Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

SKKN: Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.28 KB, 18 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài.
Quan niệm của Mĩ học truyền thống cho rằng: “Cái hay bao giờ cũng được
nảy sinh và tồn tại trên cơ sở của cái đúng. Nó phải lấy cái đúng làm điểm xuất
phát và là sự thể hiện ở cấp độ cao của chuẩn mực ngơn ngữ”.
Các mơn khoa học nói chung đều phải đạt tới sự chính xác tuyệt đối của các
tri thức. Riêng đối với lĩnh vực văn học, ngoài chuẩn mực về cái đúng còn phải
vươn tới chuẩn mực của cái hay. Cái hay tạo nên sự khác biệt, dấu ấn của tác phẩm.
Chất liệu để tạo nên cái hay của tác phẩm văn học chính là các hình tượng nghệ
thuật được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ. Tài năng của nhà văn phải thể hiện
trước hết ở năng lực sử dụng hệ thống ngôn ngữ sao cho có hiệu quả cao nhất.
Đối với học sinh THCS, việc nhận thức về cái hay và cái đúng mới chỉ dừng
lại ở mức độ thấp, sơ đẳng. Việc tiếp nhận và vận dụng các hình thức ngơn ngữ, các
quy tắc chính tả cịn hạn chế. Chính vì vậy các em thường mắc phải các lỗi chính tả
trong q trình học tập và trở thành một vấn đề cần phải quan tâm.
Như chúng ta đã biết chữ quốc ngữ là một nét đẹp trong văn hóa của người
Việt Nam, gìn giữ và viết đúng chính tả là giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa
dân tộc và cịn là trách nhiệm của mỗi người Việt yêu nước, yêu sự trong sáng của
tiếng Việt.
Thực trạng viết sai chính tả đang là mối quan tâm của nhiều người, của cộng
đồng xã hội trong việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Thế nhưng một thực trạng đáng buồn trong trường tôi hiện nay là có rất nhiều
học sinh viết sai chính tả. Một bài văn của học sinh trung bình cũng như học sinh
giỏi đều mắc lỗi chính tả. Đã khơng ít thầy cô giáo phải kêu lên: “Em viết tôi không
thể nào đọc được...”. Thậm chí một số học sinh khơng chú ý gì về lỗi chính tả khi
làm bài, lâu ngày thành thói quen có hại khó sửa chữa được.
Là một giáo viên dạy Ngữ văn nên tôi rất quan tâm đến việc phát hiện lỗi
chính tả trong nói và viết của học sinh và tìm nhiều giải pháp giúp các em khắc
phục.
Sau nhiều năm nghiên cứu, thực hiện, tôi đã tích lũy được một số giải pháp
giúp học sinh lớp 6 khắc phục lỗi chính tả và đạt được những kết quả khả quan,


muốn được chia sẻ với đồng nghiệp. Đó cũng là lý do tơi chọn đề tài này.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục tiêu:
Căn cứ từ thực tiễn của việc dạy và học nói chung và việc học phân mơn Ngữ
văn nói riêng thì để đảm bảo cho người nói và người nghe, người viết và người đọc
hiểu rõ văn bản một cách thống nhất, người ta đã đưa ra hệ thống qui tắc về cách
viết cho các từ của một ngơn ngữ. Vì vậy vấn đề rèn luyện để nâng cao chất lượng
viết đúng chính tả là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi người giáo viên. Chính


vì lẽ đó tơi muốn đưa ra một số biện pháp để giúp các em giảm bớt lỗi chính tả, nắm
chắc được các qui tắc cơ bản một cách sâu sắc, giúp các em khơng cịn nhầm lẫn
giữa các từ này với từ khác khi nói và viết.
Từ thực trạng trên tôi mong muốn đề tài sẽ là giải pháp tối ưu nhằm giảm tối
đa số học sinh viết sai lỗi chính tả trong q trình học và thi cử, đồng thời tạo cho
các em có lịng say mê học tập và làm việc có kế hoạch một cách cụ thể, có ý chí
vượt khó vươn lên và tự tin trong học tập.
2.2. Nhiệm vụ:
Điều tra lỗi chính tả cơ bản thường hay mắc phải của học sinh; nguyên nhân
các lỗi đó để tìm ra biện pháp khắc phục.
Vận dụng ngun tắc trong chính tả để hình thành kĩ năng viết đúng chính tả
cho học sinh.
Dạy học theo phương pháp đổi mới kết hợp với rèn chính tả trong quá trình
hướng dẫn học sinh hoạt động theo nhóm.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Áp dụng đối với học sinh 6a1, 6a2, Trường THCS Lê Đình Chinh nhằm giúp
các em hồn thiện hơn về chữ viết đặc biệt là hạn chế về lỗi chính tả. Để thực hiện
được ý định “khắc phục lỗi chính tả cho học sinh THCS” của mình tơi đã vạch ra

một số biện pháp cụ thể ngay từ đầu năm học khi bắt đầu nhận lớp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài đề ra, tơi đã xây dựng nhóm
phương pháp như sau:
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu tài liệu, tư liệu có
liên quan đến đề tài.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp luyện tập thực hành:
Đây là phương pháp chủ đạo trong quá trình dạy và học mơn Ngữ văn. Chỉ có
thơng qua con đường luyện tập thực hành thì mới hình thành được năng lực viết
đúng chính tả một cách có hiệu quả.
- Phương pháp giao tiếp:
Phương pháp này giúp học sinh khắc sâu những quy tắc chính tả một cách có
ý thức. Muốn sử dụng phương pháp này cần có hệ thống câu hỏi phù hợp với từng
đối tượng học sinh.
- Phương pháp phân tích ngơn ngữ :
Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên phải chọn những từ ngữ dễ lẫn,
tùy theo từng địa phương, tùy theo tình hình lớp. Cách phân tích phải dễ hiểu,
khơng sử dụng thuật ngữ khó hiểu đối với học sinh.


- Phương pháp quan sát :
Đây là phương pháp mà đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị một số đồ
dùng học tập và một số câu hỏi nhằm giúp học sinh tiếp thu bài một cách hiệu quả.
- Phương pháp điều tra, thống kê kết quả:
Phương pháp này nhằm kiểm tra chất lượng học tập của học sinh qua từng
giai đoạn.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Nghe, nói, đọc, viết là bốn kỹ năng rất quan trọng đối với bộ môn Ngữ văn.

Rèn nét chữ cho HS không chỉ là công việc ngày một ngày hai, cũng không phải
một thầy cô giáo dạy môn Ngữ văn rèn luyện là có thể thành cơng đối với các em.
Mà đó là một quá trình nỗ lực tự bản thân học sinh cố gắng rèn luyện, có người
hướng dẫn là các giáo viên dạy môn Ngữ văn, sự giám sát nhắc nhở của các thầy cô
giáo bộ môn cùng phối hợp với phụ huynh của học sinh mới tạo nên sự thành cơng
ấy. Tục ngữ xưa đã nói: “Nét chữ nết người”, công việc rèn nét chữ cho các em
không phải kết quả thu được là vở sạch chữ đẹp mà cịn rèn luyện đức tính kiên trì,
nhẫn nại, khơng bỏ cuộc giữa chừng cho các em. Đó là đức tính mà mỗi con người
muốn thành cơng khơng thể khơng có. Hơn thế nữa, một học sinh khi ra đời, làm bất
cứ một cơng việc gì cũng cần đến cơng việc viết lách. Trong cuộc sống hiện đại
ngày nay, khi công nghệ thơng tin phát triển khơng ngừng các em có thể nói rằng
chữ xấu thì có thể đánh máy, song không thể viết đúng nếu như các em không hiểu
luật, và các quy tắc chính tả. Bởi vậy, tơi mạnh dạn đi sâu vào vấn đề có thể xem là
vấn nạn khơng chỉ ở học đường mà của tồn xã hội khi các biển quảng cáo, các bản
tin, các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng sai nhiều lỗi chính tả một cách
ngớ ngẩn.
2. Thực trạng
Hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh là
mối quan tâm có tầm quan trọng hàng đầu bao trùm và chi phối mọi hoạt động khác.
Trong thực tế, khi giảng dạy tơi đã phát hiện có những học sinh mắc sai lỗi chính tả
rất nhiều, có những học sinh viết sai hơn 10 lỗi ở một bài kiểm tra. Khi chấm bài
Tập làm văn, tôi không hiểu các em muốn diễn đạt điều gì vì bài viết mắc quá nhiều
lỗi chính tả. Điều này ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em ở môn Ngữ văn
cũng như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở
nên rụt rè nhút nhát.
Do đó để đạt được mục tiêu chương trình đề ra, người giáo viên phải nắm
chắc mục tiêu, nội dung để khai thác. Điều quan trọng là giáo viên phải nghiên cứu
đầu tư xây dựng phương pháp dạy và học, phân nhóm đối tượng học sinh nhằm giúp
học sinh tích cực hoạt động học tập. Xuất phát từ vị trí tầm quan trọng của mơn Ngữ
văn, xuất phát từ thực trạng dạy và học trong chương trình Ngữ văn 6, qua nghiên



cứu khả năng ứng dụng cụ thể, thiết thực của vấn đề vì lí do đó tơi đã cố gắng thống
kê, phân loại lỗi, tìm hiểu nguyên nhân vì sao các em mắc lỗi đến như vậy tôi đã
mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả cho
học sinh lớp 6”. Với mong muốn nâng cao hiệu quả trong công tác giảng dạy, đồng
thời giúp các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong học tập cũng như trong giao tiếp.
. Thuận lợi - khó khăn
Thuận lợi:
- Đa số các em đã được nắm được một số qui tắc viết chính tả ở tiểu học.

1.
1.

- Sĩ số lớp vừa, không quá đông thuận lợi cho việc theo dõi quá trình rèn
luyện của các em.
- Nhà trường quan tâm sâu sắc trong việc chỉ đạo tạo điều kiện về chuyên
môn, cũng như cơ sở vật chất.
- Nhà trường tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ giáo viên trong quá trình
nghiên cứu.
- Phụ huynh quan tâm nhiều đến việc học tập và rèn luyện của học sinh.
- Là một giáo viên, bản thân tôi ln tìm tịi, học hỏi, năng động trong cơng
tác, nhiệt tình trong cơng việc, đồn kết giúp đỡ nhau hồn thành tốt nhiệm vụ.
2.1.2. Khó khăn:
- Đa số các em chưa có ý thức tự giác về việc học. Việc học tập của các em
cần phải có người nhắc nhở.
- Một số em chưa nắm được một số qui tắc khi viết chính tả.
- Một số phụ huynh cịn coi nhẹ việc học tập của con em.
- Thời gian học tập của các em còn hạn chế. Mặc khác, một bộ phận khơng
nhỏ học sinh cịn ham chơi lười học, khơng chịu suy nghĩ, tư duy trong khi nói và

viết …
- 100% học sinh là con em địa phương gốc Quảng Nam nên ảnh hưởng rất
nhiều trong ngơn ngữ nói và viết.
- Đây là năm đầu tiên nhà trường thí điểm thực hiện mơ hình trường học mới
VNEN nên việc tổ chức và giảng dạy theo chương trình đổi mới cịn gặp rất nhiều
khó khăn.
. Thành cơng - hạn chế
1.
Thành cơng:
Trong q trình giảng dạy, tơi đã áp dụng các biện pháp mà đã nêu trong đề
tài và nhận thấy học sinh đã có những tiến bộ khá rõ rệt. Bản thân các em cũng ý
thức hơn khi viết bài nên bài viết ít mắc lỗi chính tả. Những em đầu năm thường sai
2.


nhiều lỗi thì nay chỉ cịn 3, 4 lỗi; những em sai 5, 6 lỗi thì nay chỉ cịn 1, 2 lỗi... Tuy
rằng đây mới chỉ là kết quả bước đầu và việc “giúp học sinh khắc phục lỗi chính tả”
là một q trình lâu dài, song tơi vẫn cảm thấy rất vui vì cơng việc mình làm đã
bước đầu mang lại hiệu quả khả quan.
2.2.2. Hạn chế:
Do tỉ lệ học sinh đều là con em địa phương có gốc Quảng Nam nên việc sử
dụng ngôn ngữ địa phương dường như chiếm 99%. Vì vậy mà việc phát âm như thế
nào thì viết như thế ấy là điều khơng thể tránh khỏi. Nên tôi nghĩ rằng để khắc phục
được lỗi chính tả cho học sinh khơng chỉ là ngày một, ngày hai mà địi hỏi một q
trình tương đối dài.
3. . Mặt mạnh - mặt yếu
1.
Mặt mạnh:
Hằng ngày, giáo viên được gần gũi và tiếp xúc trực tiếp với học sinh nên tìm
hiểu và nắm bắt được những khó khăn và sai sót của các em khi viết chính tả rất

thuận lợi.
Việc tham dự các buổi hội thảo chuyên đề, hội giảng của trường, của Phịng
giáo dục đã góp phần cho giáo viên được học hỏi, phấn đấu tìm tịi nâng cao kiến
thức, kĩ năng thực hành sư phạm. Từ đó vận dụng sáng tạo và linh hoạt trong
phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng học tập của HS.
2.3.2. Mặt yếu:
Các em chưa có động cơ, thái độ đúng đắn trong việc học và rèn luyện viết
chính tả, khi viết các em cịn lơ là, khơng tập trung vào bài viết, lâu ngày thành thói
quen cẩu thả "viết quen tay". Vì có nhiều em khi hỏi về quy tắc viết hoa thì các em
trả lời tương đối đầy đủ nhưng vẫn mắc rất nhiều lỗi về viết hoa.
Phụ huynh chưa thực sự quan tâm do mãi làm kinh tế nên ít quan tâm đến con
em mình.
4. . Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Như chúng ta đã biết tình trạng người Việt chúng ta, đặc biệt là học sinh
trong nhà trường trong những năm gần đây, việc viết sai lỗi chính tả là rất nhiều cụ
thể chúng ta có thể thấy trên sách, báo, cũng như trong các bài kiểm tra thi cử của
học sinh, phần lớn người viết thường mắc vào những lỗi như lẫn lộn giữa các phụ
âm đầu: phụ âm ch và tr, x và s, d và gi, g và gh, ng và ngh; các vần : au và ao, iu và
iêu, ưu và ươu; các phụ âm cuối: t và c, ng và n, đặc biệt là lẫn lộn giữa các dấu
thanh trong đó hai dấu mà học sinh mắc nhiều nhất là dấu hỏi và dấu ngã. Ngồi ra,
học sinh cịn mắc vào một lỗi nữa là viết hoa tùy tiện. Đó là một thực trạng đáng
báo động và cần phải được xã hội và nhà trường quan tâm một cách thích đáng.
Những lỗi chính tả mà học sinh mắc phải như nêu ở trên cũng có những
nguyên nhân của nó. Tơi có thể liệt kê ra đây một số những nguyên nhân cơ bản
sau: học sinh không nắm được các quy tắc chính tả, do cách phát âm của người địa
phương mà đa số là tiếng Quảng Nam dẫn đến một bộ phận học sinh phát âm như


thế nào viết như thế đó, học sinh ít đọc, ít quan tâm tới sách báo, nhưng chủ yếu vẫn
là học sinh thiếu ý thức rèn luyện trong khi viết. Ngồi những ngun nhân trên tơi

nhận thấy một ngun nhân nữa không kém phần quan trọng dẫn đến việc sai chính
tả của học sinh là do một bộ phận giáo viên cịn thiếu quan tâm đến các lỗi chính tả
của học sinh. Với tình hình như vậy, bản thân chúng ta là những giáo viên giảng dạy
môn Ngữ văn phải có trách nhiệm trước việc học sinh viết sai lỗi chính tả, vì vậy
cần phải đưa ra những biện pháp, phương pháp để khắc phục tình trạng trên. Có như
thế thì việc viết sai chính tả mới khắc phục, mới giữ gìn được sự trong sáng của
tiếng Việt.
5. . Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp quan trọng mà cịn là cơng cụ tư
duy của một dân tộc nói chung và mỗi học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường nói
riêng. Ngơn ngữ đồng thời là một trong những yếu tố cấu thành quan trọng nhất của
một nên văn hóa dân tộc góp phần tạo nên và thể hiện ra bản sắc của nền văn hóa
ấy.
Hiện nay, vấn đề làm sao viết cho đúng tiếng Việt đang là vấn đề cần bàn luận
trong nhà trường hiện nay. Không chỉ dừng lại ở học sinh cấp tiểu học, trung học cơ
sở, trung học phổ thơng mà có thể nói là hầu như phần đa người Việt gần như phải
chấp nhận “chung sống” vời tiếng Việt viết sai. Trong thực tế khi lỡ viết sai một câu
tiếng Anh, tiếng Pháp, nhiều người cảm thấy bứt rứt, mang nặng mặc cảm đốt nát.
Trong khi viết sai tiếng Việt, thậm chí sai một cách trầm trọng thì họ lại xem đó là
chuyện bình thường và cịn ngụy biện cho những cái sai của mình là phong cách hay
là sự sáng tạo. Điều đó dẫn đến thói quen coi thường văn bản, xem nội dung đại
khái quan trọng hơn ngơn ngữ. Việc viết sai tiếng Việt cịn do ảnh hưởng của những
thói quen, tập quán của từng vùng miền. Vì thế mà ngay trên chính q hương của
người Việt thì việc viết sai lỗi chính tả là điều không thể tránh khỏi.
Từ thực trạng trên, đồng thời cũng xuất phát từ tình hình thực tế của Trường
Trung học cơ sở Lê Đình Chinh nằm ngay ở trung tâm Xã Quảng Điền, đa số học
sinh là con em nông thôn nên việc sử dụng tiếng phổ thông trong quá trình học tập
cịn hạn chế, bởi từ nhỏ các em vốn sử dụng tiếng địa phương có gốc Quảng Nam
thành thục nên khi nói thế nào các em viết thế ấy là điều khơng thể tránh khỏi.
Chính vì thế bản thân tôi đã xác định việc giáo dục ý thức viết đúng chính tả là một

trong những nhiệm vụ quan trọng được tiến hành có kế hoạch, chiến lược cụ thể để
phát triển toàn diện học sinh về mọi mặt. Trước thềm nông thôn mới và đồng thời để
xây dựng Trường THCS Lê Đình Chinh đạt chuẩn quốc gia thì việc giáo dục học
sinh khắc phục lỗi chính tả cũng là việc làm hết sức cần thiết, có thể lồng ghép vào
các tiết bộ môn sẽ tạo điều kiện để học sinh sửa chữa và rèn luyện về chữ viết tốt
hơn.
Đồng hành với những suy nghĩ ấy rõ ràng chúng ta sẽ nhận thấy giải quyết
vấn đề này như thế nào để mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất là điều mà những


người làm công tác giáo dục phải quan tâm. Tôi cho rằng sự thành công của công
tác này không thể thiếu sự kết hợp chặt chẽ từ ba lực lượng giáo dục Gia đình - Nhà
trường - Xã hội.
3. Giải pháp, biện pháp:
1.
. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng của trường tôi hiện nay, tôi
nhận thấy rằng nếu chỉ dùng sách giáo khoa, thì chưa đáp ứng đầy đủ với các yêu
cầu nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng sai lỗi chính tả ở học sinh THCS mà
đặc biệt hơn là học sinh lớp 6. Vì vậy, để khắc phục lỗi chính tả mà học sinh mắc
phải, tôi đã nghiên cứu và vận dụng một vài biện pháp để giúp các em nắm được
các quy tắc chính tả, các mẹo luật chính tả phù hợp với trình độ tiếp thu của các em,
hình thành kĩ năng, kĩ xảo chính tả, bỏ thói quen phát âm sai dẫn đến việc viết sai.
Mặc dù đề tài này khơng có gì mới mẻ nhưng tơi mong rằng nó sẽ góp phần làm
thay đổi kĩ năng của các em khi viết cũng như khi phát âm.
. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Như vậy, việc khắc phục, uốn nắn chữ viết cho học sinh thật là khó khăn mà
cịn khó khăn hơn đối với cấp THCS vì trong chương trình khơng có những tiết
luyện viết, lại mỗi mơn một thầy dạy cho nên khơng có thời gian để sửa và luyện
chữ cho học sinh và không quan sát thường xuyên liên tục chữ viết cho các em. Cho

nên việc luyện chữ viết cho học sinh thật là khó khăn cho những thầy cơ giáo chúng
ta. Vì thế người giáo viên cần phải nhiệt tình, tận tâm, tận lực sửa chữa chữ viết cho
học sinh trong từng tiết học và kiểm tra đánh giá thường xuyên. Để thực hiện được
ý định “khắc phục lỗi chính tả cho học sinh THCS” của mình tơi đã vạch ra một số
biện pháp nhằm giúp các em thay đổi thói quen viết sai lỗi, đồng thời giúp các em
hình thành kĩ năng rèn chữ khi viết cụ thể ngay từ đầu năm học khi bắt đầu nhận
lớp. Cụ thể theo từng bước như sau:
2.

* Thống kê lỗi:
Qua kết quả thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các loại
lỗi sau:
- Về thanh điệu:
Tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì học sinh
khơng phân biệt 2 thanh hỏi, ngã. Tuy chỉ có 2 thanh nhưng số lượng tiếng mang 2
thanh này khơng ít và rất phổ biến - kể cả những người có trình độ văn hố cao.
Ví dụ:

Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành…

- Về âm đầu:
Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:


+ c/k: Céo cờ…
+ g/gh: Con gẹ , gê sợ…
+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc…
+ ch/tr: Cây che, chiến chanh…
+ s/x: Cây xả , xa mạc…
+ v/d/gi: Giao động, giải lụa , giòng giống , dui dẻ…

Trong các lỗi này, lỗi về ch/tr, s/x, v/d/gi là phổ biến hơn cả
- Về âm chính:
Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây:
+ ai/ay/ây: Bàn tai, đi cầy, dậy học…
+ ao/au/âu: Hôm sao, mầu đỏ…
+ iu/êu/iêu: chìu chuộng, cây niu…
+ oi/ơi/ơi: nơi gương, xoi nếp…
+ ăm/âm: con tầm, sưu tằm, bụi bậm…
+ im/iêm/êm/em: tim thuốc, lúa chim, cái kềm…
+ ăp/âp: gập gỡ, trùng lấp…
+ ip/iêp/êp/ep: số kíp, liên típ, thệp cưới…
+ ui/i: chín mùi, đầu đui, tủi tác…
+ um/uôm: nhụm áo, ao chum…
+ ưi /ươi: trái bửi…
+ ưu/ ươu: ốc bưu, con khứu
- Về âm cuối:
Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ an/ang: cây bàn, bàng bạc…
+ at/ac: lang bạc, lừa gạc, rẻ mạc…
+ ăn/ăng: lẳn lặn, căn tin…
+ ăt/ăc: giặc giũ, co thắc, mặt quần áo…
+ ân/âng: hụt hẫn, nhà tần…
+ ât/âc: nổi bậc, nhất lên…


+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển…
+ êt/êch: trắng bệt…
+ iêt/iêc: mải miếc, tiêu diệc…
+ ut/uc: chim cúc, bão lục…
+ uôn/uông: khuôn nhạc, buồn tắm…

+ uôt/uôc: rét buốc, chải chuốc…
+ ươn/ương: lươn bổng, sung sướn
* Kiểm tra, phân loại:
Vấn đề chữ viết xấu, sai lỗi chính tả không chỉ là mối lo chung của mọi người
làm nghề dạy học. Việc dùng vở luyện viết cho học sinh lớp 6 là rất cần thiết. Tôi đã
dựa vào vở luyện viết này mà uốn nắn, sửa chữa và luyện viết cho các em. Đồng
thời tìm ra những biện pháp phù hợp đối với học sinh lớp tôi. Năm học 2015-2016
tôi được phân công dạy lớp 6A1, 6A2 với tổng số học sinh là 70 em. Vào đầu năm
học, tôi đã tiến hành phân loại chữ viết cho học sinh và chia làm ba nhóm chính:
Nhóm 1: Gồm những học sinh viết chữ đẹp, rõ ràng, khơng sai lỗi chính tả
hoặc có một hai lỗi khơng đáng kể (có 20 em chiếm 28,5 %).
Nhóm 2: Những em viết xấu, thiếu nét hoặc sai lỗi chính tả (có 35 em chiếm
50%). Hầu hết trong nhóm này các em đều mắc phải một số lỗi cơ bản như chữ viết
cẩu thả, tuỳ tiện, sai quy tắc chính tả và khơng hiểu nghĩa dẫn đến lẫn lộn phụ âm.
Nhóm 3: Cịn lại những em viết chữ quá xấu, cẩu thả, sai và lẫn lộn các phụ
âm, khơng rõ chữ dẫn đến tình trạng khơng đọc được hoặc đọc sai nghĩa của từ (có
15 em chiếm 21,5%).
Qua thống kê lỗi và phân loại học sinh để có biện pháp phù hợp với từng đối
tượng. Đồng thời nhận xét chung về chữ viết của từng em và ghi vào sổ ghi chép
của giáo viên. Qua đó, giáo viên có cách uốn nắn một cách cụ thể và phù hợp với
từng đối tượng. Dựa vào vở luyện viết, tôi hướng dẫn học sinh cách luyện viết theo
từng tuần và yêu cầu học sinh mua thêm một vở ô-li để luyện văn và luyện viết
nhằm giúp các em vừa ôn luyện lại kiến thức đã học, vừa luyện chữ viết. Các vở
này tôi kiểm tra một tháng một lần gồm hai bài (trong vở ô-li tôi đã ra đề về nhà cho
các em làm). Đối với học sinh ở nhóm 1 khơng chỉ dừng lại ở mức độ rèn chữ viết
mà còn chú ý đến nội dung, chất lượng của bài viết. Đối với số học sinh ở nhóm 2
tơi cho thêm một tháng một bài luyện viết và tập trung các em học một buổi trong
một tháng để uốn nắn, sửa chữa chữ viết tỉ mỉ hơn đối với nhóm 1. Riêng nhóm 3
mỗi tuần tơi cho thêm một bài viết chính tả về nhà để học sinh rèn luyện thêm để
sửa chữa tỉ mĩ hơn với nhóm 1 và 2. Đồng thời tơi đề nghị phụ huynh học sinh cần

theo dõi hàng ngày về việc học tập của các em ở nhà để có các biện pháp kịp thời
uốn nắn các em.


* Các biện pháp thực hiện cụ thể:
- Giới thiệu kiểu chữ:
Trong tuần thứ nhất của tháng đầu tiên, tôi giảng giải cho các em nắm được
kiểu chữ, dáng chữ cách viết thường cách viết hoa và viết in. Mặc dù các em đã
được học nhiều nhưng khi nghe vấn đề này cứ như là lạ lắm. Bởi vì các em quen
tính cẩu thả và ít để tâm vào việc luyện chữ viết sao cho đẹp. Đầu tiên tôi giới thiệu
cho các em về cách viết hoa, viết thường theo hai kiểu là kiểu chữ đứng và kiểu chữ
nghiêng. Sau đó hướng dẫn học sinh chọn cho mình một kiểu chữ sao cho thuận tay
và hợp ý thích của mình. Khi đã chọn kiểu chữ nào thì viết theo kiểu chữ đó khơng
được tuỳ tiện thay đổi kiểu chữ, vì như vậy sẽ làm xấu chữ viết.
- Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tả:
Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng
loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu hiệu.
Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu
k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngồi ra, giáo viên có thể
cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:
Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật
đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn,
chõ, chĩnh, chng, chiêng, ch,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu
chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vơi…
Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu
bằng s: Sả, si, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy,
sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sị, sóc, sói,
sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô…
Để phân biệt dấu thanh hỏi/ngã: Các từ gộp âm chỉ mang thanh hỏi không
mang thanh ngã:

- Trong + ấy = trỏng.
- Trên + ấy = trển
- Cô + ấy = cổ
- Chị + ấy = chỉ
- Anh + ấy = ảnh
- Ông + ấy = ổng
- Hôm + ấy = hổm
- Bên + ấy = bển


Luật bổng - trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố
ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2
nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc 2 câu thơ:
“Em Huyền mang nặng, ngã đau
Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào”
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền,
nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang
thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).
Ví dụ: Bổng


Ngang + hỏi: Nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ…



Sắc + hỏi: Nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ…



Hỏi + hỏi: Lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ…


Trầm:


Huyền + ngã: Sẵn sàng, lững lờ, vồn vã



Nặng + ngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…



Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…

+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: Gập ghềnh,
khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh chống, chệnh choạng,
lênh khênh, bấp bênh, cơng kênh…
Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng
đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác,
ăng ẳng, ằng ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng,
chập cheng, leng keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng,
đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình,
huỳnh huỵch…
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu,
khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân.
- Cách rèn luyện chữ viết cho học sinh:
+ Đối với học sinh:
Trong buổi học đầu tiên, tôi lấy một đoạn văn mẫu và cho học sinh chép lại
đoạn văn đó trong thời gian 15 phút. Sau đó cho các em đổi chéo bài cho nhau để

cùng phát hiện lỗi của bạn, liệt kê những lỗi mà bạn mắc phải. Trong buổi học này
học sinh nhóm 2 và đặc biệt là nhóm 3 học rất vất vả nhọc nhằn bởi lâu nay các em


viết theo kiểu tuỳ hứng và không chú tâm vào việc luyện chữ. Đồng thời trong buổi
học đầu tiên này tôi kể cho các em nghe một số mẩu chuyện về tác hại của chữ viết
xấu, sai lỗi chính tả dẫn đến người đọc hiểu sai ý hoặc chất lượng bài kiểm tra
kém… để các em thấy rõ tầm quan trọng của chữ viết. Từ đó các em có ý thức uốn
nắn, sửa chữa và rèn luyện chữ viết của chính mình. Qua đó cho học sinh thấy “nét
chữ là nết người” để các em phải cẩn thận tránh cẩu thả trong khi viết chữ. Vấn đề
rèn kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh trung học cơ sở chủ yếu là luyện ở nhà
dưới sự hướng dẫn của thầy. Vì thế ngay trong kỳ họp phụ huynh đầu tiên của lớp,
tơi trao đổi về tình hình chữ viết của học sinh cùng với ý định luyện chữ của tơi và
đề xuất với họ một ngày dành chút ít thời gian quan tâm nhắc nhở các cháu học tập
và luyện chữ, và việc luyện chữ phải luyện vào một thời gian nhất định có thời gian
biểu rõ ràng cho các cháu. Việc làm này được tất cả các phụ huynh đồng tình ủng
hộ. Trong buổi học thứ nhất, sau khi hướng dẫn và luyện viết một phần ở lớp, tôi
giao bài cho các em viết vào vở luyện viết và vở luyện văn ở nhà để hôm sau thu
chấm.
Sang tuần thứ hai tôi đọc chậm một đoạn văn cho học sinh chép vào vở. Sau
đó cho các em đổi bài cho nhau để chấm và kiểm tra lỗi chính tả của bạn. Riêng với
các bạn nhóm 1 tơi ra một đề bài yêu cầu các em viết đoạn mở bài của bài văn và
cách làm cũng như với nhóm 2 và nhóm 3 nhưng ở mức độ cao hơn là chấm cả nội
dung đoạn văn. Cứ một tuần, các em chép một bài trong vở luyện viết mà tôi đề ra
và cứ hai tuần cho các em làm một bài văn từ dễ đến khó. Đầu tiên là cho viết một
đoạn văn và tiếp đến là một bài văn. Sau đó, tơi thu vở chấm một tháng hai lần.
Riêng nhóm 3 tơi chấm hằng tuần. Bằng sự nhắc nhở và giám sát của gia đình cùng
với sự kiểm tra chặt chẽ của giáo viên. Sau một tháng đầu khi chấm bài và xem vở
ghi bài của các em tôi thấy các em đã có tiến bộ về chữ viết – so với bài kiểm tra
chất lượng đầu năm. Cụ thể là: Các em đã có ý thức rèn luyện chữ viết, giảm được

sự cẩu thả tuỳ tiện trong khi viết. Chữ viết đẹp hơn, ít lỗi hơn. Trong đó, số học sinh
ở nhóm hai tơi đã chọn được năm em vào nhóm một. Số cịn lại tuy viết đã có phần
khá hơn song lỗi vẫn cịn nhiều. Riêng nhóm 3 tiến triển rất chậm.
Các tuần tiếp theo tôi tiếp tục yêu cầu học sinh viết thành nếp và cứ thế theo
thói quen và quy định của tơi các em tiến hành viết theo tuần. Đối với học sinh
thuộc đối tượng ở nhóm hai, tơi vẫn u cầu các em học thêm một tháng một buổi,
nhóm 3 mỗi tuần thêm một buổi để có điều kiện uốn nắn và sửa lỗi cho các em.
Ngoài ra, đối với tất cả các học sinh trong lớp, thỉnh thoảng tôi cho thêm một bài để
củng cố kiến thức và ôn luyện về chữ viết. Muốn chữ viết của các em ngày càng
tiến bộ thì điều chủ yếu là người giáo viên phải thu bài và chấm chữa kịp thời, khen,
chê đúng lúc. Có như vậy mới khuyến khích được hứng thú luyện viết cho các em.
Việc chấm chữa bài cho các em là một cơng việc rất vất vả vì địi hỏi phải tốn nhiều
thời gian và công sức. Nhưng tôi nghĩ muốn khắc phục, uốn nắn tình trạng chữ viết
xấu, sai lỗi chính tả cho các em thì người giáo viên cần phân bố thời gian hợp lý và


tận tuỵ. Chính vì vậy mà tơi đã cố gắng thực hiện việc chấm chữa bài cho các em
trong vở và yêu cầu cho các em luyện viết và làm bài, sửa lỗi nghiêm túc, dựa vào
lời phê của thầy cơ. Vì thế, trong suốt học kỳ I, chữ viết của các em đã tiến bộ rõ
rệt. Số học sinh nhóm một đã tăng lên. Điều đó làm tơi rất mừng bởi những cơng
sức mà cơ và trị đã bỏ công luyện tập.
Bước sang học kỳ II, tôi gắn luôn chữ viết vào đánh giá bài làm ở lớp. Trong
các bài làm của học sinh nhất là bài làm Tập làm văn, tôi đề ra hai điều: “phải” và
“cấm” như sau:
• Phải:
(1) Viết cẩn thận, rõ ràng từng nét.
(2) Phải viết hoa đầu đoạn văn, đầu câu và những danh từ riêng.
(3) Phải chú ý phân biệt nghĩa của các từ để viết cho đúng.
• Cấm:
(1) Viết hoa tuỳ tiện.

(2) Viết thiếu nét nguệch ngoạc.
Các bài làm của các em, nếu em nào viết xấu và sai lỗi nhiều, lỗi về chữ viết
tôi đều không chấm và phê cụ thể yêu cầu viết lại hai lần mới chấm. Còn những bài
lỗi mà tôi gạch chân và bắt viết lại mỗi lỗi năm dịng cho đúng. Tơi kiểm tra chặt
chẽ việc sửa lỗi. Nếu em nào khơng chữa sẽ có hình thức phạt phù hợp. Chính vì
vậy mà các bài làm sau của các em, tơi thấy các em có ý thức tu luyện chữ, thể hiện
ở chỗ chữ ít lỗi và rõ ràng hơn. Vì phần lớn các em đều rất ngại viết đi viết lại nhiều
lần. Cùng với việc chấm chữa bài và các hình thức phạt phù hợp đối với những học
sinh trong những tiết bài trên lớp hay những bài các em làm trên bảng, khi chữa bài
bên cạnh chữa về mặt nội dung yêu cầu thì không thể thiếu được việc chữa lỗi về
chữ viết cho các em bằng các câu hỏi và cho các em nhận xét. Chữ viết của bạn đã
đẹp và cẩn thận chưa? Bài làm có mắc lỗi nào khơng? Muốn sửa những lỗi đó, ta
phải sửa bằng cách nào? Từ đó học sinh nhận thấy lỗi của các bạn và tự sửa lỗi cho
chính mình.
+ Đối với giáo viên:
Khi dạy học cho các em, người giáo viên khi đọc (nói) phải phù hợp nghĩa là:
Phát âm chuẩn tiếng phổ thơng vì nếu không phát âm chuẩn tiếng phổ thông sẽ dẫn
đến viết sai. Trường hợp này đã xảy ra. Vì thế phải dạy cho học sinh nói và phát âm
chuẩn mới được viết. Cho nên trong các giờ dạy ở lớp, tôi luôn chú ý vào việc đọc
và phát âm của các em, nếu em nào đọc sai tôi sẽ uốn nắn ln.
Cùng với việc làm đó, tơi tìm hiểu về những lỗi mà do tiếng địa phương các
em hay mắc phải để chú ý sửa cho các em ví dụ ở phần in/iên; mơng/ mong; chơng
đợi/ trơng đợi; sâu đó/ sau đó; lơng lanh/ long lanh…và chú trọng sửa những lỗi này
để khi các em viết bài các em chú ý và có thể sửa được những lỗi mà mình mắc
phải. Để rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận trong khi viết chữ người giáo viên khi
viết lên bảng hay trong lời phê phải làm gương để cho học sinh học tập. Trong các


bài luyện tập tôi hướng dẫn học sinh kiểm tra chéo bài của nhau, ghi vào phiếu kiểm
tra những lỗi của bạn và nhận xét bài viết của bạn, mục đích là các em nhận biết

được lỗi của bạn cũng chính là lỗi của mình, để tự sửa chữa. Cuối cùng tôi thu bài
viết và cả phiếu về nhà kiểm tra, chấm lại. Cứ mỗi lỗi sai lại yêu cầu viết lại như lần
trước. Khi phát hiện ra những lỗi điển hình, tơi u cầu sửa dần bằng cách: Trong
một thời gian nhất định phải sửa dần từng lỗi một. Đối với nhóm 2 và đặc biệt là
nhóm 3 yêu cầu sửa chữ thiếu nét mới yêu cầu sang lỗi khác… Việc này kết hợp
chữa lỗi những tiết ngoài giờ, tiết tự chọn và cả trong giờ học chính khố trên lớp.
Cùng với những biện pháp trên, khi luyện viết chữ cho các em vừa kết hợp luyện
chữ, vừa tìm những nguyên nhân mắc lỗi của các em để có cách sửa chữa cho phù
hợp với từng đối tượng, từng lỗi và học sinh.
3. . Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Rèn cho học sinh viết đúng chính tả là một việc làm khó khăn và lâu dài. Nó
quyết định chất lượng học tập và tỉ lệ học sinh lên lớp cao hay thấp; nó khơng
những giúp các em học tốt mà cịn góp phần “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”.
Mặt khác, học sinh viết đúng chính tả thì chắc chắn chữ viết cũng sẽ đẹp hơn; khi
chấm bài, giáo viên sẽ có tâm lí thoải mái phấn chấn hơn. Nhưng nếu chỉ dùng các
phương pháp, biện pháp, hình thức dạy học thơng thường; nếu chỉ cho học sinh làm
các bài tập có sẵn trong SGK thì khơng thể khắc phục được lỗi chính tả ; đặc biệt là
lỗi chính tả do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương. Tôi tin rằng mỗi thầy cô
giáo sẽ có những cách làm khác nhau, sẽ có những kinh nghiệm rèn chính tả hiệu
quả. Nhưng theo tơi, muốn rèn cho học sinh kĩ năng viết đúng chính tả thì cần phải:
Giáo viên phải nắm được các quy tắc chính tả, phát âm chuẩn tiếng phổ
thơng, tìm hiểu rõ ngun nhân sai lỗi chính tả của học sinh. Vì thế đòi hỏi giáo
viên phải nghiên cứu và hiểu đặc điểm tâm sinh lý của học sinh để từ đó có những
biện pháp thích hợp nhất giúp các em hạn chế tối đa lỗi chính tả.
Tích cực tìm tịi, sáng tạo áp dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy để
áp dụng nội dung chuyên đề một cách phù hợp với khả năng của học sinh và tình
hình thực tế ở trường, lớp.
Tận tình dạy bảo, ân cần hướng dẫn và giúp đỡ những học sinh yếu; thường
xuyên kiểm tra vở , nhắc nhở các em cách trình bày, cách sửa lỗi trong vở ; động
viên, tuyên dương và khen thưởng những học sinh có nhiều tiến bộ.

Ln phối kết hợp chặt chẽ cùng phụ huynh học sinh gia đình và nhà trường
về việc rèn chữ cho học sinh.
Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, bài giảng điện tử, sưu tầm thêm tài
liệu để sử dụng trên tiết học và các hoạt động.
Lập kế hoạch tham mưu với ban giám hiệu tổ chun mơn dự giờ đóng góp
xây dựng ý kiến.
4. . Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp


Để đạt được hiệu quả cao trong việc khắc phục lỗi chính tả cho học sinh đặc
biệt là học sinh lớp 6, tơi ln kết hợp hài hịa giữa các biện pháp và giải pháp trên.
Dựa trên kết quả khảo sát tình hình thực tế của lớp từ đó tơi đã kết hợp lồng ghép
việc sữa lỗi chính tả vào trong các tiết dạy. Khơng chỉ dừng lại ở đó mà tôi cũng
không ngừng kết hợp với phụ huynh và lồng ghép vào những hoạt động ngồi giờ
học. Chính điều đó mà kết quả đạt được trong q trình áp dụng các biện pháp trên
rất cao. Tôi thấy học sinh hứng thú hơn nhiều so với các tiết học trước, có ý thức về
lỗi chính tả hơn khi viết cũng như khi nói.
Bên cạnh đó, cơng tác này sẽ đạt được hiệu quả cao hơn khi có sự tham mưu
của Ban Giám hiệu nhà trường, sự phối hợp của các giáo viên trong tổ khối về ý
nghĩa của việc khắc phục lỗi chính tả cho học sinh.
5. . Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Cứ bằng các biện pháp như thế, khi thì cách này, khi thì cách khác, tơi liên
tục luyện chữ cho các em trong một học kì nên chữ viết của các em đã tiến bộ rất
nhiều. Cụ thể như sau: Cuối học kì I năm học 2015 - 2016, các em đã được các giáo
viên dạy hai lớp này khen ngợi chữ viết của học sinh tương đối đẹp, dễ đọc, rõ ràng
và ít lỗi chính tả, trình bày sạch, đẹp. Có được kết quả như vậy phải kể đến sự kiên
trì, quyết tâm luyện tập của học sinh dưới sự kiểm tra chặt chẽ, chỉ bảo ân cần, nhẹ
nhàng của giáo viên và sự giám sát kiên quyết của các bậc phụ huynh.
Học kì I kết thúc, với ý định viết sáng kiến này tôi đã tiến hành khảo sát chất
lượng về chữ viết của các em cụ thể như sau: Nhóm 1: có 10 em chữ viết đảm bảo.

Nhóm 2: có 22 em trong số những em viết vẫn cịn sai lỗi chính tả. Những chữ cịn
chưa đúng phụ âm, nguyên âm là 9 em, những em này chữ viết đã có tiến bộ hơn so
với đầu năm nhập học nhưng vẫn cịn sai lỗi chính tả do tiếng địa phương và việc
phân biệt nghĩa của các từ chưa chính xác. Chỉ trong một học kì luyện viết, tỷ lệ
28,5% đạt yêu cầu về chữ viết đến nay đã tăng lên 39,5%. Tỉ lệ học sinh chưa đạt
yêu cầu từ 71,5% xuống còn 53,3%, giảm 18,2%.
Thật là vui mừng khi chữ viết của các em đã tiến triển như vậy. Nếu cứ tiếp
tục luyện chữ viết cho các em, tôi tin rằng lên lớp 9 chữ viết của các em sẽ đạt được
như mong muốn. Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã đề ra và áp dụng với học
sinh của lớp tơi chưa có gì là mới mẻ nhưng nhờ sự kiên trì, nhiệt tình của cả cơ và
trị mà kết quả chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Với việc thực hiện những phương pháp trên, bước đầu đã có những chuyển
biến đáng kể trong việc viết chính tả của học sinh. Trong các bài kiểm tra và những
lần kiểm tra bài vở của học sinh tôi nhận thấy những bài viết sau ít mắc lỗi chính tả
hơn so với những bài viết trước. Đó là một kết quả đáng mừng cần phải phát huy.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận học sinh do thiếu ý thức trong việc học tập nên vẫn
cịn tình trạng viết sai chính tả. Nhưng dù sao, tôi hi vọng rằng với sáng kiến này có
thể góp một phần nào đó khắc phục tình trạng viết sai chính tả trong học sinh và góp


phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn tại đơn vị tôi đang công
tác, cũng như góp một phần nào đó cho sự nghiệp giáo dục của nước nhà.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trong sự nghiệp giáo dục, dù ai đã và đang công tác cũng chung nhau một
lòng mong mõi là làm sao, làm thế nào cho học sinh của mình viết đẹp và viết đúng
chính tả, góp phần làm rạng danh tiếng Việt, sử dụng đúng chính tả có tầm quan
trọng cho cả quốc gia và là một yêu cầu tất yếu của xã hội hiện tại.
Qua đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính

tả cho học sinh lớp 6” tơi đã tìm hiểu được các cơ sở lý luận, xác định được chất
lượng chính tả của học sinh Trường THCS Lê Đình Chinh, từ đó đề ra những biện
pháp cần thiết. Đây là nhiệm vụ của mỗi người giáo viên nói chung và của giáo viên
Trường THCS Lê Đình Chinh nói riêng. Nhiệm vụ này không chỉ tiến hành trong
một thời gian ngắn mà cho ta kết quả tốt ngay được, nó phải được tiến hành trong
một thời gian dài với sự đồng bộ của các khối lớp. Tuy nhiên nhiệm vụ này có hồn
thành triệt để hay khơng chúng tơi cũng cần có sự giúp đỡ của các cấp, các ngành có
liên quan.
Với những dòng viết trên đây là những kinh nghiệm nhỏ khơng phải chưa có
ai nói, chưa có sách viết. Song tôi muốn qua những kinh nghiệm nhỏ này một lần
nữa giúp giáo viên – những người đang trực tiếp giảng dạy hiểu rõ được vai trị
chính tả tiếng Việt trong việc giảng dạy môn Ngữ văn cũng như các môn học khác
nhằm giúp học sinh học tốt hơn. Góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy – học
môn Ngữ Văn. Khơng có kinh nghiệm nào là chung cho tất cả mọi người. Khơng có
con đường nào để đi đến thành công mà không lắm chông gai. Với những suy nghĩ
trong đề tài này cũng như việc tôi áp dụng đề tài này vào việc dạy học cụ thể và có
những kết quả đáng mừng, tơi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp để nhằm học hỏi và
nâng cao trình độ chun mơn của mình. Vì vậy tơi kính mong q vị vui lịng đóng
góp ý kiến để kinh nghiệm được hoàn thiện hơn.
2. Kiến nghị:
* Đối với giáo viên :
Để thực hiện được cơng việc này thì giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên
theo dõi, uốn nắn các em, hướng dẫn các em thường xuyên nhất là đối với học sinh
yếu.
Thay đổi linh hoạt các phương pháp giảng dạy, hình thức tổ chức để các em
cảm thấy thoải mái, tự tin khi học.
Giáo viên phải tận tình trong việc dạy bảo và kiên trì chờ đợi kết quả bởi vì
làm cơng tác giáo dục là cả một q trình lâu dài chứ không phải là một sớm một
chiều.



Hàng tháng giáo viên phải theo dõi, phân loại từng đối tượng học sinh để có
những biện pháp uốn nắn kịp thời những em không tiến bộ.
* Đối với nhà trường:
Hằng năm, duy trì hội thi viết chữ đẹp, đúng chính tả ở giáo viên và học
sinh.
Nhà trường cần tạo điều kiện có đầy đủ cơ sở vật chất để phục vụ cho việc
giảng dạy cũng như việc rèn luyện các em một cách chủ động.
* Đối với phụ huynh:
Luôn có sự quan tâm sâu sắc đến việc học của con em mình nhất là về chữ
viết. Bàn ghế phải đúng kích cỡ, chổ ngồi phải đủ ánh sáng thuận lợi cho việc học ở
nhà của các em.
Người viết sáng kiến
(Ký và ghi rõ họ tên)
Nguyễn Thị Thùy Dung

NHẬN XÉT CỦA BAN GIÁM KHẢO
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A, Đinh Thanh Duệ (1998), Tiếng Việt thực hành, Nhà xuất bản Giáo dục;
2. Chữa lỗi chính tả cho học sinh – Phan Ngọc, NXB Giáo dục 1982;
3. Trang wed Google.com.vn.



×