Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về dân chủ trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở huyện yên mỹ, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (912.7 KB, 121 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VŨ THỊ THANH HUYỀN

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
Ở HUYỆN YÊN MỸ, TỈNH HƢNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI – 2017


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VŨ THỊ THANH HUYỀN

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ


TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
Ở HUYỆN YÊN MỸ, TỈNH HƢNG YÊN

Chuyên ngành : Hồ Chí Minh học
Mã số

: 60 31 02 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ HỒ CHÍ MINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. Trần Thị Minh Tuyết

HÀ NỘI – 2017


3

Luận văn đã đƣợc chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm
luận văn thạc sĩ.
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS,TS. Hoàng Anh


4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh Học “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở huyện n Mỹ, tỉnh
Hưng n” là cơng trình nghiên cứu riêng của tôi.
Những tư liệu được sử dụng đã ghi rõ nguồn trích trong danh mục tài

liệu tham khảo. Kết quả này chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình
nghiên cứu nào từ trước đến nay.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Thị Thanh Huyền


5

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ ........................... 9
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ ............................. 9
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ....................................................... 17
Chƣơng 2: THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở HUYỆN YÊN
MỸ, TỈNH HƢNG YÊN THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH ............... 46
2.1. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở huyện
Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên .............................................................................. 46
2.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong q trình
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên ............... 55
2.3. Giải pháp nâng cao việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở huyện Yên
Mỹ, tỉnh Hưng Yên theo tư tưởng Hồ Chí Minh ......................................... 83
KẾT LUẬN .................................................................................................. 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 105
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 109
TÓM TẮT LUẬN VĂN .............................................................................. 117


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, khi con người ngày càng tiến tới
một xã hội văn minh, hiện đại thì những thành tựu và giá trị như sự biểu hiện
của trí tuệ, sức sáng tạo và mong muốn mãnh liệt của con người cũng ngày
càng phong phú và sâu sắc. Một trong những giá trị vĩnh hằng mà lồi người
ln khao khát chính là dân chủ. Quả thực dân chủ là vấn đề khơng bao giờ
cũ bởi nó là một nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống con người với tư cách vừa
là cá nhân, vừa là cộng đồng xã hội. Vì thế, dân chủ với việc tơn vinh vai trị
làm chủ của nhân dân đã trở thành tiêu chí, thước đo quan trọng về trình độ
văn minh, tiến bộ của các quốc gia.
Trong sự nghiệp Đổi mới đất nước hôm nay, dân chủ đóng một vai trị
hết sức to lớn bởi dân chủ góp phần giải phóng năng lực con người, củng cố
lòng tin của nhân dân vào chế độ, tạo nên sự đồng thuận dân tộc… Vấn đề
dân chủ càng quan trọng khi việc thực thi dân chủ ở nước ta bên cạnh những
thành tựu đã đạt được thì vẫn cịn nhiều bất cập và các lực lượng thù địch
ln dựa vào những khiếm khuyết, hạn chế đó để bơi nhọ và chống phá chế
độ ta, nhà nước ta.
Xuất phát từ tầm quan trọng của dân chủ trong sự phát triển của đất
nước, hiện nay, dân chủ là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã
hội, trong đó có ngành Hồ Chí Minh học bởi dân chủ là tư tưởng lớn của nhà
hoạt động chính trị, danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ “có một ham muốn tột bậc” là đưa dân tộc Việt Nam từ một dân
tộc nô lệ trở thành dân tộc tự do, đưa người dân từ thân phận nô lệ lên địa vị
công dân làm chủ đất nước. Hồ Chí Minh cũng là người xây dựng nền Cộng
hịa dân chủ đầu tiên ở cõi Đơng Nam Á và tận tâm, tận lực xây dựng một xã
hội mà địa vị tối thượng thuộc về nhân dân. Để chỉ đạo hoạt động thực tiễn


2


vinh quang và khó khăn đó, Người đã đưa ra một hệ thống các luận điểm về
dân chủ, từ khái niệm, vai trò cho đến sự thể hiện của chúng trong các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội..., cũng như phương thức hiện thực
hóa chúng trong thực tiễn. Như vậy, Hồ Chí Minh vừa là nhà tư tưởng, vừa là
nhà thực hành dân chủ vĩ đại của thế kỷ XX. Tư tưởng dân chủ của Người đã
trở thành bộ phận văn hóa của dân tộc Việt Nam và góp phần làm giàu kho
tàng tri thức về dân chủ của nhân loại.
Trong 30 năm Đổi mới, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn
đề dân chủ và thực thi dân chủ có những bước tiến vượt bậc để thực hiện
niềm mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “làm sao cho nhân dân biết
hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”
[47; tr.293]. Tuy nhiên, q trình thực hiện quyền dân chủ, làm chủ của quần
chúng, đặc biệt ở nơng thơn vẫn cịn nhiều hạn chế, thậm chí cịn nhiều thiếu
sót, khuyết điểm dẫn đến việc ở một số nơi, nhân dân đã đấu tranh tự phát
chống lại những biểu hiện vi phạm dân chủ như quan liêu, tham nhũng của
một số cán bộ đảng viên, của chính quyền cơ sở và trở thành một điểm nóng
chính trị như ở Thái Bình, Tây Nguyên… Thấy rõ được nguyên nhân sâu xa
của tình hình trên là do người dân còn chưa được hưởng quyền dân chủ đầy
đủ và thực sự, Đảng và Nhà nước ta đã bản hành chỉ thị 30/CT-TW và nghị
định 29/NĐ-CP về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở (18/2/1998).
Pháp lệnh dân chủ cơ sở cũng đã được Thường vụ Quốc hội thông qua vào
tháng 4/2007. Nhân dân cả nước phấn khởi, hào hứng tiếp nhận những chủ
trương, chính sách đó bởi nó phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Trải
qua một quá trình thực hiện, Quy chế dân chủ cơ sở và Pháp lệnh dân chủ cơ
sở đã từng bước đi vào cuộc sống, tạo nên chuyển biến tích cực trong nhận
thức chính trị và hành động của các cơ quan chính quyền và đơng đảo các
tầng lớp nhân dân. Trên thực tế, sự cố gắng của Đảng và nhà nước trong việc



3

thực thi dân chủ cơ sở đã đưa đến những thành tựu nhất định trong việc đảm
bảo quyền làm chủ của người dân nhưng so với đòi hỏi cuả thực tiễn, những
thành tựu mà ta đã đạt được mới chỉ là bước đầu. Trước những vấn đề mới mẻ
do bản thân quá trình vận động và thực hiện dân chủ hóa đề ra, chúng ta cần
phải nỗ lực nhiều hơn nữa để tiếp tục phát huy dân chủ, đấu tranh kiên quyết
chống lại những hiện tượng vi phạm dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân,
đặc biệt là từ cơ sở, khắc phục những biểu hiện dân chủ hình thức và tự do vơ
chính phủ.
Để chủ động phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu
cực trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, cần phải thường xuyên
nghiên cứu thực trạng thực hiện dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở các địa
phương. Là một người dân gắn bó với quê hương Yên Mỹ - Hưng Yên, em
quan tâm đến sự phát triển mọi mặt của quê hương mình và đặc biệt quan tâm
tới việc thực hiện quy chế dân chủ ở đó.
Huyện Yên Mỹ, Tỉnh Hưng Yên được tái lập từ năm 1999 đến
nay.Trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội
để xây dựng huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên trở thành huyện công nghiệp theo
hướng hiện đại trong thời gian sớm nhất, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên đã
và đang thực hiện các mục tiêu, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã
hội, trong đó chú trọng cơng nghiệp, dịch vụ, đầu tư xây dựng cơ bản, thu hút
các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn, đặc biệt là chương trình xây dựng nơng
thơn mới. Những mục tiêu đó địi hỏi các cơ quan lãnh đạo phải có những giải
pháp đồng bộ trong việc thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở tạo nên sự đồng
thuận và sự ủng hộ tích cực của đơng đảo nhân dân. Thực tế cho thấy, việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở đã góp phần tích cực vào kết quả phát triển kinh tế xã hội, đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy
đảng, quản lý và điều hành của các chính quyền từ xã đến cơ sở. Tuy nhiên,



4

việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng
Yên cũng như trên phạm vi cả nước vẫn còn nhiều bất cập. Muốn khắc phục
những hiện trạng tiêu cực và phát huy những mặt tích cực trong thực hiện
Quy chế dân chủ cơ sở, cần phải xem xét rõ thực trạng của nó và đưa ra
những giải pháp phù hợp. Vì lẽ đó, em chọn vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở huyện Yên Mỹ, tỉnh
Hưng Yên” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những cơng trình liên quan đến đề tài có thể chia ra làm 3 nhóm chính
sau đây:
* Thứ nhất: Các cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ:
- Phạm Hồng Chương, Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2004. Tác giả nêu lên lịch sử hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, quan niệm và những quan điểm cơ bản của
Hồ Chí Minh về dân chủ, đồng thời đề ra yêu cầu của thực hành dân chủ và
hiện thực hóa tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh.
- Phạm Văn Bính (chủ biên), Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Cuốn sách góp phần xác định và làm rõ hơn
những vấn đề cơ bản trong phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh, từ đó đề
xuất hướng áp dụng phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh trong hồn thiện
phương pháp lãnh đạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
* Thứ hai: Các công trình nghiên cứu việc thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở hiện nay:
- Dương Xuân Ngọc, Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã – Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Tác giả làm rõ
ý nghĩa và tầm quan trọng của quy chế thực hiện dân chủ cấp xã cả về mặt lý
luận và thực tiễn.



5

- Nguyễn Cúc, Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện
nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Tác giả đã tập trung làm sáng tỏ một số khía cạnh chủ yếu về lý luận và thực tiễn
của việc thực hiện quy chế dân chủ trong tình hình hiện nay ở nước ta.
- Nguyễn Thị Ngân, Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở một
số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ 2002 – 2003.
Tác giả tiến hành nghiên cứu thực trạng quy chế dân chủ cơ sở ở các vùng
đồng bằng sơng Hồng qua đó đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh và
hoàn thiện việc thực hiện quy chế dân chủ ở đồng bằng sông Hồng.
- Trần Khắc Việt, Thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay vấn đề đặt ra
và giải pháp, Tạp chí lý luận chính trị số 9, 2004. Tác giả chỉ ra những vấn đề
nảy sinh trong quá trình thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội ở nước ta đồng
thời đặt ra những giải pháp nhằm tiếp tục phát huy dân chủ trong tình hình
hiện nay.
- Hồng Chí Bảo¸ Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nơng thơn trong tiến
trình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007. Cuốn sách nêu nên tầm
quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là dân chủ cơ sở ở nông
thôn nước ta hiện nay; những hạn chế, yếu kém trong quá trình thực hiện dân
chủ ở cơ sở thời gian qua và những giải pháp khắc phục.
Bên cạnh những cơng trình thể hiện trên sách, báo, tạp chí, cịn có
những luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ viết về chủ đề này:
- Luận án Tiến sỹ năm 2005 của tác giả Nguyễn Thị Bích Thủy: “Thực
hiện dân chủ trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay”.
- Luận án Tiến sỹ Chính trị học năm 2007 của tác giả Nguyễn Thị
Tâm: “Dân chủ ở cơ sở và vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta
hiện nay”.



6

* Thứ ba: Các cơng trình nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở hiện nay:
- Luận văn Thạc sỹ khoa học Chính trị năm 2008 của tác giả Nguyễn
Thị Kim Chi: “Vận dụng tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh vào việc thực
hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay (từ thực tiễn thành phố
Cần Thơ)”.
- Luận văn Thạc sỹ Chính trị học năm 2012 của Đỗ Thị Hạnh: “ Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ vào việc thực hiện quy chế dân chủ ở
nơng thơn tỉnh Thái Bình (từ năm 1998 – 2010).
Mặc dù có nhiều cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở nhưng đề tài “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở huyện Yên Mỹ,
tỉnh Hưng Yên” vẫn chưa được đi sâu nghiên cứu. Tuy nhiên kết quả nghiên
cứu của các cơng trình nói trên là nguồn tư liệu hết sức quý giá để tác giả tiếp
thu, kế thừa và giải quyết đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung chính trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân chủ, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng nêu ra phương
hướng và đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện quy chế dân chủ cơ sở huyện
Yên Mỹ - tỉnh Hưng Yên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.
- Những nội dung chính của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
- Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong thực hiện quy

chế dân chủ cơ sở huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.


7

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và việc thực hiện quy
chế dân chủ cơ sở huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nội dung chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ và nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng đó trong thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở từ năm 2010 -2015 ở huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn này được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về dân chủ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch
sử - lôgic, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh…
6. Những đóng góp của đề tài
- Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ những nội dung chính
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, luận văn làm rõ thực trạng
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở hiện nay ở huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
- Luận văn nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao việc thực

hiện quy chế dân chủ cơ sở trong giai đoạn hiện nay ở huyện Yên Mỹ, tỉnh
Hưng Yên.


8

7. Ý nghĩa của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần làm sáng tỏ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.
Làm rõ nội dung chính trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở
huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên trong thời kỳ đổi mới đất nước và hội nhập
quốc tế.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chính quyền địa
phương và giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ cơ sở.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương và 5 tiết.


9

Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1.1. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về dân chủ
1.1.1. Cơ sở khách quan
Tư tưởng con người luôn là một sản phẩm lịch sử nên tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ cũng có bối cảnh ra đời cụ thể.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình gồm những con
người giàu lịng u nước, thương dân. Thân phụ của Người - cụ phó bảng

Nguyễn Sinh Sắc là người có tư tưởng “ái quốc là ái dân”. Cụ đã truyền dạy
cho các con một chân lý bất hủ: “Quốc dĩ dân lập. Dân dĩ quốc tồn. Vô dân
tắc quốc hà do thành. Vô quốc tắc dân hà sở ty” (Nước do dân lập nên. Dân
cịn thì nước cịn. Khơng có dân sao thành nước được. Khơng có nước thì dân
lấy đâu ra sự che chở). Quan điểm tiến bộ về nhân dân của người cha mẫu
mực đã ni dưỡng trong Hồ Chí Minh lịng thương dân sâu sắc để sau này
Người dấn thân vào cuộc đấu tranh vì quyền dân chủ và bình đẳng của nhân
dân. Mặt khác, sống trong một gia đình trí thức nơng thơn có cuộc sống thanh
bạch, mọi người đều phải lao động vất vả để tồn tại, Nguyễn Tất Thành thấu
hiểu cuộc sống vất vả của người dân dưới chế độ thuộc địa, thấu hiểu khao
khát được đảm bảo các quyền dân sinh, dân chủ. Càng lớn lên, Người càng
thấu hiểu tính phản động, chuyên chế của chế độ thực dân phong kiến khi ở
đó, chính quyền ra sức tước đoạt mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân, ở đó
tuyệt nhiên khơng có một Hiến pháp dân chủ. Người cũng nhìn ra 2 mâu
thuẫn cơ bản của xã hội thuộc địa nửa phong kiến và yêu cầu bức thiết phải
giải quyết cả vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ của cách mạng Việt Nam. Tất
cả đã hối thúc Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước để mang lại độc lập
cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Đó cũng là q trình đi tìm
một mơ hình nhà nước mới, thực sự dân chủ để vị trí tối thượng của người
dân trong xã hội được đảm bảo.


10

Trong hành trình vạn dặm đó, chứng kiến cuộc sống đau khổ của nhân
dân các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh thấy rõ bản chất vơ đạo, ăn cướp, phi
nhân tính của chủ nghĩa thực dân. Khát vọng đấu tranh để giành quyền độc
lập tự do, quyền bình đẳng, dân chủ cho nhân dân các nước thuộc địa ở người
thanh niên trẻ ngày càng được củng cố.
Dấn thân vào một cuộc sống cần lao và tranh đấu, cuối cùng Nguyễn Ái

Quốc – Hồ Chí Minh đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin và sự thắng lợi của
cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra trước mắt Người một mơ hình dân chủ
mới – dân chủ xã hội chủ nghĩa. Người quyết tâm đi theo Quốc tế III, giải
phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản để thiết lập một chế độ dân
chủ triệt để ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ cũng có ngọn nguồn từ truyền thống
văn hóa dân tộc. Mặc dù không trải qua chế độ dân chủ chủ nô và dân chủ tư
sản nhưng sự tồn tại mạnh mẽ của văn hóa làng xã với các thiết chế dân chủ
cơng xã như lệ làng, lệ tộc cũng đã góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ. Sau này, Hồ Chí Minh chủ trương chính thể dân chủ mới
phải tôn trọng những phong tục, tập quán của từng vùng miền nếu nó khơng
có hại tới lợi ích của nhân dân và tiến trình cách mạng.
Là người thấu hiểu văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống
thân dân, coi dân là gốc của các triều đại phong kiến tiến bộ để sau này khẳng
định: “Gốc có vững, cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Chính sách “vi cơng tuyển hiền”, chọn hiền tài vào bộ máy nhà nước một
cách công bằng của các triều đại phong kiến tiến bộ cũng là một chính sách
mang tinh thần dân chủ. Kế thừa tinh thần đó, vào ngày 20/11/1946, Hồ Chí
Minh cũng viết Thư tìm người tài đức và nỗ lực đưa những người tài đức ở
những vị trí rất khác nhau vào chính quyền dân chủ mới. Không chỉ vậy, các
vương triều phong kiến Đại Việt tiến bộ cũng có chủ trương khoan thư sức


11

dân. Đại việt sử ký tồn thư cịn ghi lại việc như sau: Năm 1618, một số quan
dâng tờ tâu lên Chúa Trịnh Tùng, đòi Chúa phải quan tâm đến lợi ích mọi mặt
của dân. Sớ tâu có nghi: “Thương ni dân mọn, phàm một tý gì tiện lợi cho
dân thì đều làm, một tý gì có hại cho dân thì đều bỏ” [10; tr.243-244]. Kế thừa
quan điểm này, sau này Hồ Chí Minh căn dặn: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải

hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân,
kính dân thì dân mới u ta, kính ta” [36; tr.65].
Đến thời cận đại, tư tưởng dân quyền của các nhà nho Duy Tân như
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng ảnh hưởng đến nhận thức của Hồ Chí
Minh về vấn đề dân chủ. Từ quan điểm “Dân là dân nước, nước là nước dân”
của Phan Bội Châu, sau này Hồ Chí Minh cũng đề ra chủ trương dựa vào dân,
phát huy quyền làm chủ của dân để bảo vệ nền độc lập dân tộc: “Dân ta phải
giữ nước ta/ Dân là con nước, nước là mẹ chung”.
Tóm lại, do yêu cầu của công cuộc trị thủy và chống giặc ngoại xâm,
các triều đình phong kiến tiến bộ ở Việt Nam đã thi hành những chính sách
mang yếu tố dân chủ. Điều này cũng dễ hiểu vì một phong trào dân tộc rộng
lớn bao giờ cũng hàm chứa những yếu tố dân chủ nhất định vì dân chủ sẽ là
điều kiện, cơ sở để tập hợp lực lượng. Những tư tưởng dân chủ và biểu hiện
dân chủ trong văn hóa truyền thống dù còn giản đơn cũng là cơ sở để Hồ Chí
Minh tiếp cận, so sánh và tiếp thu những giá trị dân chủ của nhân loại và chủ
nghĩa Mác- Lênin.
Được tiếp xúc với Nho học từ khi còn ấu thơ, tư tưởng nhân nghĩa,
thuyết đại đồng của Khổng Tử đã để lại dấu ấn sâu sắc trong nhận thức của
Hồ Chí Minh. Trong bài Phong trào Cộng sản quốc tế viết năm 1921, Hồ Chí
Minh đã viết: “Khổng Tử khởi xướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình
đẳng về tài sản. Ơng từng nói: Thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng.
Người ta khơng sợ thiếu, chỉ sợ khơng đều”. Sau này, Hồ Chí Minh phát triển


12

quan điểm đó thành: “Khơng sợ thiếu, chỉ sợ khơng cơng bằng; Khơng sợ
nghèo, chỉ sợ lịng dân khơng n” [47; tr.224]. Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng
nhận ra các mặt hạn chế trong tư tưởng dân chủ của Nho giáo như coi ý dân là
ý trời nhưng khơng có cơ chế, thiết chế để buộc vua quan thực hiện, coi dân là

gốc (dân vi bản) nhưng không phải dân là chủ mà vua vẫn là chủ (chế độ
quân chủ) và mọi quyền lực vẫn trong tay vua... Trên thực tế thì Nho giáo vẫn
thể hiện tư tưởng “trọng vương khinh bá, trọng quan khinh dân” nên dân chủ
không thể thực hiện đầy đủ. Trái ngược lại tư tưởng này của Nho giáo, Hồ
Chí Minh ln đề cao sức mạnh của nhân dân và luôn xác định cán bộ chỉ là
đầy tớ của dân.
Hồ Chí Minh cũng tiếp thu tư tưởng bình đẳng của đạo Phật. Sự đề cao
lao động, chống lười biếng theo tinh thần “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất
thực” của đạo Phật đã góp phần hình thành nên ở Hồ Chí Minh tư tưởng dân
chủ trong kinh tế mà cụ thể là quan điểm: Trong độ tuổi lao động, mọi người
đều có quyền lao động và có trách nhiệm phải lao động; sự phân phối cũng
phải dựa trên tiêu chí lao động.
Tiếp cận với văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đánh giá cao tư tưởng
tiến bộ tự do, bình đẳng, bác ái của các cuộc cách mạng tư sản. Người đã
từng đưa những định đề mang tính chân lý trong Tun ngơn độc lập của
nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp vào Tuyên
ngôn độc lập của Việt Nam. Lý giải về cuộc đấu tranh của nhân dân Việt
Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tơi tranh đấu từ trước tới bây giờ là
cũng tranh đấu theo như người Pháp đó thơi. Ba tiếng Tự do, Bình đẳng, Bác
ái đã làm cho Pháp thành một dân tộc tiên tiến, thì chúng tôi cũng chỉ muốn
tranh đấu để được như thế” [36; tr.213]. Người cũng tiếp thu tư tưởng đề cao
con người – điều đã được triết học Hy - La đề xướng và được phát triển mạnh
mẽ trong thời đại Phục hưng và thế kỷ Khai sáng. Vì thế, sau này Hồ Chí


13

Minh đã nói: “Chống chủ nghĩa cá nhân khơng có nghĩa là giày xéo lên cá
nhân” và lợi ích chính đáng của họ. Ngược lại, phải coi lợi ích, đặc biệt là lợi
ích vật chất là động lực tích cực của quần chúng lao động. Người rất nâng niu,

trân trọng cán bộ. Người cịn dặn: “Cất nhắc cán bộ khơng nên làm như “giã
gạo”. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Cất nhắc rồi không giúp
đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên. Một
cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời” [37; tr.322].
Người yêu cầu: “Người lãnh đạo cần phải tơn trọng lịng tự tin, tự trọng của
các đồng chí mình” [37; tr.322]. Đó chính là những quan điểm về dân chủ
trong chính trị của Hồ Chí Minh. Đặc biệt, Hồ Chí Minh cịn tiếp thu tư tưởng
dân quyền và nhà nước pháp quyền của các nhà Khai sáng như Vonte với tác
phẩm “Từ điển triết học”, Rútxô với “Khế ước xã hội”, Môngtexkiơ với
“Tinh thần pháp luật”... Phải khẳng định rằng việc Hồ Chí Minh chú tâm
nghiên cứu tư tưởng về nhà nước pháp quyền của các nhà tư tưởng thời Khai
sáng khơng phải là sự phán đốn mà chính báo cáo của mật thám Pháp theo
dõi Nguyến Ái Quốc tháng 3/1920 đã khẳng định: “Hiện Quốc đang dịch một
đoạn Tinh thần Luật pháp của Môngtexkiơ sang quốc ngữ” [55; tr.146]. Thậm
chí, Người dịch tiêu đề “Khế ước xã hội” của Rútxô là “Dân ước” [48; tr.89].
Trên cơ sở những quan điểm tiến bộ đó, Hồ Chí Minh đã hình thành nên tư
tưởng về một xã hội mà ở đó, “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” và
quyền con người nhất thiết phải được đảm bảo.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ
nghĩa Mác - Lênin “một phương lược cứu quốc đầy đủ nhất” [24; tr.141]. Tinh
thần dân chủ triệt để của chủ nghĩa Mác Lênin khi đặt ra mục tiêu giải phóng
con người khỏi mọi hình thức áp bức, xây dựng một xã hội mà sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người đã
giúp Hồ Chí Minh đi đến kết luận: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân


14

loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do,
bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất” [33; tr.496] và quyết tâm xây

dựng xã hội tốt đẹp đó ở Việt Nam. Phép tư duy biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin cũng giúp Hồ Chí Minh giải quyết hài hịa mối quan hệ giữa giữa cá nhân
và cộng đồng, giữa quyền lợi và trách nhiệm của một công dân để từ đó đưa ra
hệ thống quan điểm khoa học và nhân văn về dân chủ.
Quan điểm khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò
của quần chúng cách mạng trong lịch sử cũng là cơ sở lý luận để Hồ Chí
Minh hình thành quan điểm về vai trò to lớn của nhân dân – chủ nhân duy
nhất của xã hội. Vì thế, Người đã khẳng định: “Trong bầu trời khơng gì q
bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của
nhân dân” [42; tr.453]. Tin dân nên trong những thời khắc thuận lợi “ngàn
năm có một” của lịch sử, Người đã kêu gọi “toàn quốc đồng bào hãy đứng
dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” [35; tr.596]…
Phải khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác Lênin đã quyết định bản chất
cách mạng và khoa học của tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và làm cho tư
tưởng dân chủ Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng macxít.
Như vậy, trong sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói riêng, có nhiều nguồn ảnh hưởng nhưng
“nguồn nào thì cũng đều phải gạn đục, khơi trong và chính trong sự gạn đục
khơi trong đó mới tỏ rõ kỳ tài của nhà sáng tạo tư tưởng” [23; tr.33]. Do đó,
nhân tố chủ quan là điều rất quan trọng đến tầm vóc của một nhà tư tưởng.
1.1.2. Nhân tố chủ quan
Tư tưởng là sản phẩm của thời đại nhưng tư tưởng cũng là sản phẩm
của từng cá nhân cụ thể. Chẳng vậy mà sống cùng thời với Hồ Chí Minh thế
giới có mấy tỷ người, dân tộc Việt nam có trên 20 triệu người nhưng chỉ có
Hồ Chí Minh “làm rạng danh cho dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất


15

nước ta”. Điều đó chứng tỏ: Phẩm chất cá nhân như nhân, trí, dũng... đóng vai
trị quyết định trong sự xuất hiện của nhà tư tưởng.

Điều kiện đầu tiên để Hồ Chí Minh trở thành nhà tư tưởng lớn mà tư
tưởng dân chủ là một bộ phận hợp thành chính là lòng yêu nước thương dân
sâu sắc của Người. Với đặc điểm văn hóa phương Đơng, người Việt Nam
thường đánh giá một nhà tư tưởng và lựa chọn minh chủ trên cơ sở sự ngưỡng
mộ về đạo đức mà yêu nước chính là phẩm chất hàng đầu. Nếu thiếu phẩm
chất đó thì dù tài giỏi đến đâu cũng khơng thể trở thành thủ lĩnh dân tộc,
thành nhà tư tưởng. Lòng yêu nước vượt trội của Hồ Chí Minh đã giúp Người
có uy tín để quy tụ lịng dân. Mặt khác, “chính cái chủ nghĩa u nước dạt dào
tình nhân ái sẽ đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin” [23; tr.44].
Lịng u nước, thương dân cũng chính là động lực để Hồ Chí Minh dấn thân
vào cuộc đấu tranh địi quyền dân chủ, bình đẳng cho nhân dân cững như hết
lòng để xây dựng ở Việt Nam một nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân.
Trong lịch sử dân tộc và nhân loại đã có nhiều người bàn về dân chủ
nhưng để trở thành người có tư tưởng dân chủ thì người ấy phải có hệ thống
quan điểm có tính khái qt cao và những luận điểm trong đó phải có logic
nội tại để giải quyết trọn vẹn vấn đề dân chủ trong xã hội. Phẩm chất trí tuệ vì
thế có vai trị rất quan trọng trong sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ. Nhờ có trí tuệ sắc sảo nên Hồ Chí Minh mới nhận ra những hạn chế
trong tư tưởng dân chủ tư sản của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh mặc dù
Người rất kính trọng các vị tiền bối. Trí tuệ sắc sảo cũng giúp Hồ Chí Minh
một mặt tiếp nhận giá trị dân chủ phương Tây – một điều khá mới mẻ ở Việt
Nam nhưng mặt khác vẫn nhìn thấy những mặt hạn chế của dân chủ tư sản.
Người khơng bị cái hào nhống của chủ nghĩa tư bản đánh lừa mà vẫn nhận ra
đó là nền dân chủ của số ít. Điều này giúp Người tránh được tâm lý thờ
phụng và mang một mơ hình dân chủ tư sản không triệt để vào Việt Nam.


16

Quả thật, nếu Nguyễn Ái Quốc khơng là người có trí tuệ lớn thì “thấy Paris

tráng lệ mà thèm, thấy người ta văn minh hùng cường mà phục, thấy người ta
mạnh mà khiếp đảm, không dám đấu tranh hay là chỉ có ý dựa vào thầy Pháp
mà mong cho tớ Việt Nam lần lần tiến bước” [23; tr.58-59]. Trí tuệ cịn tạo
cho Hồ Chí Minh khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo trên tinh thần kế
thừa có chọn lọc chứ không sao chép bất cứ một tư tưởng, một học thuyết nào
về dân chủ. Khi quan sát nền dân chủ vơ sản ở nước Nga, Hồ Chí Minh nhận
ra nền dân chủ này tiến bộ hơn nền dân chủ phương Tây nhưng do thấu hiểu
yêu cầu của xã hội Việt Nam – một xã hội thuộc địa nửa phong kiến với
nhiệm vụ đoàn kết dân tộc để chống đế quốc giành độc lập dân tộc nên Người
không sao chép mơ hình nhà nước Xơ Viết vào Việt Nam. Người đã xây dựng
nên nhà nước dân chủ cộng hịa – một nhà nước của tồn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, giai cấp, đảng phái…Phẩm chất trí
tuệ của Người cũng được thể hiện ở việc Người đã đề ra chiến lược phát triển
đất nước đúng đắn sau khi giành được độc lập dân tộc. Từ khi dân tộc ta bị
mất nước, phong trào giải phóng dân tộc nào cũng đề ra khơi phục nền độc
lập dân tộc nhưng độc lập rồi thì đi đâu? Cải cách xã hội theo hướng nào để
quyền dân chủ của nhân dân được đảm bảo thì ngồi Hồ Chí Minh, khơng ai
giải quyết được. Năng lực tổ chức thực tiễn – biểu hiện chân xác của một trí
tuệ thiên tài và bản lĩnh cách mạng cũng giúp Người biến tư tưởng dân chủ
thành hiện thực dân chủ với việc xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ở Việt Nam. Phải khẳng định rằng không phải nhà tư tưởng nào cũng
thành công khi đưa tư tưởng vào thực tế. Các nhà tư tưởng của trường phái
chủ nghĩa xã hội khơng tưởng đã thể hiện điều đó. Ở Việt Nam thì Phan Bội
Châu là điển hình cho nhận định đó. Dù ơng rất thiết tha với độc lập dân tộc,
đã rất nhiều lần thay đổi tư tưởng để tìm ra con đường cách mạng phù hợp với
Việt Nam nhưng kết cục, đời ông vẫn “trăm lần thất bại không một lần thành


17


cơng”. Nhưng nhà tư tưởng Hồ Chí Minh đã thành công trong việc tạo dựng
một chế độ dân chủ mới ở Việt Nam. Đó chính là biểu hiện xác thực nhất về
năng lực trí tuệ và khả năng tổ chức thực tiễn của Người.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là sự hội tụ của nhiều ngọn
nguồn thơng qua bản lĩnh tiếp biến văn hóa của Hồ Chí Minh.
1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Trong cuộc đời mình, Hồ Chí Minh khơng để lại một trước tác riêng
biệt nào bàn về dân chủ nhưng Người đã để lại một hệ thống quan điểm hết
sức toàn diện và sâu sắc về dân chủ.
1.2.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Dân chủ - democracy là một từ có gốc từ tiếng Hy lạp. Demos là dân –
nhân dân; kratos là sự nắm quyền. Vì vậy, nghĩa gốc của từ democracy là
chính quyền của dân, quyền lực của dân.
Hồ Chí Minh là người có khả năng tiếp biến văn hóa và có năng lực
diễn đạt những khái niệm chính trị phức tạp, trừu tượng một cách giản dị và
nhất qn. Trong Hồ Chí Minh tồn tập, hàng ngàn lần Hồ Chí Minh sử dụng
cụm từ dân chủ [6; tr.61] nhưng tựu chung, Hồ Chí Minh cho rằng: Dân chủ
nghĩa là “dân là chủ” và “dân làm chủ”.
Người nói “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ” [39; tr.434]. Cụm từ “dân là chủ” thể hiện vị thế xã hội, địa vị pháp lý
tối thượng của nhân dân. Dân là chủ vì họ có sức mạnh rất to lớn. Ngay cả
những người bình thường cũng có những đóng góp quan trọng vào sự hưng
thịnh của xã hội. Hồ Chí Minh từng nói: “Những chiến cơng và thành tích
nổi bật, vang dội thì ai cũng có thể thấy được. Cịn nhưng việc nhỏ, bình
thường thơi, nhưng ích nước lợi dân, thì thì hay bị xem thường. Hình như
các chú cũng chưa coi trọng những việc nhỏ như thế. Các chú có biết biển cả
do cái gì tạo nên khơng? Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một


18


hướng mới thành suối, thành sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới
thành biển cả. Một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có cái nền rất vững
chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu
đài mà không chú ý đến cái nền. Như thế là chỉ thấy cái ngọn mà qn mất
cái gốc!” [47; tr.663].
Trong Hồ Chí Minh tồn tập, cụm từ “dân làm chủ” cũng xuất hiện
nhiều lần. Người nói: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân
dân làm chủ” [41; tr.258]; “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm
chủ” [45; tr.10]. Cụm từ “dân làm chủ” thể hiện trách nhiệm làm chủ, năng
lực thực hành dân chủ và ý thức làm chủ của dân. Như vậy, Hồ Chí Minh
ln nhất quán cho rằng: Dân là chủ xã hội thì dân phải có trách nhiệm, năng
lực và ý thức làm chủ cho tốt. Thực ra, trong 2 vế “dân là chủ” và “dân làm
chủ” thì dân làm chủ mới có giá trị thực tế vì nhiều khi dân là chủ đất nước
nhưng khơng biết làm chủ, khơng có năng lực làm chủ. Vì thế, Hồ Chí Minh
ln trăn trở: “Làm sao người dân biết hưởng quyền là chủ và có ý thức làm
chủ?”. Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Tơi xin nói với đồng bào: Nước ta là
nước dân chủ… Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền ấy. Cũng như tất
cả công dân Việt Nam đều phải hiểu rõ và làm tròn nghĩa vụ kháng chiến cứu
quốc” [38; tr.397]. Dân làm chủ là đích đến khá khó khăn cịn bởi muốn đạt
được mục tiêu đó thì nhà nước phải xây dựng các thiết chế cần thiết. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: “Ủy ban nhân dân là Ủy ban có nhiệm vụ thực hiện tự do
dân chủ cho dân chúng. Nó phải hành động đúng tinh thần tự do dân chủ đó”
[36; tr.22]. Rõ ràng, chỉ khi nào dân đủ năng lực làm chủ, làm chủ một cách
xuất sắc thì dân mới thực sự là chủ. Cịn nếu khơng thì chỉ là chủ trên danh
nghĩa mà thôi. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân làm chủ chính là mục tiêu,
bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.


19


Hồ Chí Minh cịn cho rằng: Dân chủ là một chế độ xã hội mà lợi ích
hướng về dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Điển hình cho quan
điểm này là đoạn mở đầu tác phẩm Dân vận(1949) của Người:
“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Cơng việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là cơng việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [38; tr.232].
Tóm lại, với Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa là quyền làm chủ, là chủ
của nhân dân, xã hội dân chủ là một xã hội mà ở đó mọi quyền lực thuộc về
nhân dân. Với luận điểm này, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cuộc cách mạng
trong nhận thức về dân chủ so với tư tưởng dân chủ thời phong kiến và dân
chủ tư sản. Với ý thức hệ phong kiến, các nhà tư tưởng cho rằng “dân chủ” có
nghĩa là “chủ của dân” tức là vua quan, còn dân là thần dân, thảo dân, dân
đen, cần sự “chăn dắt” của vua quan. Dân chủ tư sản chỉ đem lại lợi ích cho
những người giàu có. Đó là nền dân chủ giành cho thiểu số. Trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, nhân dân đơng đảo chính là người chủ và họ có trách nhiệm
làm chủ xã hội.
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của dân chủ
Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn trăn trở “làm sao cho nhân dân biết
hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”
[47; tr.293] bởi Người cho rằng dân chủ có những vai trị hết sức quan trọng
như sau:


20


Thứ nhất, dân chủ là mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Lịch sử nhân
loại đã chứng kiến sự thay thế của nhiều mơ hình dân chủ như dân chủ chủ
nô, dân chủ tư sản đến dân chủ xã hội chủ nghĩa… Với mong muốn thiết lập
một một nền dân chủ ngày càng mang tính dân chủ hơn. Hồ Chí Minh là một
nhà mácxít nên ở mọi chặng đường cách mạng, Người luôn coi dân chủ là
mục tiêu của cách mạng, là điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Năm
1941, sau khi Hồ Chí Minh về nước, Chương trình Việt Minh do Người chỉ
đạo soạn thảo đã xác định rõ: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ
thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” [16;
tr.150]. Như vậy, mục tiêu cụ thể của cách mạng lúc này chính là thiết lập
một nhà nước mang tính dân chủ. Thực hiện đúng chủ trương đó, sau Cách
mạng Tháng Tám, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời và “dân
chủ” trở thành một đặc trưng bản chất của nước nhà nước cách mạng. Khi cả
nước đang ra sức kháng chiến chống thực dân Pháp, trong Báo cáo Chính trị
tại Đại hội Đảng II, Hồ Chí Minh xác định rõ mục tiêu trước mắt của Đảng
Lao động Việt Nam lúc này là “lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây
dựng điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã hội” [39; tr.41]. Như vậy, xây dựng
một xã hội dân chủ - tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ trọng
yếu của cách mạng Việt Nam lúc này. Ngay cả trong Di chúc để lại, xây dựng
một xã hội có đặc tính dân chủ đã trở thành di nguyện của Người: “Điều
mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu,
xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [47; tr.624].
Hiện thực hóa và trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước cách mạng
ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay dù thực hiện những chức năng, nhiệm vụ
khác nhau nhưng ở chặng đường nào cũng đều có đặc tính dân chủ. Nhà nước
trong giai đoạn 1945 - 1954 là nhà nước dân chủ nhân dân; nhà nước trong



×