Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn quận đống đa, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.37 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
------------

NGUYỄN QUỐC VIỆT

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DựNG ĐảNG VÀ CHÍNH QUYềN NHÀ NƯớC

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
------------

NGUYỄN QUỐC VIỆT

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY



Chuyên ngành

: Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước

Mã số

: 8 31 02 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DựNG ĐảNG VÀ CHÍNH QUYềN NHÀ NƯớC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Hạnh

HÀ NỘI – 2019


Luận văn đã được sửa chữa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn cao học.

Hà Nội,ngày

tháng

năm 2019

Chủ tịch Hội đồng

PGS,TS. TRƯƠNG NGỌC NAM



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn “Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã
hội trên địa bàn quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội hiện nay” là cơng trình
nghiên cứu của riêng tơi với sự hướng dẫn của TS. Lê Văn Hạnh (Ban Nội chính
Trung ương). Các số liệu nêu trong Luận văn là trung thực; những kết luận của
Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình của tác giả nào khác;
các thơng tin trích dẫn trong luận văn được trích dẫn rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nhiệm đối với luận văn của mình.

Hà Nội , ngày tháng năm 2019
Tác giả

NGUYỄN QUỐC VIỆT


LỜI CẢM ƠN

Tác giả trân trọng cảm ơn các thầy cơ trong Khoa Xây dựng Đảng,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền; cán bộ lãnh đạo UBND, HĐND, công an
quận Đống Đa, bạn bè, đồng nghiệp, đặc biệt là TS. Lê Văn Hạnh- người trực
tiếp hướng dẫn khoa học đã giúp tơi hồn thành luận văn này. Trân trọng
cảm ơn gia đình đã tạo điều kiện, giúp đỡ cho tác giả hoàn thành luận văn.
Vấn đề nghiên cứu của Luận văn là vấn đề rộng và khó; trình độ của
tác giả cịn hạn chế. Do đó, luận văn chắc chắn khó tránh khỏi một số thiếu
sót. Rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của các nhà khoa học quý
thầy cô giáo và đồng nghiệp.

Hà Nội , ngày tháng năm 2019

Tác giả

NGUYỄN QUỐC VIỆT


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ................................................................... 10
1.1. Khái niệm, mục đích, nguyên tắc quản lý nhà nước về trật tự, an
toàn xã hội .......................................................................................... 10
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý của quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội .. 21
1.3. Nội dung, phương thức quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội............27
Chương 2: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
- THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN ................................................... 37
2.1. Khái quát về đặc điểm, tình hình địa bàn quận Đống Đa, thành phố
Hà Nội có liên quan đến quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội .. 37
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn
quận Đống Đa .................................................................................... 40
2.3. Nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế.......................................... 56
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG
QUẢN Lí NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TỒN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA
BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA THỜI GIAN TỚI ............................................... 63
3.1. Một số dự báo và phương hướng nhằm tăng cường Quản lý Nhà
nước về Trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn quận Đống Đa ................ 63
3.2. Giải pháp nhằm tăng cường Quản lý Nhà nước về Trật tự, an toàn
xã hội tại quận Đống Đa ..................................................................... 73
KẾT LUẬN ................................................................................................. 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 87
TÓM TẮT LUẬN VĂN ............................................................................. 91



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trật tự, an toàn xã hội là trạng thái xã hội ổn định, bền vững, được điều
chỉnh bởi hệ thống quy phạm pháp luật, đạo đức. Đó là trạng thái mong muốn
tất yếu của một xã hội có nhà nước. An ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã
hội là hai vấn đề quan trọng, là điều kiện cần cho sự ổn định và phát triển bền
vững về mọi mặt của đất nước, giữa chúng có liên hệ mật thiết với nhau, thậm
chí chuyển hóa lẫn nhau, từ vấn đề trật tự, an tồn xã hội có thể chuyển hóa
thành vấn đề an ninh quốc gia và ngược lại. Thực tế cho thấy các thế lực thù
địch, phản động ln ln tìm cách lợi dụng các vấn đề của trật tự, an tồn xã
hội để thổi phồng, kích động chuyển hóa thành các vấn đề an ninh quốc gia.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 8 khóa XI đã ban hành Nghị quyết
số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó
xác định trong bất kỳ tình huống nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết
tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo
vệ an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, mơi trường hịa
bình để xây dựng và phát triển đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Quán triệt tinh thần đó, Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XII của
Đảng đã đặt ra yêu cầu: quốc phòng và an ninh phải có đủ sức mạnh để “ngăn
ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa,
phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có
thể gây ra đột biến, để đất nước “khơng bị động, bất ngờ”; giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tác quốc tế

trong hợp tác với Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII


2

của Đảng nêu rõ: phải chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông
tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng
ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo
đảm an ninh, an tồn thơng tin, an ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc
biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững
môi trường hịa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.
Thực tế tại Quận Đống Đa hiện nay, công tác đảm bảo TTATXH luôn
được chú trọng. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quận ủy, UBND Quận đã làm
tốt công tác quản lý nhà nước về TTATXH, triển khai nghiêm túc các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng cũng như cấp ủy các cấp, tuyên truyền, quán triệt về
đảm bảo TTATXH tới tồn thể các tầng lớp nhân dân. Qua đó góp phần giữ
vững an ninh chính trị, bảo đảm TTATXH.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, cơng tác đảm bảo
TTATXH trên địa bàn quận Đống Đa cịn có những thiếu sót, bộc lộ những
bất cập, hạn chế nhất định, trong đó có cơng tác QLNN về TTATXH: Chưa
thường xun cập nhật thơng tin, nắm chắc tình hình, diễn biến của TTATXH
và những vấn đề có liên quan ở từng địa bàn, từng lĩnh vực cụ thể; Chưa xác
định rõ những lĩnh vực, địa bàn trọng điểm, cơ cấu động thái và những diễn
biến phức tạp của từng vấn đề về TTATXH. Các yêu cầu trong quản lý nhà
nước về TTATXH trong nhiều trường hợp, ở một số lĩnh vực chưa được cán
bộ, lãnh đạo quán triệt nghiêm túc. Hệ thống thống kê xã hội, thống kê hình
sự thường khơng chính xác. Trong nhiều lĩnh vực cụ thể có liên quan đến
TTATXH, từ đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự an tồn giao

thơng, trật tự cơng cộng, bảo vệ môi trường, quản lý cư trú, giáo dục cải tạo
phạm nhân, quản lý vũ khí vật liệu nổ... cho đến việc bảo đảm sự gắn kết giữa
bảo đảm TTATXH với việc thực hiện các mục tiêu khác của quận thiếu đồng


3

bộ, thiếu tính kế hoạch, thiếu các biện pháp và những bước đi thích hợp.
Những hạn chế nêu trên đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả công tác
đảm bảo TTATXH trên địa bàn quận.
Thời gian tới, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, đất nước ta phải đối
mặt khơng ít khó khăn, thách thức. Tác động từ mặt trái của quá trình hội
nhập sâu rộng với quốc tế; phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, sự
bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ; tốc độ nhanh của q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đơ thị hóa... Điều đó đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng
nề, khó khăn đối với cơng tác bảo đảm ANTT, trong đó có vấn đề quản lý nhà
nước về TTATXH. Cùng với xu thế phát triển chung của thành phố Hà Nội,
là một trong những địa bàn trung tâm của thủ đơ, Quận Đống Đa tiếp tục có
sự phát triển nhanh về mọi mặt. Theo đó, nhiệm vụ QLNN về TTATXH trên
địa bàn sẽ rất nặng nề, xuất hiện nhiều vấn đề mới, phức tạp, đòi hỏi phải tiếp
tục nghiên cứu, tăng cường hiệu quả QLNN về lĩnh vực này.
Mặt khác, hiện nay, Đảng ta đang triển khai thực hiện quyết liệt chủ
trương sắp xếp, đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đặc
biệt là hệ thống chính trị cấp huyện và cấp cơ sở, tinh gọn hoạt động hiệu lực,
hiệu quả. Theo đó, có rất nhiều vấn đề mới về quản lý nhà nước nói chung
trong đó có quản lý nhà nước về ANTT cần phải được nghiên cứu, quán triệt
sâu sắc, kịp thời. Đặc biệt là cấp quận, huyện vì là cấp thường xuyên phải thi
hành pháp luật để thực hiện nhiệm vụ quản lý.
Tình hình đó cho thấy, u cầu cấp thiết phải nghiên cứu vấn đề quản
lý nhà nước về TTATXH một cách hệ thống khoa học để tìm ra những giải

pháp góp phần tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Xuất phát từ yêu cầu trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Quản lý
nhà nước về trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn quận Đống Đa, Thành phố
Hà Nội hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng
Đảng và Chính quyền Nhà nước.


4

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua khảo sát của tác giả, vấn đề TTATXH cũng như quản lý nhà nước
trong lĩnh vực này đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, tiếp cận dưới các
góc độ nghiên cứu khác nhau, tiêu biểu như:
Trần Ngọc Khuê- Lê Kim Việt đồng chủ biên (2004), Tâm lý xã hội
trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb CTQG, HN. Đây là
cuốn sách chuyên khảo đề cập đến đặc điểm đời sống tâm lý xã hội và những
diễn biến tâm lý của các tầng lớp dân cư trong điều kiện triển khai thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở. Đặc biệt, cuốn sách đã chỉ ra những biện pháp tác
động nhằm thu hút mọi tầng lớp dân cư tham gia vào quá trình xây dựng
Đảng, chính quyền, phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có nội dung bàn về vai
trị của nhân dân ở cơ sở trong việc giữ gìn trật tự an ninh xã hội thông qua
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Nguyễn Hữu Đổng (2009), Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong
hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, HN. Đây là cuốn sách
chuyên khảo bàn về vai trò của Đảng, cấu trúc của hệ thống chính trị, mối
quan hệ giữa tổ chức đảng với các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta, trong
đó có nội dung bàn về phương thức lãnh đạo, vị trí vai trị của các tổ chức
quần chúng nhân dân trong việc đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội và
phát triển kinh tế, văn hố...
Hồ Thanh Hà (2012), Đảng bộ cơng an quận Cầu Giấy lãnh đạo xây

dựng các hình thức, tổ chức quần chúng tự quản về an ninh trật tự giai đoạn
hiện nay, luận văn thạc sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Trên cơ sở làm
rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của lực lượng Công an trong
việc đảm bảo an ninh, trật tự, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng bộ Công an quận Cầu Giấy trong xây dựng các
hình thức, tổ chức quần chúng tự quản về an ninh trật tự trên địa bàn quận.
Nguyễn Phi Hùng (2016), Công tác tham mưu xây dựng và hoàn thiện


5

pháp luật về an ninh, trật tự của Bộ Công an hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền. Tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về công tác tham mưu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về an ninh,
trật tự của Bộ Cơng an; trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và các giải pháp
tăng cường công tác tham mưu góp phần xây dựng và hồn thiện pháp luật về
an ninh, trật tự trong thời gian tới.
Ngoài ra, còn nhiều tác giả trực tiếp bàn về TTATXH qua một số sách,
cơng trình nghiên cứu sau:
+ Nguyễn Ngọc Anh (2002), “Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới”, đề tài cấp Bộ Công an, Hà Nội.
+ Nguyễn Ngọc Anh (2004), “Định hướng sửa đổi, bổ sung hệ thống
văn bản pháp luật về an ninh, trật tự phù hợp với Hiến pháp năm 2013”, Tạp
chí Khoa học và Chiến lược, số 4/2014.
+ Nguyễn Ngọc Anh (2006), “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện
pháp luật về đặc xá”, sách chuyên khảo của, Nhà xuất bản Công an nhân dân.
+ Nguyễn Ngọc Anh (2010), “Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý về
bảo vệ an ninh, trật tự”, Tạp chí Cơng an nhân dân (Chun đề An ninh và
Xã hội), số 8-2010.
+ Nguyễn Ngọc Anh (2010), “Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ủy Công

an Trung ương trong xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo vệ an ninh,
trật tự”, Tạp chí Cơng an nhân dân, số đặc biệt tháng 10/2010.
+ Nguyễn Ngọc Anh (2013), “Hệ thống pháp luật về đảm bảo trật tự,
an toàn xã hội trong điều kiện hội nhập – Thực trạng và giải pháp hồn
thiện”, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, số 8/2013.
+ Nguyễn Ngọc Anh (2013), “Hoàn thiện pháp luật về an ninh, trật tự
góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, Tạp
chí Cơng an nhân dân (Chuyên đề An ninh và Xã hội), số 4/2013.
+ Nguyễn Ngọc Anh, Đào Anh Tới, Đỗ Thị Minh Ngọc (2015), “Hoàn


6

thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra theo định hướng
cải cách tư pháp”, sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Công an nhân dân.
+ Trần Quốc Toàn (2015), “Hoàn thiện pháp luật về trật tự, an toàn xã
hội ở nước ta hiện nay”, luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
Nghiên cứu nội dung các cơng trình nêu trên cho thấy: các tác giả đã
khái quát được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng và định hướng trong xây dựng và hồn thiện pháp luật về an ninh, trật
tự nói chung và trong từng lĩnh vực cụ thể như: điều tra hình sự, đặc xá, bảo
vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; đồng thời, cũng đã khái
quát được những vấn đề chung về công tác tham mưu Công an nhân dân trong
bảo vệ an ninh, trật tự. Kết quả nghiên cứu của các cơng trình này có giá trị
tham khảo trong xây dựng và hồn thiện pháp luật trong một số lĩnh vực an
ninh, trật tự… Tuy nhiên, các cơng trình trên chưa đi trực tiếp vào nghiên cứu
Quản lý Nhà nước về TTATXH trên một địa bàn cụ thể mà đặc biệt là địa bàn
quận Đống Đa. Do vậy, đề tài luận văn của tác giả là khơng trùng lặp với các
cơng trình đã công bố. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quý để tác giả hồn
thiện luận văn.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận QLNN về TTATXH, khảo
sát, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn quận Đống
Đa, Thành phố Hà Nội hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp để tăng
cường quản lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn quận trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết một số
nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước về
TTATXH.


7

- Khảo sát, đánh giá thực trạng, chỉ rõ ưu, nhược điểm của quản lý nhà
nước trong lĩnh vực TTATXH trên địa bàn quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
hiện nay.
- Dự báo những yếu tố tác động đến QLNN về TTATXH trên địa bàn
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội trong thời gian tới. Đề xuất một số giải
pháp, kiến nghị góp phần tăng cường quản lý nhà nước về TTATXH trên địa
bàn quận Đống Đa trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của Quản
lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Từ năm 2012 tới năm 2018
Phạm vi không gian: Quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về

TTATXH của Công an quận Đống Đa.
5. Cơ sở lí luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận, cơ sở lí luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đồng thời căn cứ vào chủ trương đường lối, quan điểm của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước về TTATXH và công tác QLNN về
TTATXH; Sử dụng các văn bản báo cáo tổng kết của Bộ Công an, Công an
thành phố Hà Nội và Công an quận Đống Đa, Hà Nội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Được dùng để khảo cứu các tài liệu


8

khoa học như tài liệu về quản lý, quản lý nhà nước, văn bản luật liên quan tới
TTATXH… nhằm hệ thống hóa các vấn đề lý luận và cơ sở lý thuyết cho vấn
đề nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn sâu (phỏng vấn chuyên gia): Được dùng để
thu thập thông tin định tính, xin ý kiến cán bộ, lãnh đạo phụ trách quản lý nhà
nước về TTATXH trên địa bàn quận Đống Đa
Ngoài ra, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
được sử dụng để đánh giá, nhận xét về những ưu điểm và hạn chế của công
tác quản lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn quận Đống Đa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của để tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa và phân tích sâu hơn những vấn đề mới trong
quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về

TTATXH. Qua đó góp phần làm sáng tỏ hơn những lý luận liên quan QLNN
về TTATXH để từng bước nâng cao hiệu quả công tác này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn tham
mưu cho cán bộ, lãnh đạo ở quận Đống Đa trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
quản lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn. Đồng thời, đây cũng là tài liệu
tham khảo có giá trị cho UBND các quận huyện khác trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
có giá trị cho việc giảng dạy các mơn học về QLNN trong lĩnh vực an ninh
trật tự, an toàn xã hội tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
7. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống về
quản lý nhà nước trong lĩnh vực TTATXH trên địa bàn quận Đống Đa, thành
phố Hà Nội. Trong đó, đóng góp mới, nổi bật nhất của luận văn là đánh giá


9

chính xác thực trạng trong QLNN về TTATXH, chỉ ra những giải pháp đột
phá trọng tâm trong công tác này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo,
Nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết, cụ thể:
Chương 1. Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội- Một số vấn đề
lý luận
Chương 2. Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn quận
Đống Đa, thành Phố Hà Nội hiện nay- Thực trạng và nguyên nhân
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

trong thời gian tới.


10

Chương 1
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI
- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1. Khái niệm, mục đích, nguyên tắc quản lý nhà nước về trật tự,
an toàn xã hội
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Quản lý
Quản lý là một khái niệm có nội hàm xác định song lâu nay thường có
các cách định nghĩa, cách hiếu khác nhau và được thể hiện bằng thuật ngữ
khác nhau. Quản lý là chức năng vốn có của mọi tổ chức, mọi hành động của
các cá nhân, các bộ phận trong tổ chức có sự điều khiển từ trung tâm, nhằm
thực hiện mục tiêu chung của tổ chức.
Theo các nhà khoa học, quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học. Mỗi ngành khoa học nghiên cứu về quản lý từ góc độ riêng của mình
và đưa ra định nghĩa về quản lý. Theo điều khiển học thì quản lý là điều khiển,
chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật
hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý
muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước.
Nếu xét quản lý dưới tư cách là một hoạt động, có thể hiểu quản lý là
sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý tới đối tượng quản
lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Theo Từ điển Tiếng Việt, quản lý là “trơng
nom, coi giữ” là “trơng coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định. Tổ chức
và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [29, tr.303].
Từ các góc độ tiếp cận khác nhau, có thể hiểu chung nhất, quản lý là sự

tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý
nhằm đạt mục tiêu đã đề ra, là một hoạt động thực tiễn đặc biệt của con
người, trong đó các chủ thể tác động lên các đối tượng bằng các công cụ và


11

phương pháp khác nhau, thơng qua quy trình quản lý nhất định, nhằm thực
hiện một cách hiệu quả nhất các mục tiêu của tổ chức trong điều kiện biến
động của mơi trường.
Theo đó, trong quản lý bao giờ cũng là một tác động có mục tiêu xác định,
gắn với mối quan hệ giữa hai bộ phận là chủ thể quản lý và khách thể quản lý.
Đó chính là mối quan hệ ra lệnh - phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt
buộc. Trong nội dung quản lý, có thể xem xét phương pháp, quy trình, nguyên
tắc quản lý tùy theo nhu cầu cần nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Như vậy, quản lý là một nhu cầu khách quan của mọi quá trình lao
động xã hội, bất kể dưới hình thái xã hội nào, là một yếu tố quan trọng và
quyết định nhất đến sự phát triển của mỗi tổ chức, mỗi quốc gia.
1.1.1.2. Quản lý nhà nước
Quản lý là một hoạt động có từ lâu đời trong xã hội. Nói đến hoạt động
quản lý trong xã hội là trực tiếp đề cập đến sự tác động, chỉ huy, điểu khiển
các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phát triển phù hợp
với quy luật, đạt tới mục đích đề ra và đúng với ý chí của chủ thể quản lý.
Quản lý xã hội về thực chất là quản lý con người đang tham gia các
quan hệ xã hội, vì vậy, nó là hoạt động quản lý bao trùm, có nội dung, phương
pháp và phạm vi rộng lớn. Trong đó, quản lý Nhà nước là hoạt động quản lý
quan trọng nhất, do tính chất, đặc điểm và vai trò, chức năng của tổ chức Nhà
nước trong toàn bộ kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Trên bình diện chủ thể quản lý Nhà nước, khái niệm Quản lý Nhà nước
có thể hiểu theo hai nghĩa như sau:

Theo nghĩa rộng: Quản lý Nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành
của cả bộ máy Nhà nước, bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực Nhà
nước trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách hiểu
này, ở Việt Nam, hoạt động Quản lý Nhà nước được đặt trong cơ chế "Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân lao động làm chủ”.


12

Theo nghĩa hẹp, Quản lý Nhà nước là quá trình tổ chức, điều hành của
hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước đối với các q trình xã hội và
hành vi hoạt động của con người trên cơ sở các quy định, quy phạm pháp luật
nhằm đạt được những mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ Nhà nước đề ra. Đồng thời,
các cơ quan nhà nước nói chung cịn thực hiện các hoạt động có tính chất
chấp hành, điều hành, tính chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng tổ chức
bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình. Chẳng hạn như ra quyết
định thành lập, chia tách, sát nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình,
đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc
nội bộ v.v. QLNN theo nghĩa hẹp này còn đồng nghĩa với khái niệm quản lí
hành chính nhà nước.
Từ những phân tích trên đây, có thể rút ra nhận thức chung về Quản lý
Nhà nước như sau:
Quản lý Nhà nước là hoạt động của các chủ thể (chủ yếu là các cơ quan
nhà nước) trên cơ sở quy định của hệ thống pháp luật nhằm tổ chức và phối
hợp những cố gắng chung của toàn xã hội để giải quyết các nhiệm vụ xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội và các nhiệm vụ khác trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Chất lượng, hiệu quả của quản lý Nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau, trong đó nổi bật là những yếu tố sau:
- Tính hoàn chỉnh, đầy đủ, đồng bộ của các quy định trong hệ thống

pháp luật.
- Trình độ tổ chức thực hiện của các cơ quan Nhà nước với tư cách là
những chủ thể thực hiện quản lý trực tiếp.
- Mức độ phổ biến, tuyên truyền, giáo dục và trình độ dân trí, ý thức
pháp luật của các tầng lớp dân cư, các đối tượng quản lý.
- Phương thức, biện pháp huy động và phối hợp các lực lượng xã hội
để giải quyết các nhiệm vụ đề ra.


13

- Tính tự giác trong thực hiện nghĩa vụ, nhiệm vụ của đối tượng quản lý...
1.1.1.3. Trật tự, an toàn xã hội
Trong một số tài liệu, từ điển, bài viết.., thuật ngữ Trật tự, an toàn xã
hội được hiểu một cách phổ biến nghĩa là chỉ sự hoạt động ổn định hài hòa
của các thành phần xã hội trong cơ cấu xã hội; trật tự xã hội nhằm duy trì sự
phát triển xã hội và cơ chế bảo đảm tính trật tự xã hội là các thiết chế xã hội.
Trật tự xã hội biểu hiện tính tổ chức của đời sống xã hội, tính chuẩn mực của
các hành động xã hội. Nhờ trật tự xã hội mà hệ thống xã hội đạt được sự ổn
định, cho phép nó hoạt động một cách có hiệu quả dưới sự tác động của các
yếu tố bên trong và bên ngồi. Cũng có tác giả tách thuật ngữ Trật tự an toàn
thành hai vấn đề riêng biệt là trật tự và an toàn để định nghĩa. Chẳng hạ trật tự
là tình trạng ổn định, có thứ bậc trên dưới, trước sau. An tồn là yên ổn trọn
vẹn, yên ổn hẳn, không sợ tai nạn.
Thực tế, cùng với thuật ngữ TTATXH cịn có thuật ngữ trật tự cơng
cộng (xã hội) cịn được hiểu là:
Trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy
tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo.
Trật tự cơng cộng là một mặt của Trật tự, an tồn xã hội và có nội dung bao
gồm những quy định chung về trật tự, vệ sinh, văn hóa; sự tuân thủ những

quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa
nhận; tình trạng yên ổn, có trật tự, tơn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh
hoạt, nghỉ ngơi của mọi người [3, Tr 1183].
Như vậy, nói đến trật tự, an tồn xã hội là nói đến tình trạng (trạng thái)
ổn định, có trật tự, kỷ cương của xã hội. Trật tự, kỷ cương đó được xác lập
trên cơ sở các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành (được gọi là những
quy phạm pháp luật) và những giá trị xã hội, chuẩn mực đạo đức truyền thống
được mọi người trong xã hội thừa nhận, tơn trọng, tn thủ và nhờ đó mà mọi
người có được cuộc sống yên ổn. Nói cách khác: Trật tự, an toàn xã hội là


14

trạng thái xã hội có trật tự, kỷ cương, trong đó mọi người có cuộc sống yên ổn
trên cơ sở các quy phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định.
Theo quy định tại khoản 2, điều 2 Luật CAND năm 2008 thì trật tự, an tồn
xã hội là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm vi
phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội.
Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và
của cả hệ thống chính trị trong đó lực lượng Cơng an nhân dân giữ vai trị nịng
cốt và có chức năng tham mưu, hướng dẫn và trực tiếp đấu tranh phòng, chống
tội phạm, giữ gìn trật tự cơng cộng, bảo đảm trật tự, an tồn giao thơng, tham gia
phịng ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường [3, Tr 1182].
Dự đứng ở góc độ nghiên cứu nào, chúng ta cũng thấy có sự thống nhất
trong đánh giá về nội hàm của khái niệm Trật tự, an tồn xã hội, điều đó được
thể hiện trên những dấu hiệu căn bản sau:
- Đó là một trạng thái trật tự, nề nếp, kỷ cương, bình yên của xã hội.
- Trạng thái này chỉ đạt tới độ vững chắc khi được thiết lập trên cơ sở
sự tự giác tuân thủ quy phạm pháp luật, đạo đức của mọi người trong xã hội
- Là kết quả tổng hợp của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội

phạm, tệ nạn xã hội; cơng tác quản lý, bảo vệ, gìn giữ trật tự, an toàn trên
nhiều llĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
- Cơng tác bảo đảm trật tự, an tồn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân, trong đó lực lượng Cơng an nhân dân là nịng cốt.
1.1.1.4. Quản lý nhà nước về trật tự xã hội
Quản lý Nhà nước về Trật tự, an toàn xã hội là bộ phận rất quan trọng
của Quản lý Nhà nước nói chung, của Quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự
nói riêng. Thực chất đó là sự tác động đồng bộ có mục đích của Nhà nước
thơng qua hoạt động của một hệ thống các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã
hội được chức năng hóa trong lĩnh vực này (trên cơ sở quy định của pháp
luật) vào tất cả các yếu tố cấu thành nên Trật tự, an toàn xã hội nhằm tạo nên


15

sự ổn định, an toàn cho đất nước trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, nhằm đạt tới các mục tiêu xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc XHCN.
Thực hiện Quản lý Nhà nước về Trật tự xã hội xã hội trước hết nhằm
đem lại sự bình yên trong hoạt động của các cơ quan, các tổ chức xã hội và
cá nhân, bảo vệ trật tự pháp luật và kỉ cương xã hội, bảo đảm thực hiện đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ cơng dân, đấu tranh có hiệu quả với tình trạng phạm
tội, với các vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội. Về thực chất, khái niệm Quản
lý Nhà nước về Trật tự, an toàn xã hội bao gồm những điểm chính yếu sau:
- Là sự tác động có tổ chức, có có hệ thống và bằng pháp luật vào tất
cả những yếu tố cấu thành nên Trật tự, an tồn xã hội nhằm điều chỉnh có
hiệu lực, hiệu quả các quan hệ xã hội, tạo nên những cơ sở vững chắc đảm
bảo cho một nền Trật tự, an toàn xã hội theo ý chí của Nhà nước.
- Là một dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực Nhà nước để điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người có liên

quan đến trật tự, an toàn xã hội.
-

Hệ thống các chủ thể quản lý rất rộng, trong đó chủ thể trực tiếp,

nịng cốt là lực lượng Công an nhân dân.
-

Đối tượng Quản lý Nhà nước về Trật tự, an toàn xã hội là tất cả các

cơ quan, tổ chức, nhóm người, cộng đồng người, các cá nhân tham gia các
mối quan hệ thuộc phạm trù trật tự, an toàn xã hội.
Như vậy, từ các khái niệm cơng cụ trên, có thể hiểu: Quản lý Nhà nước
về trật tự, an toàn xã hội là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức xã hội được Nhà nước ủy quyền, được tiến hành trên
cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật nhằm thực hiện trong cuộc sống hàng
ngày các chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội.
Quản lý nhà nước về TTATXH bao gồm các lĩnh vực:
- QLNN về phòng, chống tội phạm


16

- QLNN về phòng, chống tệ nạn xã hội, phòng, chống ma túy
- QLNN về trật tự xã hội
- QLNN về TTAT giao thông, trật tự đô thị, trật tự cơng cộng.
- QLNN về phịng cháy chữa cháy
- QLNN về giáo dục, cải tạo phạm nhân

1.1.2. Mục đích, nguyên tắc quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội

1.1.2.1. Mục đích
Quản lý Nhà nước về trật tự, an tồn xã hội, như đã phân tích, là một
bộ phận trong quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự. Vì vậy, mục đích của
cơng tác này cũng hướng đến góp phần thực hiện mục đích chung. Theo đó,
mục đích cuối cùng của quản lý Nhà nước về an ninh trật tự nói chung là bảo
vệ vững chắc nền an ninh trật tự của Tổ quốc, bảo đảm sự ổn định và bình yên
của xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh. Mục tiêu cụ thể
của quản lý Nhà nước về trật tự, an toàn xã hội là nhằm thực hiện tốt các
nhiệm vụ bảo vệ an toàn các cơ quan nhà nước, các tổ chức, bảo vệ trật tự
pháp luật và các kỷ cương xã hội, đấu tranh có hiệu quả đối với tình trạng
phạm tội, với các vi phạm pháp luật và các loại tệ nạn xã hội, giữ cho xã hội
ln ln ở trong trạng thái bình yên, trật tự, nề nếp kỷ cương...
Thực tiễn chứng minh rằng, nếu như quản lý trên lĩnh vực an ninh
quốc gia nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam, bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ Đảng và nhà nước XHCN Việt Nam, kịp
thời phát hiện và dập tắt mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch
chống phá CNXH, chống phá cách mạng Việt Nam, thì quản lý về Trật tự, an
toàn xã hội giành ưu tiên cho mục tiêu đảm bảo cho các quá trình xã hội, các
hoạt động trong đời sống xã hội, đời sống cá nhân trong cộng đồng... được
diễn ra một cách bình thường, an tồn... trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các
quy định của pháp luật và các quy tắc của lối sống, đạo đức XHCN. Giữa An


17

ninh quốc gia và Trật tự, an toàn xã hội có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với
nhau. An ninh quốc gia được bảo vệ vững chắc mới tạo điều kiện cơ bản
thuận lợi để bảo vệ tốt trật tự, an toàn xã hội. Ngược lại, Trật tự, an tồn xã
hội được giữ vững sẽ góp phần tích cực vào việc bảo vệ vững chắc An ninh

quốc gia, tăng cường lòng tin của quần chúng vào Đảng, Nhà nước, vào chế
độ XHCN. Cần nhấn mạnh rằng: Nếu tình hình Trật tự, an toàn xã hội diễn
biến phức tạp, nghiêm trọng kéo dài, khơng kiểm sốt được sẽ gây ảnh hưởng
rất xấu, thậm chí chuyển hóa thành vấn đề chống đối chính trị, điều đó rõ ràng
tác động tiêu cực đến An ninh quốc gia.
Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định:
“Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; Phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hồ
bình, ổn định; Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại”. Vấn đề “Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi
trường hồ bình, ổn định” là điểm mới và là nội dung lần đầu được đưa vào
chủ đề của Đại hội, điều này đã thể hiện bước tiến mới trong tư duy lãnh đạo
của Đảng theo hướng toàn diện, sâu sắc hơn, đáp ứng những yêu cầu của việc
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đồng thời biểu thị rõ quyết tâm của Đảng
ta xây dựng nước Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Để bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nội dung Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng đã đưa ra những phương hướng, nhiệm vụ cần phải thực hiện
như sau: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp tồn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa. Đây là mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh nước ta hiện


18

nay, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp tồn dân tộc, của cả hệ
thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lực lượng bảo vệ Tổ quốc là tồn

dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Sức mạnh
tổng hợp trong bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của các yếu tố: Chính
trị, quân sự, kinh tế, khoa học và cơng nghệ, văn hóa, đối ngoại; Sức mạnh
của toàn bộ nhân dân trong nước và kiều bào Việt Nam định cư ở nước ngoài;
Là sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại. Cùng với việc khẳng định sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, bảo vệ Tổ quốc cũng cần tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của
cộng đồng quốc tế. Đây là một trong những kinh nghiệm lớn của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của đất nước ta, nhất là trong điều kiện bối cảnh
quốc tế hiện nay. [28, Tr 233].
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp,
người lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc
gia và đảm bảo giữ gìn trật tự, an tồn xã hội. Vì vậy, Nghị quyết của Đảng là
định hướng cho việc xác định mục đích cơng tác quản lý Nhà nước trên mọi
lĩnh vực trong giai đoạn hiện nay, trong đó có quản lý Nhà nước về trật tự, an
tồn xã hội.
1.1.2.2. Nguyên tắc
Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh dạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với QLNN về TTATXH.
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, quan trọng nhất, chủ đạo và chi phối
các nguyên tắc khác. Bảo vệ an ninh trật tự là nhiệm vụ nặng nề, gian khổ, âm
thầm, nhưng rất quan trọng, quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của tồn dân, đến
sự mất cịn của dân tộc. Một sự nghiệp như vậy phải đặt dưới sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Nếu thốt ly đường lối chính trị của
Đảng thì khơng đạt được kết quả. Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX


19


của Đảng đã chỉ rõ: “Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân,
đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh.”. Gần đây nhất, tại Đại hội lần thứ
XII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “ Tiếp tục giữ vững, tăng cường
sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung,
thống nhất của Nhà nước đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân và sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc.”[,tr.150].
Trong quá trình lãnh đạo công tác quản lý nhà nước về trật tự, an toàn
xã hội, các cấp ủy đảng cần phân định rõ chức năng lãnh đạo của mình với
chức năng quản lý của cơ quan Nhà nước, không được biến các tổ chức Đảng
thành các cơ quan hành chính, bao biện làm thay, nhưng cũng khơng khốn
trắng cho chính quyền, cho các cơ quan chuyên môn. Đảng lãnh đạo bằng
đường lối, chính sách, bằng cơng tác cán bộ và cơng tác tổ chức, bằng công
tác vận động quần chúng và công tác giám sát, kiểm tra hoạt động quản lý
Nhà nước trên lĩnh vực này.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Quá trình quản lý nhà nước về trật tự, an tồn xã hội địi hỏi các chủ thể
phải dựa trên cơ sở hệ thống văn bản pháp luật nhà nước. Pháp luật thể chế
hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân. Do vậy,
tăng cường pháp chế trong quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội là hết
sức quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc. Trong hoạt động quản lý, không
cho phép các chủ thể thực hiện một cách chủ quan, tùy tiện mà phải làm theo
đúng pháp luật. Dựa vào pháp luật, cơ quan Nhà nước mới có thể tiến hành
giải quyết những vụ việc phức tạp xảy ra, phát hiện và xử lí người có hành vi
phạm tội, vi phạm về trật tự, an toàn xã hội một cách chính xác, nghiêm minh.
Nguyên tắc pháp chế XHCN trong quản lý nhà nước về trật tự, an tồn
xã hội địi hỏi quá trình xây dựng các văn bản pháp luật về TTATXH phải
kịp thời, thống nhất và ổn định tương đối, đáp ứng được yêu cầu của công tác



×