L tặng cho bà H) dài
100,13m là đường thẳng.
[4]. Nguồn gốc diện tích đất 402m2 thuộc thửa số 535, Tờ bản đồ số 06 tại xã

Nghĩa Thành, huyện Châu Đức đã được UBND huyện Châu Đức cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) số BL 910735 ngày 26/9/2012 cho bà Nguyễn Thị
Thu H đứng tên là do ông Nguyễn Văn L (cha ruột của bà H) tặng cho bà H vào
ngày 06/9/2012. Theo sơ đồ vị trí mà Văn phịng đăng ký quyền sử dụng đất huyện
Châu Đức lập ngày 16/7/2012 do ông Nguyễn Văn L chỉ ranh để tách thửa đất 535
có tứ cận: Bắc giáp đất ông Kỷ rộng 4,73m; Nam giáp đường 31 rộng 4,35m; Tây
giáp đất bà C là đường thẳng dài 100m; phía Đơng dài 100m là đường thẳng.
21


[5]. Theo sơ đồ vị trí do Văn phịng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Châu Đức
lập ngày 12/12/2018 và bà C, bà H đều khẳng định thì kích thước phía Bắc, phía
Nam thửa đất 364 thuộc quyền sử dụng của bà C và thửa đất 535 thuộc quyền sử
dụng của bà H đều không thay đổi. Phần ranh giới giữa thửa đất 535 bà H sử dụng
uốn công, lấn sang thửa đất 364 thuộc quyền sử dụng của bà C là 105m2 nên diện
tích thực tế bà H đang sử dụng là 402m2 + 105m2 = 507m2 (dư so với sổ đỏ được
cấp cho bà H 105m2). Diện tích bà C đang sử dụng là 358m2 (thiếu diện tích so với
sổ đỏ được cấp cho bà C là 105m2).
[6]. Theo bà H thì khi bà H được nhận tặng cho đất, bà H biết ranh giới giữa đất bà
H và đất bà C theo giấy tờ là thẳng cịn ranh thực tế là cong nhưng ơng L, bà H
khơng có ý kiến gì. Người làm chứng ơng Đặng Văn Nho là người chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho Nguyễn Văn L xác nhận là vào thời điểm ông L nhận chuyển
nhượng đất thì ơng L có chơn trụ bê tông làm ranh giới giữa thửa đất ông L và thửa
đất ông Q kéo dài từ đường 29 đến đường 31 là đường thẳng (ở giữa không rào kẽm
gai hay trồng bất cứ cây gì).
[7]. Từ những chứng cứ đã nêu trên cho thấy, bản án sơ thẩm buộc bà H phải di dời
hàng rào lưới B40, trụ bê tơng để trả lại cho bà C diện tích đất 105m2 là có căn cứ.
[8]. Bản án sơ thẩm giao cho bà C được sử dụng 01 cây Mít và 03 cây Tràm có trên
diện tích đất 105m2; bà C trả cho bà H trị giá số cây trồng này là 1.375.100đồng
nhưng tại phiên tịa phúc thẩm thì ơng L, bà H, bà C đều xác định trên diện tích đất

tranh chấp là 01 cây Mít, 01 cây Tràm và 02 cây Lồng mứt chứ khơng phải 01 cây
Mít và 03 cây Tràm; chứng tỏ Biên bản định giá và bản án sơ thẩm xác định sai tên
loại cây nhưng các đương sự khơng tranh chấp về số lượng, kích thước cây và giá
cả nên cần xác định lại là: Trên diện tích đất 105m2 mà bà H phải trả lại cho bà C
có 01 cây Mít, 01 cây Tràm và 02 cây Lồng mứt trị giá 1.375.100 đồng. Tại Tòa án
cấp sơ thẩm, bà C đồng ý được quyền sở hữu các cây trồng này và bồi thường cho
bà H 1.375.100đồng nên bản án sơ thẩm đã giao cho bà C sở hữu các cây trồng trên
diện tích đất tranh chấp và bà C phải bồi thường cho bà H 1.375.100 đồng. Bà C
không kháng cáo nên tại phiên tịa phúc thẩm, việc bà C khơng đồng ý nhận 01 cây
Mít, 01 cây Tràm, 02 cây Lồng mứt và khơng bồi thường cho bà H thì khơng thuộc
phạm vi xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 293 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội
đồng xét xử không xem xét yêu cầu này của bà C. Các quyết định khác của bản án
sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị và cấp sơ thẩm đã xử lý đúng quy định nên
Hội đồng xét xử phúc thẩm không đánh giá, phân tích thêm.
[9]. Từ những phân tích, nhận định trên và theo đề nghị của Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy khơng có căn cứ để chấp nhận kháng
cáo của bà Nguyễn Thị Thu H. Do sơ đồ vị trí mà Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai huyện Châu Đức lập ngày 30/10/2017 chưa thể hiện đầy đủ diện tích thửa
22


đất 364 và thửa đất 535 nên Tòa án cấp phúc thẩm đã yêu cầu đo vẽ lại, vì vậy áp
dụng sơ đồ vị trí do Chi nhánh Văn phịng đăng ký đất đai huyện Châu Đức lập
ngày 12/12/2018 để xử lý vụ án đồng thời trong phần quyết định của bản án sơ thẩm
tuyên không rõ nên cần phải sửa một phần Quyết định của Bản án sơ thẩm số
12/2018/DSST ngày 04/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức. Chi phí đo
vẽ bổ sung bà H phải nộp 912.950đồng nhưng bà C Đã nộp đủ nên bà H phải nộp
912.950đồng để hồn trả cho bà C.
[10]. Án phí dân sự phúc thẩm bà Nguyễn Thị Thu H phải chịu.
Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 6,
Điều 166; Điều 170; Điều 203 Luật đất đai năm 2013 ; Điều 164; Điều 175 Bộ luật
Dân sự ; Điều 27, Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tịa án.
Khơng chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thu H. Sửa một
phần nội dung quyết định của Bản án sơ thẩm số 12/2018/DSST ngày 04 tháng 9
năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị Thùy C về việc buộc bà Nguyễn Thị
Thu H phải trả lại cho bà C diện tích đất 105m2, loại đất nơng nghiệp, là một phần
diện tích đất thuộc thửa 364, Tờ bản đồ 6 tại xã Nghĩa Thành, huyện Châu Đức. Đất
này đã được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Châu Đức chỉnh lý sang
tên cho bà Hồ Thị Thùy C vào ngày 08/01/2018 tại trang 4 của Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AK 250437 ngày 13/11/2007 do ông Hồ Q đứng tên. Bà H
phải di dời hàng rào lưới B40, trụ bê tơng để trả lại đất cho bà C. Diện tích đất mà
bà H trả lại cho bà C được xác định tại các tọa độ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. 10, 11, 12,
13, 14 theo Sơ đồ vị trí thửa đất do Văn phịng đăng ký quyền sử dụng đất huyện
Châu Đức lập ngày 12 tháng 12 năm 2018.
2. Bà Hồ Thị Thùy C được sở hữu tồn bộ cây trồng trên diện tích đất 105m2 mà bà
Nguyễn Thị Thu H phải trả lại cho bà C nhưng bà C có nghĩa vụ thanh tốn cho bà
H trị giá số cây trồng này là 1.375.100 đồng (Một triệu ba trăm bảy mươi lăm ngàn
một trăm đồng).
3. Tiền chi phí đo vẽ, định giá tài sản bà Nguyễn Thị Thu H phải nộp 3.762.950
đồng nhưng bà Hồ Thị Thùy C đã nộp tạm ứng 3.762.950 đồng nên bà H phải nộp
3.762.950 đồng để hoàn trả cho bà C. Khấu trừ trị giá số cây trồng mà bà Hồ Thị
23


Thùy C phải trả cho bà Nguyễn Thị Thu H là 1.375.100 đồng vào số tiền chi phí đo

vẽ, định giá mà bà H phải trả cho bà C nên bà H còn phải trả cho bà C số tiền là
2.387.850 đồng (Hai triệu, ba trăm tám mươi bảy ngàn, tám trăm năm mươi đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đến khi thi hành
xong các khoản tiền thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 648 của
Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
4. Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí là 2.625.000 đồng
(Hai triệu sáu trăm hai mươi lăm ngàn đồng).
Bà Hồ Thị Thùy C phải chịu án phí 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) nhưng khấu
trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà C đã nộp là 1.000.000 đồng theo biên lai số
AA/2014/ 09501 ngày 20 tháng 4 năm 2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Châu Đức. Hoàn trả cho bà Hồ Thị Thùy C số tiền tạm ứng án phí cịn lại là
800.000đồng (Tám trăm ngàn đồng).
Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Thu H phải nộp 300.000đồng nhưng
được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà bà H đã nộp theo Biên
lai thu số 0004930 ngày 11 tháng 9 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Châu Đức.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tun án.
Câu 13: Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩmphán
trong Quyết định số 23 được bình luận ở đây?
Hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán trong Quyết định số 23 là thuyết
phục.
Vì mặc dù có căn cứ xác định ơng Hội đã lấn đất của ông Trường nhưng theo lời
khai của ông Hậu “Sau khi sang nhượng xong ông đã làm nhà cơ bản trên diện tích

đất đang tranh chấp, lúc ơng xây nhà ơng Trường khơng có ý kiến gì. Ở đây có thể
thấy 02 lí do mà Tịa án không buộc ông Hậu tháo dỡ căn nhà đã xảy. Thứ nhất,
trong lúc ông Hậu xây dựng ông Trường không lên tiếng phản đối, cũng không báo
cơ quan chức năng có thẩm quyền. Thứ hai, cân nhắc về lợi ích kinh tế thì việc buộc
ơng Hậu tháo dỡ căn nhà đã xây dựng là không nên, và đã bảo vệ lợi ích kinh tế của
24


hai bên thì Tịa án u cầu ơng Hậu trả lại phần đất đã lấn chiếm cịn phần đất ơng
Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà thì giao cho ơng Hậu sử dụng nhưng
phải thanh tốn giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa. Ngoài ra, Hội
đồng thẩm phán cũng đề cập đến phần chiếm khơng gian 10,71 m 2 và cho rằng
việc Tịa các cấp chưa xem xét buộc ông Hậu phải tháo dỡ hoặc phải thanh toán
phần giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa là chưa đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của ông Trường và bà Thoa. Đồng thời, Hội đồng thẩm phán cũng đề
cập đến căn nhà phụ có diện tích 18,57m 2 mà Tịa án các cấp chưa xem xét để giải
quyết.
Câu 14: Đối với phần chiếm không gian 10,71 mẻ và căn nhà phụ có diện tích
18,57 m 2 trên đất lấn chiếm, Tịa án sơ thẩm và Tịa án phúc thẩm có buộc
tháo dỡ không?
Đối với phần chiếm không gian 10,71 mẻ và căn nhà phụ có diện tích 18,57m 2 trên
đất lấn chiếm, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm khơng buộc tháo dỡhoặc phải
thanh tốn giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thi.
Câu 15: Theo anh/chị thì nên xử lý phần lấn chiếm khơng gian 10,71 m 2 và
căn nhà phụ trên như thế nào?
Theo em, nên xử lý phần lấn chiếm không gian 10,71 m 2 và căn nhà phụ theo
hướng sau. Đầu tiên, ta cần xét đến giá trị của phần bị lấn chiếm nếu như phần lấn
chiếm có giá trị lớn, khi tháo dỡ ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của bên ơng Hậu thì
có thể giải quyết theo cách khơng buộc ơng Hậu phải tháo dỡ thay vào đó phải
thanh toán phần giá trị quyền sử dụng đất tương đương với phần lấn chiếm không

gian và căn nhà phụ. Ngược lại, nếu giá trị của phần lấn chiếm không lớn và khơng
ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế thì buộc ông Hậu phải tháo dỡ và trả lại cho chủ sở
hữu. Dựa theo điều 169 BLDS 2015 quy định: “Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản, chủ thể có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp
luật phải chấm dứt hành vi đó hoặc có quyền u cầu Tịa án, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm”. Ở đây, ta thấy hành vi
vi phạm đó chính là lấn chiếm quyền sở hữu và khơng gian của người khác. Và chủ
sở hữu (ông Trường, bà thoa) có quyền u cầu Tịa án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền buộc ơng Hậu phải tháo dỡ cơng trình bị lấn chiếm. Vì vậy, việc tháo dỡ là
có căn cứ pháp lý. Cịn việc khơng tháo dỡ được thay bằng thanh toán phần giá trị
tương đương hiện tại vẫn chưa có căn cứ pháp lý và như vậy sẽ dễ bị lạm dụng. Vậy
nên trước khi có căn cứ pháp luật thì chỉ nên áp dụng khi nó xảy ra thiệt hại lớn với
bên lấn chiếm.
Câu 16: Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và
không gian ở Việt Nam hiện nay.
25


×