Chương 3 : Phân Tích các Thay Đổi
Phúc Lợi
( tiếp theo )
Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe
3.5 Phân tích các Hàm Thoả dụng
Độ thoả dụng là thước đo kinh tế mức độ sung túc của mỗi người. Không thể so
sánh độ thoả dụng giữa mọi người vì không thể đo đạc được độ thoả dụng của
từng người. Một lý do khác là kết quả đo lường độ thoả dụng từ các hàm thoả
dụng thường ở dạng thứ tự nhiều hơn là số lượng. Điều này có nghĩa là các kết quả
đo đạc chỉ cho phép xếp loại những tập hợp hàng hoá khác nhau. Tuy nhiên, nếu
có thể đo được độ thoả dụng, có thể so sánh được độ thoả dụng giữa mọi người
với nhau thì chúng ta có thể thiết lập nên một quy tắc phê duyệt hay từ chối các dự
án dựa trên tác động mà dự án đó có đối với độ thoả dụng tổng hợp của những
người có vị thế. Một quy tắc quyết định như vậy được gọi là tiêu chuẩn phúc lợi
xã hội. Để xây dựng được tiêu chuẩn phúc lợi xã hội hỗ trợ cho CBA, chúng ta coi
độ thoả dụng như có thể đo đếm được và quyết định xem giả định nào là cần thiết
để tạo ra quy tắc thực tế hũu dụng.
Theo thuật ngữ toán học, phúc lợi xã hội là một hàm của các mức thoả dụng khác
nhau của N người trong một xã hội
Đạo hàm từng phần (patrial derivative) của phúc lợi xã hội liên quan đến độ thoả
dụng của một cá nhân i bất kỳ,
, chỉ ra tầm quan trọng của người đó trong
hàm phúc lợi xã hội.
Phần lớn các dự án tạo ra lợi ích ròng cho một số người và mất mát ròng cho một
số người khác. Một hàm phúc lợi xã hội mô tả cách thức so sánh giữa lợi ích và
mất mát. Nếu các thay đổi trong mức thoả dụng của tất cả các thành viên trong xã
hội được biết đến, tác động biên của một dự án đối với phúc lợi xã hội sẽ có được
từ công thức:
trong đó dUi là thay đổi trong độ thoả dụng đối với người i.
Phúc lợi xã hội là một khái niệm mang tính chủ quan. Trong lý thuyết, hàm phúc
lợi xã hội mô tả mức độ giàu có tổng thể của toàn xã hội như một hàm của các
mức thoả dụng của các thành viên trong xã hội. Song có nhiều ý kiến khác biệt về
mối quan hệ toán học chính xác và tầm quan trọng tương đối của những người
khác nhau (thanh niên, người già, công dân tuân thủ luật pháp và tội phạm).
Mục tiêu tốt hơn cả của bất kỳ một dự án công nào là tăng cường phúc lợi xã hội.
Vì thế, tiêu chuẩn đúng đắn để đánh giá một dự án là liệu dự án có tăng giá trị của
hàm phúc lợi xã hội.
[6] Thật không may, điều này là không tưởng về mặt tác
nghiệp. Hàm phúc lợi xã hội hiện không tồn tại. Ngay cả khi có một hàm phúc lợi
xã hội được tất cả mọi người nhất trí thì không dễ gì quan sát được các hàm thoả
dụng cá nhân và không thể đo lường được thay đổi trong độ thoả dụng cá nhân.
Thế nên, không thể đánh giá các dự án theo tác động của dự án lên độ thoả dụng
cá nhân và phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, nếu sửa đổi một chút thì điều kiện phúc lợi
xã hội cũng có thể trở nên thực tế hơn.
Chúng ta bắt đầu bằng cách giả định tối đa hoá độ thoả dụng. Nếu mỗi cá nhân
đang tìm cách tối đa hoá độ thoả dụng (giả định kinh tế đầu tiên) thì tồn tại một
mối quan hệ hữu ích giữa độ thoả dụng cận biên và lợi ích ròng. Một người tối đa
hoá độ thoả dụng bị hạn chế về ngân sách sẽ giải quyết được vấn đề.
trong đó,
X là một vectơ của các số lượng hàng hoá
U(X) là hàm thoả dụng cá nhân
P là véctơ giá
Y là hàm thu nhập cá nhân
Trong tình huống đơn giản nhất, có thể giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng
phương trình Lagrangian
có các điều kiện đầu tiên
.
Trong trường hợp này, λ được hiểu là độ thoả dụng cận biên của thu nhập.
Nếu một các nhân đang tối đa hoá độ thoả dụng và thay đổi lượng hàng hoá tiêu
dùng, tổng thay đổi trong độ thoả dụng tạo ra sẽ là tổng tác động của các thay đổi
trong độ thoả dụng.
Thế nên, thay đổi độ thoả dụng do thay đổi trong rổ hàng hoá tiêu thụ gây ra
ngang bằng với độ thoả dụng cận biên của thu nhập, λ, nhân với tổng của các tích
giữa giá và lượng của thay đổi tiêu dùng. Tuy nhiên, đối với bất kỳ người nào,
mức thay đổi độ thoả dụng này chính là giá trị của lợi ích ròng của dự án. Thế nên,
với bất kỳ người nào thì
Chúng ta thu được kết quả là thay đổi trong mức phúc lợi xã hội được mô tả như
trong đó
là tác động cận biên lên phúc lợi xã hội của việc tăng độ thoả dụng của mỗi
cá nhân
là độ thoả dụng biên i của thu nhập của mỗi người
NBi là giá trị quy đổi ra tiền mặt của lợi ích ròng mà một người nào đó nhận được
(có thể là Biến đổi Bù đắp hay Biến đổi Tương đương).
Trong khi chúng ta dự đoán giá trị cho những thay đổi trong tiêu dùng mà một dự
án tạo ra là NBi, chúng ta không thể đo được độ thoả dụng thu nhập biên của mỗi
cá nhân theo cách cho phép chúng ta có thể so sánh chúng với các giá trị khác.
Điều này có nghĩa là chúng ta không thể tuyên bố rằng trên cơ sở đo lường là mỗi
một đôla thu nhập thêm Ông X có được có giá trị thấp hơn so với mỗi một đôla
thu nhập thêm của cô Y.
Tuy nhiên, cách có thể so sánh được là chúng ta lý giải xem việc nhận thêm một
đôla có tác động như thế nào đến sự giàu có hay độ thoả dụng của một người. Một
người có vai trò quan trọng đến mức độ nào đối phúc lợi xã hội.
Trong công thức trên, thay đổi trong phúc lợi xã hội ? dW là tổng gia quyền
(weighted sum) của lợi ích ròng của mỗi cá nhân. Sức nặng gắn cho lợi ích ròng
của mỗi cá nhân là tích của
và độ thoả dụng cận biên của thu nhập. Trong đó,
là một biểu thức thể hiện tầm quan trọng của lợi ích ròng cá nhân đối với xã
hội. Kết hợp lại với nhau, hai khái niệm này hợp thành giá trị tương đối mà xã hội
gán cho một đơn vị thu nhập gia tăng của mỗi cá nhân. Đó cũng là giá trị mà xã
hội gán cho cá nhân nhận được một đô la lợi ích ròng từ dự án
Biểu thức
là tầm quan trọng tương đối của người i trong hàm phúc lợi xã hội.
Nói cách khác, đây chính là mức độ quan tâm mà xã hội dành cho người đó. Trong
một xã hội quân bình tuyệt đối, giá trị này của mọi người có thể đều như nhau.
Mỗi người sẽ có tầm quan trọng ngang với người khác đối với phúc lợi xã hội.
Hoặc, mỗi người khác nhau sẽ có giá trị khác nhau. Điều này thể hiện ý tưởng cho
rằng xã hội quan tâm nhiều hơn đến một số người này hơn một số người khác. Có
thể trẻ em được đánh giá cao hơn vì chúng có ít khả năng tự chăm sóc cho bản
thân chúng hơn hay vì chúng đại diện cho tương lai của xã hội. Bác sĩ, lính cứu
hoả và giáo viên được đánh giá cao hơn vì tính chất những dịch vụ mà họ cung
cấp. Trái lại, tội phạm có thể bị định giá thấp hơn so với những công dân tuân thủ
pháp luật.
Thế nên, nhìn chung, việc quyết định xem liệu một dự án có tăng phúc lợi xã hội
hay không tuỳ thuộc vào việc biết chính xác xem dự án khiến cho độ thoả dụng
của mỗi cá nhân thay đổi như thế nào. Nếu bạn biết được hàm phúc lợi xã hội, bạn
sẽ biết độ thoả dụng của mỗi cá nhân tác động như thế nào đến phúc lợi xã hội
. Bạn có thể có một số giả định liên quan đến độ thoả dụng cận biên thu nhập
của mỗi cá nhân
. Với giá trị được cho trước, bạn chỉ cần biết lợi ích
ròng NBi mà mỗi người được hưởng để quyết định được tác động của dự án lên
phúc lợi xã hội. Đương nhiên, phần lớn các dự án đều ảnh hưởng đến số người đủ
đông để khiến cho thậm chí ngay cả phiên bản đơn giản này của phúc lợi xã hội
không thể được triển khai. Phần sau sẽ bàn đến một số giả định cần thiết cho phân
tích CBA.
3.6 Một số Giả định Đơn giản hoá Đặc biệt
Nếu các giả định này mang tính thực tế thì các phương pháp thảo luận trong phần
trước sẽ cho phép một nhà phân tích quyết định xem tác động của một dự án đối
với phúc lợi xã hội và kết quả là đánh giá một cách chính xác liệu xem dự án đó có
được mong đợi hay không. Thật không may, trong nhiều trường hợp, ngay cả
phiên bản đơn giản của điều kiện phúc lợi xã hội như trình bày ở trên cũng đòi hỏi
thông tin nhiều hơn và đánh giá khách quan hơn có thể được. Ngay cả việc nhất trí
được về sức nặng nên gán cho mỗi cá nhân khác nhau cũng sẽ là một việc vô
vọng.
Giải pháp CBA vận dụng sức nặng giống nhau cho tất cả mọi người. Sức nặng xã
hội cho mỗi người là giống nhau. Có nghĩa là
cho tất cả mọi người. Điều
này cho chúng ta một phương trình đơn giản cho thay đổi trong phúc lợi xã hội:
Điều này chỉ ra rằng thay đổi trong phúc lợi xã hội ngang bằng vói tổng các tích
của độ thoả dụng thu nhập cận biên cá nhân và lợi ích ròng cá nhân.
Giảđịnh đơn giản hoá này đáng được đưa ra để thảo luận.
[7] Trước tiên, giảđịnh
rằng tất cả mọi người đều có tầm quan trọng ngang nhau trong một xã hội quân
bình. Thứ hai, giảđịnh này góp phần đảm bảo rằng các dự án tăng tổng tài sản
sẽđược coi làđáng mong đợi. Nguyên nhân là bởi việc tạo ra tài sản có ý nghĩa
quan trọng hơn việc dự án sẽ tạo ra tài sản cho ai. Cuối cùng, nếu trong thực tế có
một số người có vai trò quan trọng hơn một số người khác đối với xã hội thì các
chương trình chuyển nhượng tài sản trực tiếp có thểđược sử dụng để hỗ trợ những
người có giá trị lớn hơn một cách hiệu quả hơn nếu dự án được thực hiện dưới một
dạng khác.
Thuật ngữ biểu hiện độ thoả dụng thu nhập cận biên của người i. Một giả định
thường thấy trong kinh tế là độ thoả dụng thu nhập cận biên giảm dần, ý tưởng cho
rằng độ thoả dụng tăng thêm từ một gia tăng nhỏ trong thu nhập giảm dần khi thu
nhập tăng. Giả định này nhất quán với hành vi né tránh rủi ro như mua bảo hiểm
hay đa dạng hoá gói đầu tư. Nhìn một cách trực quan hơn, điều này nhất quán với
ý tưởng cho rằng $1000 thu nhập có thêm đối với một người ở trong tình trạng
nghèo đói cùng cực là quan trọng hơn so với một người tương đối sung túc. Thế
nên, đối với bất kỳ người nào, độ thoả dụng thu nhập cận biên giảm dần khi thu
nhập tăng dần.
Trong khi không thể so sánh độ thoả dụng giữa các cá nhân, nhiều người sẽ lập
luận rằng một sự gia tăng trong thu nhập sẽ có ý nghĩa nhiều hơn là việc tạo ra một
biến đối cho một người nghèo một cách cùng cực. Nếu mọi người được giả định là
ít nhiều có giống nhau về mặt năng lực hưởng thụ thì một đồng đô la thu nhập có
thêm đối với người nghèo sẽ có ý nghĩa lớn hơn so với người giàu. Trong trường
hợp đó, độ thoả dụng cận biên của người nghèo hơn là lớn hơn, của người giàu
hơn là nhỏ hơn. Người có thu nhập thấp hơn sẽ đóng vai trò quan trọng hơn trong
hàm phúc lợi xã hội. Hàm ý ở đây có nghĩa là, với những điều kiện khác giống
nhau, nên định giá chi phí lợi ích đối với người nghèo cao hơn đối với người giàu.
Điều này dẫn đến một số đề xuất về loại hình CBA trong đó sức nặng khác nhau
được gán cho người có thu nhập khác nhau (trích dẫn). Tuy nhiên, đây không
phải là cách tiếp cận chuẩn mực.
Vấn đề là ở chỗ, cũng như sức nặng xã hội cho mỗi cá nhân, người ta cũng không
nhất trí được về độ thoả dụng thu nhập cận biên cho mỗi cá nhân. Thế nên, cách
tiếp cận chuẩn một lần nữa lại là coi như độ thoả dụng thu nhập cận biên của mọi
người đều như nhau. Điều này cho chúng ta một phương trình cho thay đổi phúc
lợi xã hội do dự án gây ra như sau:
Trong phiên bản đơn giản này, phúc lợi xã hội còn tăng chừng nào tổng lợi ích
ròng của các cá nhân, tổng lợi ích ròng của dự án mang giá trị dương. Đơn giản
hơn, một dự án là đáng được mong đợi về mặt kinh tế nếu nó có lợi ích ròng
dương.
Công thức này được biết đến như tiêu chuẩn Kaldor-Hicks (KH). Kaldor (1939) đề
xuất tiêu chuẩn KH vào năm(1939) và được Hicks (1939) ứng dụng. Tiêu chuẩn
KH có thể được phát biểu như sau:
Một dự án là có thể chấp nhận được khi người được lợi từ dự án về lý thuyết có
thể bù đắp cho những người chịu thiệt hại do dự án gây ra. (Kaldor, 1939, tr. 549-
550).
Một phiên bản đơn giản hoá, tuy không nhất thiết phải là một phiên bản tương tự
của cách phát biểu này là một dự án là có thể chấp nhận được khi lợi ích cho người
được lợi lớn hơn thiệt hại gây ra cho những người bị hại hay tổng lợi ích ròng của
các cá nhân mang giá trị dương.
[8]
Thử nghiệm này là những gì mà các nhà kinh tế muốn nói khi họ nói một cách
thực tiễn về hiệu quả kinh tế. Tiêu chuẩn này cũng được biết đến như thử nghiệm
đền bù tiềm tàng - potential compensation test (PCT) vì người được lợi có khả
năng bù đắp cho những người chịu thiệt hại. Lý giải ban đầu cho thử nghiệm này
là tách biệt những tính toán hiệu quả ra khỏi suy tính về sự cân bằng. Vì chỉ có
tính hiệu quả chứ không phải là độ công bằng mới được coi là thuộc lĩnh vực của
các nhà kinh tế.
Thảo luận Tiêu chuẩn Kaldor Hicks
Thử nghiệm do Kaldor đề xuất giả định rằng xuất phát điểm là hiện trạng. KH đo
lường lợi ích và chi phí của việc chuyển
[9] từ trạng thái hiện tại sang một trạng
thái mới. Lợi ích được đo bằng WTP và chi phí được đo bằng WTA. Giá trị của
thay đổi là tổng của các biến bù đắp. Biến bù đắp lấy mức thoả dụng gốc làm xuất
phát điểm. Quyền được hưởng những lợi ích mà dự án đem lại không phải là
quyền cố hữu của người hưởng lợi. Họ phải trả phí để có được những lợi ích đó.
Bởi vậy, ta mới có WTP. Quyền được tránh không phải chịu những thiệt hại liên
quan đến dự án là quyền cố hữu của người chịu thiệt hại. Họ phải được đền bù và
ta có WTA. KH
[10] là tiêu chuẩn phân tích chi phí lợi ích chuẩn. Nó bao hàm việc
đo biến bù đắp của một thay đổi phúc lợi xã hội.
Hãy tưởng tượng một dự án có tác động đến hai người, giúp họ chuyển từ một thế
giới này, thế giới A sang một thế giới khác, thế giới B. Như thể hiện trong Bảng
W-3A dưới đây, người 1 hưởng lợi từ dự án trong khi người 2 chịu thiệt.
Bảng W-3A: Giá trị của Dịch chuyển từ A sang B
WTP WTA
Người 1 - được lợi Biến đổi Bù đắp = $100 Biến đổi Tương đương = $120
Người 2 - bị hại Biến đổi Tương đương = $-75 Biến đổi Bù đắp = $-95
KH bổ sung WTP của người được lợi vào WTA của người bị hại. Điều này có
nghĩa là lợi ích được đo bằng WTP và thiệt hại được đo bằng WTA. Bởi vậy, kết
quả đo KH giá trị của việc chuyển từ A sang B là $100 ? $95 hay $5. (TQ hiệu
đính: người 1 chịu trả $100 để có 1 sự lợi ích $120, còn người 2 chịu nhận $95 bù
đắp cho sự thiệt thòi là $-75. Vậy lợi ích ròng cho xã hội là $5).
Lưu ý rằng cũng có thể đo thay đổi phúc lợi bằng tổng các Biến đổi Tương đương.
Tuy nhiên, cách làm này đưa lại đáp số không nhất quán với kết quả KH. Nó sẽ là
WTA cho lợi ích và WTP cho thiệt hại. Nếu như ở ví dụ trên thì kết quả đó sẽ là
$120-$75 hay $45.
Giả định rằng chúng ta dùng KH để đo lường thay đổi tiêu cực như thể hiện trọng
Bảng W-3B. Thay đổi này là việc chuyển từ trạng thái A sang trạng thái B. Lúc
đó, người 1 sẽ là người bị thiệt và người 2 sẽ là người được lợi. Lợi ích mà người
2 thu được sẽ được đo bằng WTP vì sự biến chuyển này sẽ là $+75. Thiệt hại của
người 1 sẽ được đo bằng WTA. Mức thiệt hại sẽ là $120. KH của một biến đổi từ
B sang A sẽ là $75 - $120 hay -$45. Đây là phủ định của giá trị biến đổi tương
đương của dịch chuyển từ A sang B. Điều này có nghĩa là giá trị tuyệt đối của kết
quả phép đo KH (dựa trên Biến đổi Bù đắp) đối với giá trị của biến đổi từ B sang
A bằng với giá trị tuyệt đối của phép đo Biến đổi Tương đương của thay đổi từ A
sang B.
Bảng W-3B: Giá trị của Thay đổi từ B sang A
WTP WTA
Người 1 - bị thiệt Biến đổi Bù đắp = $-100 Biến đổi Tương đương = $-120
Người 2 - được lợi Biến đổi Tương đương = $75 Biến đổi Bù đắp = $95
Đối với một hàng hoá thông dụng thì giá trị WTA của một người sẽ ngang bằng
hay lớn hơn WTP của họ. Điều này là bởi WTA được đo từ một vị trí phúc lợi cao
hơn so với WTP. Việc sử dụng WTA giả định rằng mỗi cá nhân có quyền không
chấp nhận bị mất mát và luôn mong có được nhiều của cải hơn so với ban đầu.
Ngoài ra, WTP bị bó buộc trong thu nhập của mỗi cá nhân trong khi WTA thì lại
không.
Quyết định có nên dịch chuyển hay không phụ thuộc vào nguyên trạng của thế
giới. Nếu bạn tưởng tượng rằng có hai trạng thái của thế giới, C và D thì kết quả
KH có thể ngụ ý cả hai điều, hoặc việc dịch chuyển từ C sang D là không được
mong đợi hoặc việc dịch chuyển từ D sang C là không được mong đợi. Xuất phát
điểm có thể quyết định kết quả. Đây không phải là vấn đề. Khuyến nghị chúng tôi
đưa ra là lấy hiện trạng làm xuất phát điểm. Cách tiếp cận như vậy nhất quán với
nhóm các quyền hợp pháp hiện hành. Trong một số trường hợp, các quyền theo
luật định là hoàn toàn không rõ ràng. Thế nên, xuất phát điểm cũng hoàn toàn
không rõ ràng. Trong trường hợp có thể coi việc trao quyền là lợi ích của bên nhận
quyền và WTP được vận dụng sao cho (hàng hoá hay quyền? tuỳ theo điều bạn
muốn nói tới?) có thể được đưa ra bán đấu giá theo quy tắc KH.
[11]
Ví dụ: Những cây Bách tùng Cổ đại ở Headwaters Grove[12]
Headwaters Grove là khu vực có rừng bách tùng cổ thụ tư hữu ở vùng bắc
California. Giá trị gỗ của cây bách tùng cổ ước tính từ $100 triệu đến $500 triệu.
Trong khoảng 10 năm, Công ty Gỗ Thái Bình Dương đã trình lên Ban Lâm nghiệp
California quy hoạch khai thác gỗ và tiến hành đốn cây lấy gỗ. Tuy nhiên, cho đến
nay nỗ lực của công ty vẫn bị cản trở bởi các nhóm môi trường. Họ đã thành công
trong việc ngăn cản không cho công ty khai thác gỗ. Điều này cho thấy dù quyền
sở hữu tài sản lập pháp có thể thuộc về ai đi chăng nữa thì các quyền sở hữu tài
sản kinh tế có vẻ như vẫn thuộc về các nhóm môi trường.
Đây là trường hợp mà chi phí đốn cây, tức là WTA như thể hiện bởi các nhóm môi
trường vượt quá giá trị WTP của công ty. Thật ra, nếu không phải là tình huống
này thì công ty khai thác gỗ có khả năng đưa ra đền bù cho các nhóm liên quan
đến môi trường (có thể là bằng tiền mặt hay bằng quyền sở hữu đất/thuê đất). Đổi
lại họ sẽ thôi không phản đối việc khai thác khu Headwaters Grove lấy gỗ.
Nếu thay vì đó, công ty khai thác gỗ có quyền đốn cây thì phân tích chi phí lợi ích
của dự án liên quan sẽ cho kết quả là huỷ bỏ việc đốn gỗ. Trong trường hợp này,
lợi ích (không đốn cây) sẽ được định giá theo mức WTP của các nhóm môi trường
trong khi chi phí, tức là giá trị của lượng gỗ mất đi từ 100 triệu USD đến 500 triệu
USD sẽ được định giá tương ứng với mức WTA. Trong tình huống này, có thể giá
trị WTA vượt giá trị WTP và người ta sẽ quyết định đốn cây. Ta sẽ có kết quả trái
ngược vì hiện trạng ban đầu của thế giới và các quyền tài sản liên quan đã thay
đổi.
3.7 Thặng dư người tiêu dùng và Thặng dư nhà sản xuất
Mức WTP hay WTA liên quan đến một chương trình là thước đo chuẩn xác các
mức thay đổi phúc lợi xã hội. WTP hay WTA được đo bằng mức biến đổi đền bù
hay mức biến đổi tương đương. Vận dụng các cách thức tính toán này là tương đối
khó vì chúng đòi hỏi phải phân tích đường cầu đền bù hay đường cầu Hicks. Dọc
theo đường cầu này độ thoả dụng là không đổi. Quan sát hành động của người tiêu
dùng cho ta đường cầu thông thường hay đường cầu Marshal. Dọc theo đường cầu
này thu nhập không đổi. Tuy thông thường thì vẫn có thể tính toán được đường
cầu Hicks từ đường cầu Marshal song việc này không mấy dễ dàng. May mắn
thay, việc quan sát hành vi của người tiêu dùng dựa trên đường cầu thường lại cho
ta các giá trị thông thường xấp xỉ mức biến đổi đền bù hay biến đổi tương đương.
Các giá trị này là thặng dư của người tiêu dùng và thặng dư của nhà sản xuất.
3.8 Thặng dư người tiêu dùng (Consumer Surplus ~ CS)
Thặng dư người tiêu dùng là lợi ích người tiêu dùng thu được thông qua việc trao
đổi hàng hoá trên thị trường. Theo nghĩa đơn giản nhất, nó ngang với mức khác
biệt giữa độ sẵn sàng chi trả tối đa của người tiêu dùng cho một khối lượng hàng
hoá nhất định và tổng chi phí họ bỏ ra cho lượng hàng hoá đó. Nói cách khác, tổng
giá trị mà người tiêu dùng gắn cho một lượng hàng hoá nhất định ngang với tổng
chi tiêu cộng với thặng dư của người tiêu dùng. Hình W-6 mô tả điều này.
Hình W-6
Thặng dư người tiêu dùng nhìn chung xấp xỉ với biến đổi đền bù hay biến đổi
tương đương. Tức là thặng dư của người tiêu dùng do giảm giá gây ra ngang với
hoặc biến đổi đền bù hoặc biến đổi tương đương với một số hạn chế nhất định.
Cụ thể hơn, việc biểu hiện chuẩn xác mối quan hệ giữa thặng dư của người tiêu
dùng và biến đổi đền bù, biến đổi tương đương phụ thuộc vào việc cụ thể hoá
đường cầu Hicks với độ thoả dụng không đổi. Điều này khiến cho việc ước tính
kết quả đo lường này khó khăn hơn đôi chút vì những mối quan hệ cầu được quan
sát thường xuyên nhất là đường cầu Marshal với thu nhập chứ không phải là độ
thoả dụng là bất biến. Khi giá hàng hoá lên hoặc xuống, độ thoả dụng sẽ giảm
hoặc tăng. Kết quả là đường cầu Hicks dịch chuyển vào trong hay ra ngoài trong
khi đường cầu Marshal vẫn đứng nguyên. Hình W-7 mô tả tình huống này xảy ra
khi một người tiêu dùng một mặt hàng và mức giá của mặt hàng này giảm từ mức
P0 xuống mức P1 khiến cho độ thoả dụng tăng từ mức U0 lên U1. Biến đổi giá
khiến cho đường cầu Hicks H0 tăng lên thành đường cầu Hicks H1 song vẫn chỉ
có một đường cầu Marshal D.
Hình W-7
Thặng dư của người tiêu dùng có được khi mức giá giảm từ P0 xuống P1 (hay mất
đi khi mức giá tăng từ mức P1 lên mức P0) là vùng bổ sung nằm dưới đường cầu
do kết quả của biến đổi giá cả. Song việc vận dụng đường cầu nào trong ba đường
cầu (H0, H1 hay D) để tính toán mức thặng dư này tuỳ thuộc vào tình hình.
Biến đổi đền bù của thay đổi giá cả này là vùng A. Nó sẽ là giá trị thích hợp để
gán cho thay đổi giá cả của hàng hoá nếu mức giá rớt từ P0 xuống còn P1 hay nếu
người tiêu dùng không có quyền ban đầu được hưởng mức giá thấp hơn. Giá trị
này là tương đối nhỏ vì việc không có quyền được hưởng mức giá thấp khiến cho
người tiêu dùng trở nên nghèo khó hơn với độ thoả dụng thấp hơn. Độ thoả dụng
này nhất quán với độ thoả dụng thấp hơn của đường cầu Hicks.
Biến đổi tương đương cho sự thay đổi giá cả này là vùng A+B+C. Đây sẽ là giá trị
thích hợp gán cho thay đổi giá nếu mức giá tăng từ P1 lên P0 hay nếu người tiêu
dùng có quyền được hưởng mức giá thấp. Khoản giá trị này là tương đối lớn vì
quyền được hưởng mức giá thấp hơn của giúp người tiêu dùng trở nên giàu có
hơn, có độ thoả dụng cao hơn nhất quán với mức thoả dụng cao hơn của đường
cầu Hicks.
Như thảo luận ở trên, đường cầu quan sát hay ước tính phần lớn là đường cầu
Marshal, chẳng hạn như đường cầu D. Thặng dư của người tiêu dùng tính toán từ
đường cầu quan sát sẽ có giá trị ngang với vùng A+B. Nhìn chung thì giá trị này
sẽ không bao giờ chính xác hoàn toàn với giá trị đúng.
May mắn là thặng dư của người tiêu dùng đo được bằng đường cầu Marshal, D, có
khả năng gần với giá trị thích hợp trong từng trường hợp. Willig (1976) chứng
minh rằng với điều kiện thông thường, thặng dư của người tiêu dùng mà đường
cầu Marshal thể hiện là một con số xấp xỉ tương đối chuẩn của biến đổi đền bù hay
biến đổi tương đương. Sai số của nó có khả năng nhỏ hơn so với sai vốn có của
ước tính đường cầu.
Về mặt tác nghiệp mà nói, nếu một dự án tạo ra thay đổi giá cả của một mặt hàng,
nếu mức giá ban đầu và lượng hàng được biết trước và nếu có thể dự đoán trước
mức giá và mức cung hàng sau dự án thì có thể ước lượng một cách xấp xỉ vùng
A+B với một độ chính xác nhất định. Cách đo lường này là một phương thức đo
lường hợp lý đối với lợi và hại mà dự án đem lại cho cá nhân người tiêu dùng cho
dù biến đổi đền bù hay biến đổi tương đương là chính xác hơn về mặt lý thuyết.
Ví dụ: Thay đổi giá Nông sản
Hãy hình dung rằng mỗi năm có một triệu tấn cải xanh được sản xuất và tung ra
bán trên thị trường với mức giá $US 2000/tấn. Xét hai chương trình có tác động
tương phản nhau lên mức chi phí để trồng cải xanh: một chương trình sẽ hạ thấp
mức giá xuống còn $US 1800/tấn và tăng lượng cải xanh bán được lên 200 nghìn
tấn trong khi chương trình còn lại sẽ tăng giá lên $US 2200/tấn và giảm lượng bán
ra xuống 200 nghìn tấn.
Chúng ta tính toán vùng thay đổi trong thặng dư của người tiêu dùng từ mỗi
chương trình với giả định rằng đường cầu là đường tuyến tính:
Trong trường hợp giá giảm, mức thay đổi được tính toán trong thặng dư của người
tiêu dùng là $US 200/đơn vị nhân với 1.1triệu đơn vị, tức là $US 220 triệu. Tuy
nhiên, vì đây là tình huống giá giảm nên thước đo chuẩn của lợi ích là biến đổi đền
bù. Bởi vậy, mức $US 220 triệu có lẽ được coi là cao hơn so với giá trị thực.
Trong trường hợp giá tăng, mức thay đổi được tính toán trong thặng dư của người
tiêu dùng là $US 200/đơn vị nhân với 0.9 triệu đơn vị, tức là $US 180 triệu. Tuy
nhiên, vì đây là tình huống giá tăng nên thước đo chuẩn của lợi ích là biến đổi
tương đương. Bởi vậy, giá trị của $US 220 triệu có lẽ được coi là thấp hơn so với
giá trị thực.
3.9 Thặng dư của Nhà Sản xuất (Producer Surplus ~ PS)
Thặng dư của nhà sản xuất là lợi ích mà nhà sản xuất/nhà cung cấp thu được từ
việc trao đổi hàng hoá trên một thị trường. Nó là chênh lệch giữa mức doanh thu
với chi phí cơ hội của việc tham gia vào thị trường. Nói cách khác, thặng dư của
nhà sản xuất ngang với lợi nhuận kinh tế không bao hàm các chi phí cố định hay là
chênh lệch giữa tổng doanh thu với các biến phí như thể hiện trong Hình W-8.
Hình W-8
Nhìn chung, người ta thường cho rằng các nhà cung cấp luôn tìm cách tối đa hoá
lợi nhuận. Vì vậy ta có thể tránh được phần lớn những phức tạp xung quanh quyết
định của người tiêu dùng và các thay đổi phúc lợi xã hội liên quan. Việc phân bổ
quyền sở hữu ban đầu (ví dụ như có quyền đối với hiện trạng) không nên ảnh
hưởng đến mức độ tối đa hoá lợi nhuận đối với sản phẩm công ty sản xuất ra.
Trong khi thặng dư của nhà sản xuất không bao giờ được ghi chép và có lẽ hiếm
khi được tính toán, các thay đổi trong lợi nhuận thường sẽ xấp xỉ các thay đổi
trong thặng dư của nhà sản xuất chừng nào không có thay đổi trong lượng đầu vào
cố định được dùng.
Ví dụ, nếu một dự án sản xuất ra một lượng lớn sản phẩm và đẩy giá thị trường
của sản phẩm đầu ra đó xuống thấp. Thiệt hại mà các nhà sản xuất tư của loại sản
phẩm đó sẽ là lượng suy giảm của thặng dư của nhà sản xuất (∆PS) được thể hiện
trong Hình W-9. Trong khi thay đổi trong thặng dư của nhà sản xuất sẽ không bao
giờ được ghi chép lại chừng nào còn không có những thay đổi lớn trong đầu vào
cố định của công ty (ví dụ như số nhà máy mà các công ty này vận hành) thì
chừng đó thay đổi trong lợi nhuận còn mang giá trị gần với thay đổi trong thặng
dư của nhà sản xuất. Lưu ý rằng nếu là công ty công thì biến đổi lợi nhuận sẽ được
ghi chép lại.
Hình W-9
Tóm tắt
Thước đo trung thực xác định xem liệu một dự án có lợi hay không dựa trên
những thay đổi tác động đến các cá nhân. Tiêu chuẩn Pareto là tiêu chuẩn phê
duyệt một dự án khắt khe nhất. Tiêu chuẩn này phát biểu rằng một dự án được coi
là có lợi khi tăng ít nhất độ thoả dụng của một người mà không giảm độ thoả dụng
của bất kỳ người nào khác. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này không mấy hữu dụng trong
việc đánh giá các dự án trong thực tế.
Để xem xét tác động ròng của một dự án đối với phúc lợi xã hội trong trường hợp
dự án vừa có tác động tích cực lẫn tiêu cực lên nhiều người khác nhau cần phải
hiểu các hàm thoả dụng của họ cũng như đưa ra giả định về một hàm phúc lợi xã
hội mục tiêu nào đó. Thật không may, việc tính toán các hàm lượng hữu dụng
(cardinal utility functions) và thay đổi trong độ thoả dụng cũng như so sánh mức
thay đổi giữa các cá nhân khiến cho việc sử dụng trực tiếp hàm thoả dụng và hàm
phúc lợi xã hội không hề mang một độ khả thi thực tế nào.
Thay vào đó, bằng việc xem xét lợi ích ròng mà mỗi người được hưởng và phân
bổ sức nặng đồng đều cho mỗi cá nhân, chúng ta có được một biện pháp đo lường
độ mong đợi của dự án mang tính thực tế hơn. Nhất là tiêu chuẩn Kaldor-Hicks
(KH) gợi ý rằng nên cho mọi người có tầm quan trọng ngang nhau, cho họ quyền
đối với hiện trạng để phục vụ cho phân tích. Điều này mang lại cho ta khái niệm
lợi ích ròng như một biện pháp đo lợi ích kinh tế của một dự án. Đây là khái niệm
đo lường được dùng phổ biến nhất trong CBA. Đặc biệt, lợi ích ròng có thể được
tính toán trên cơ sở các biến đổi đền bù bằng cách dùng độ sẵn sàng chi trả (WTP)
để định giá lợi ích và độ sẵn sàng chấp nhận (WTA) để định giá chi phí.
Một cách tiếp cận thực tiễn khác trong việc định giá thay đổi phúc lợi là xem xét
lợi nhuận ròng có được từ trao đổi hàng hoá trên các thị trường có được nhờ tác
động trực tiếp của dự án. Để làm được điều này, có thể ước tính các thay đổi trong
thặng dư của người tiêu dùng (lợi ích ròng của người tiêu dùng) và thặng dư của
nhà sản xuất (lợi ích ròng của nhà sản xuất) để dùng trong tính toán các tác động
phúc lợi xã hội ròng.
Câu hỏi
1. Hãy hình dung việc chuyển từ trạng thái thế giới A sang trạng thái thế giới B có
ảnh hưởng tới hai người là Dave và Chris. Bảng dưới đây cung cấp cho ta giá trị
WTP và WTA của mỗi người.
Giá trị của việc Chuyển từ A sang B
WTP WTA
Dave Biến đổi Bù đắp = $US 100 Biến đổi Tương đương = $US 130
Chris Biến đổi Tương đương = $US -105 Biến đổi Bù đắp = $US -120
Hãy tính lợi ích ròng của việc chuyển từ A sang B cùng lợi ích ròng của việc
chuyển từ B sang A. Có nhận xét gì về kết quả thu được.
2. Bạn có thể đưa ra một ví dụ tương tự như ví dụ được đưa ra ở câu hỏi trên trong
đó cả việc chuyển từ A sang B lẫn việc chuyển từ B sang A đều là đáng mong đợi
hay không? Nếu không thì tại sao?
Trả lời
1. Đối với một dịch chuyển từ A sang B, Dave sẽ hưởng một khoản lợi trong khi
Chris sẽ phải chịu một thiệt hại. Lợi ích mà Dave hưởng phải được định giá theo
độ sẵn sàng chi trả $US100 trong khi thiệt hại mà Chris phải gánh chịu phải được
định giá theo độ sẵn sàng chấp nhận, -$US120. Lợi ích ròng lúc đó là -$US20.
Đối với một dịch chuyển từ B sang A, Dave sẽ chịu một mức thiệt hại và Chris sẽ
được hưởng một khoản lợi. Thiệt hại mà Dave phải gánh chịu phải được định giá
theo độ sẵn sàng chấp nhận -$130 trong khi lợi ích mà Chris được hưởng phải
được định giá theo độ sẵn sàng chi trả $105. Lợi ích ròng có được là -$25.
Kết quả thu được cho thấy cả hai dịch chuyển từ A sang B và ngược lại đều không
có lợi. Điều này có vẻ như mâu thuẫn. Song sự khác biệt giữa hai dịch chuyển nằm
ở việc phân bổ quyền sở hữu cho mỗi một trong hai trạng thái A và B và tác động
của các quyền sở hữu khác biệt đối với việc định giá.
2. Chừng nào các hàng hoá liên quan còn là hàng hoá thông thường thì chừng đó
còn không thể thiết lập một ví dụ mà trong đó cả hai dịch chuyển đều là đáng
mong đợi. Sở dĩ có điều này là bởi mức độ sẵn sàng chấp nhận sẽ luôn lớn hơn
mức độ sẵn sàng chi trả. Thế nên, chi phí của việc dịch chuyển từ một trạng thái
thế giới này sang một trạng thái thế giới khác lớn hơn lợi ích của việc dịch chuyển
theo chiều hướng ngược lại.
Tham khảo
Olsen, E.O., và D.M. Batron, "Lợi ích và Chi phí của Nhà xuất bản Công ở Thành
phố New York," Tạp chí Kinh tế công, 20, số 3 (1983), 299-332.
Zerbe, Richard O. và Dwight Dively, Lý thuyết và Thực hành Phân tích Lợi ích-
Chi phí, Harper Collins, 1994.
Zerbe, Richard O., Hiệu quả Kinh tế trong Luật pháp và Kinh tế học, Nhà xuất bản
Edward Elgar, Notrhampton, MA, 2001.