Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.43 KB, 11 trang )

CHỦ ĐỀ: GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ VAI TRỊ CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY
BÀI LÀM

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI
TRỊ CỦA ĐẢNG ..........................................................................................................3
1.1.

Quan điểm của Mác-Lenin về tính tất yếu phải có Đảng .............................3

1.2.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu phải có Đảng .........................3

1.3.

Vai trị lãnh đạo của ĐCSVN ..........................................................................3

1.4.

Ý nghĩa ..............................................................................................................4


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY.........................5
2.1.

Tầm quan trọng của Đảng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay .....................5



2.2.

Thực trạng ........................................................................................................5

2.3.

Nguyên nhân .....................................................................................................7

2.4.

Giải pháp ...........................................................................................................7

KẾT LUẬN ....................................................................................................................8
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................9

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CNH, HĐH
ĐCSVN
HCM
CM
VN
CMVN
CMVS
CMTG

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đảng cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh

Cách mạng
Việt Nam
Cách mạng Việt Nam
Cách mạng Vô sản
Cách mạng Thế giới


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người anh hùng vĩ đại của dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại của
nhân loại, người đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư
tưởng về nhiều mặt. Tư tương Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hịa và phát triển
biện chứng tư tưởng văn hóa, giáo dục với chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cùng
với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh-một
con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách, phẩm chất
cách mạng cao đẹp tạo nên. Tư tưởng của Người có thể được xem như là tư tưởng Việt
Nam hiện đại với những giá trị lý luận và giá trị thực tiễn sâu sắc.
Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã chỉ ra, sự lãnh đạo của Đảng không phải là quyền
lực mà đảng tự đặt ra cho mình, cũng khơng phải do sự áp đặt đối với quần chúng, mà
phải do quần chúng thừa nhận một cách tự nhiên. Có như vậy, Đảng mới đồn kết được
dân tộc, mới trở thành lãnh tụ của dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam tn theo những quy luật khách
quan, đó chính là sự vận dụng, phát triển của phong trào công nhân kết hợp với chủ
nghĩa mác – Lênin và phong trào yêu nước của dân tộc. Bởi vậy, từ khi Đảng xuất hiện
theo quy luật vừa phổ biến vừa đặc thù đó đã đưa cách mạng Việt Nam vào một bước
ngoặt, mở ra một chân trời triển vọng mới cho dân tộc ta phát triển.
Có thể nói lịch sử thăng hoa của đất nước ta hôm nay gắn liền với lịch sử thăng trầm
sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ khi thành lập đến nay, nhờ có lý

luận tiên phong dẫn đường, Đảng đã dẫn đường nhân dân ta dành hết thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới (1986) đến nay, Đảng đã có
nhiều đóng góp trong sự nghiệp lý luận, đặc biệt là những luận điểm mới chủ nghĩa xã
hội và con đường chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong suốt quá trình đổi mới, nhìn chung công tác lý luận vẫn không kịp
sự phát triển của thực tiễn, vẫn khơng ít cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên chưa nắm
chắc những vấn đề lý luận về cơng tác tư tưởng. Thậm chí, ở một số nơi, tình trạng này
vẫn cịn vơ hiệu hóa các giải pháp có giá trị về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
tư tưởng của cấp ủy, các tổ chức Đảng. Do đó nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ của Đảng
trong giai đoạn mới hiện nay có ý nghĩa quyết định việc thực hiện mục tiêu phấn đấu,
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Địi hỏi cần phải
có một sự lãnh đạo của Đảng và sự hưởng ứng nhiệt tình đơng đảo quần chúng nhân dân
thì đất nước mới hồn thành sứ mệnh lịch sử. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới, thực
hiện CNH, HĐH thì vai trị lãnh đạo của Đảng càng mang tính thời sự và cấp thiết.


2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích nghiên cứu
Làm rõ hệ thống giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò
của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay.
 Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa và phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng. Phân tích giá
trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng, đặc biệt
trong bối cảnh đổi mới căn bản, hiện đại, toàn diện ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta
hiện nay.
 Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh
về vai trò của Đảng được thể hiện trong các tác phẩm cũng như tư tưởng Hồ Chí
Minh được Đảng và Nhà nước vận dụng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
4. Kết cấu của đề tài
Chương 1: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng
Chương 2: Thực trạng về vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay
5. Đóng góp mới của đề tài

- Góp phần làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng
- Khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của
Đảng đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay.

- Đề tài cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, học
tập và giảng dạy, đồng thời có thể dùng để tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh.


3
CHƯƠNG 1: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
VAI TRỊ CỦA ĐẢNG
1.1. Quan điểm của Mác-Lenin về tính tất yếu phải có Đảng
Từ thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân ở một số nước trên Thế giới, Chủ nghĩa
Mác-Lenin đã chỉ ra rằng:
Giai cấp cơng nhân là giai cấp duy nhất có khả năng chủ động về mặt xã hội và
chỉ giai cấp công nhân mới có bản chất cách mạng.
Trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hợp của các giai cấp hữu
sản, giai cấp công nhân chỉ khi được tổ chức thành một chính Đảng độc lập đối lập với
tất cả các chính Đảng cũ do do giai cấp hữu sản lập nên thì mới có thể hoạt động.
1.2.


Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu phải có Đảng
Theo HCM, ĐCSVN có vai trị là người lãnh đạo CM và đưa sự nghiệp CM đi

đến thành công. HCM cho rằng: Giai cấp mà khơng có Đảng lãnh đạo thì khơng làm
được CM. Vì vậy trong tác phẩm Đưởng cách mệnh (năm 1927), HCM khẳng định:
Cách mạng trước hết phải có "đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có
vững, cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vũng thuyền mới chạy”[5].
Khẳng định đẳng cộng sản “như người cầm lái” cho con thuyền là quan điểm
nhất quán của HCM về vai trò lãnh đạo của ĐCSVN trong suốt cả quá trình cách mạng,
cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yểu, vai trò lãnh đạo của
Đảng cũng là một tất yếu – điều đó xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam.
Thực tế quá trình cách mạng Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng HCM đã nói lên
rằng, sự bảo đảm, phát huy vai trị lãnh đạo của ĐCSVN trong suốt tiến trình phát triển
của đất nước theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội là một nguyên tắc vận hảnh của xã hội Việt
Nam từ khi có Đảng.[1]
Vai trị lãnh đạo của ĐCSVN
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lenin làm nền tảng tư tưởng, từ đó xây dựng đường lối
chiến lược, sách lược cách mạng. Từ khi Đảng ra đời chỉ ra cho dân tộc Việt Nam đi
theo con đường CMVS. Nhờ đó CMVN đã đi đúng với quy luật của lịch sử, không
những phù hợp với lsử dân tộc mà còn phù hợp với lsử của thời đại. Vì vậy, CMVN đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tổ chức, đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng. HCM cho rằng: Muốn khỏi đi
lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối

1.3.


4

và định phương châm cho đúng. Vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với cách mạng Việt
Nam đã được thực tế lịch sử chứng minh là đúng đắn.
Vai trò của ĐCSVN còn được thể hiện ở vai trò tiên phong, gương mẫu của cán
bộ, đảng viên. Với quan điểm “Cán bộ là gốc của mọi việc”, HCM và Đảng ta đã luôn
đề cao, chú trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên để qua đó, uy tín của Đảng
khơng chỉ dựa vào uy tín của riêng một cá nhân nào, mà là uy tín của cả tập thể, của tồn
Đảng. Chính vì vậy, cho dù trải qua bao đấu tranh gian khổ, hy sinh mất mát trong các
giai đoạn kháng chiến... nhưng vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn được duy trì cho đến tận
ngày nay.
Chủ tịch HCM đã nói: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vơ sản ta đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”[6]. Làm CM là rất gian khổ, phải có chí
khí kiên quyết, phải được tổ chức chặt chẽ. Vì vậy phải có Đảng để tổ chức và giáo dục
nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để giành lấy chính quyền.
Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo
ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, có khả năng đồn
kết tập hợp các tầng lớp nhân dân khác làm cách mạng. Đảng là đội tiền phong dũng
cảm và là đội tham mưu sáng suốt. ĐCSVN tận tâm, tận lực phụng sự Tổ Quốc, phụng
sự nhân dân, trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc,
Đảng khơng có lợi ích nào khác ngồi lợi ích của nhân dân và của dân tộc. Mục tiêu
phấn đấu của Đảng là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho mọi người.
Thực tiễn CMVN đã chứng minh: ĐCSVN là người lãnh đạo, tổ chức, thực hiện
và quyết định mọi thắng lợi của CMVN.
Ý nghĩa
Giá trị lý luận: Hồ Chí Minh góp vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
về quy luật hình thành Đảng. Là cơ sở, nền tảng để Đảng ta đề ra được những quan điểm

1.4.

xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sự nghiệp đổi mới.

Giá trị thực tiễn: Đảng ta đã từng bước đổi mới, tự chỉnh đốn về tất cả các mặt
và đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Từ Đại hội X. Đảng ta khẳng định nâng
cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển. Tuy nhiên, so với yêu cầu của cách mạng trong bối cảnh mới của thế giới thì
nhiệm vụ xây dựng Đảng cịn rất nặng nề. Nhưng chúng ta tin tưởng rằng, với di sản
HCM về ĐCSVN. Đảng ta nhất định sẽ đạt nhiều kết quả tốt đẹp trong công tác xây
dựng Đảng trong thời gian tới.


5
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
Tầm quan trọng của Đảng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay
Có thể nói, vai trị lãnh đạo của ĐCSVN đối với giai cấp, dân tộc và xã hội được
xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ và đồng thuận của các tổ chức có liên quan. Đây

2.1.

là một yếu tố quan trọng, bảo đảm tính chính danh đầy đủ của Đảng được quy định tại
Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013:
1) ĐCSVN, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
2) Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.
3) Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng xuyên
suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là một nguyên
tắc nhất quán của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị - xã hội mà Đảng
ta, nhân dân ta đã lựa chọn.[7]
2.2. Thực trạng

 Ưu điểm
Đảng và Nhà nước đã từng bước củng cố và xây dựng, qua đó đã tạo nên được những
thành tựu trong cơng cuộc đổi mới đất nước:
Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu
chủ yếu của kế hoạch 5 năm.
Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hăng năm về tổng sản phẩm trong nước
(GDP) đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5%), về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất
nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi: tỉ
trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% (1990) đến 29,1% (1995); dịch vụ
từ 39,6% lên 41,9%. Hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường. Quan hệ sản xuất được điều
chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.
Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội.
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung bình
và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa
của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt
động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, thơng tin đại chúng, cơng tác kế hoạch hóa
gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ.


6
Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát
huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm,
tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.
Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phịng, an ninh.
Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và mơi trường hịa bình của
đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới.
Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược quốc
phòng, an ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống lực lượng

vũ trang được đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và công an
được nâng lên. Thế trận quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Cơng
tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được tăng cường.
Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố Đảng và
chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội; đã ban
hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản pháp
luật quan trọng, tiến hành cải cách một bước nền hành chính Nhà nước, tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia
tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.
Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và công
nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ trên thế giới;
thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước. Mở rộng hoạt động đối ngoại
của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội. Phát triển quan hệ với các tổ chức phi chính
phủ trên thế giới.
Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ bn bán với
trên 100 nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào
nước ta. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho ta viện trợ khơng hồn lại hoặc
cho vay để phát triển.
 Hạn chế
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm vạch rõ những suy thoái của một số cán bộ, đảng viên
và cảnh báo hai nguy cơ đối với một Đảng cầm quyền: một là, sai lầm về đường lối; hai
là, sự suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm
kỳ Đại hội VII của Đảng (1/1994), Đảng đã bổ sung và xác định có 4 nguy cơ đối với


7
Đảng và cách mạng Việt Nam lúc này là: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều

nước trong khu vực và trên thế giới, do điểm xuất phát thấp; nguy cơ sai lầm về đường
lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về tệ nạn tham nhũng và tệ quan
liêu, lãng phí; nguy cơ “Diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch.
2.3.

Nguyên nhân
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện các Nghị quyết
của Ðảng hiệu quả chưa cao, chưa tạo được sự lan tỏa lớn. Nhiều cán bộ, đảng viên,
trong đó có lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa xác định rõ trách nhiệm và chưa thật sự
gương mẫu trong rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, tác phong, còn trục
lợi, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Ðặc biệt, có cán bộ cấp cao, cả đương chức và nghỉ
hưu, đã vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Ðảng, pháp luật của Nhà nước, gây dư luận
xấu trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

2.4. Giải pháp
Ðể khắc phục những hạn chế của mình, đồng thời làm thất bại mọi âm mưu chống phá
của các thế lực thù địch, thực hiện thắng lợi cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, hơn lúc nào hết Ðảng cần và phải nâng cao năng lực lãnh đạo của
mình. Theo đó, tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, củng cố và mở rộng nền tảng xã hội của Ðảng, tiếp tục giành được sự ủng
hộ tuyệt đối của nhân dân.
Theo quan điểm mác-xít, chính đảng là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp, là tổ chức
chính trị đại diện cho giai cấp và tập đoàn nhất định trong xã hội có giai cấp. Một trong
những chức năng cơ bản của chính đảng là phản ánh lợi ích, nguyện vọng và yêu cầu
của giai cấp, tầng lớp, tập đoàn nhất định. Vì thế, Ðảng khơng chỉ phải làm tốt vai trò là
người lãnh đạo, mà còn phải làm tốt bổn phận "là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân".
Ðảng phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư.
Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về "Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Ðảng
đối với công tác dân vận trong tình hình mới" có ý nghĩa quan trọng với vai trò lãnh đạo

của Ðảng. Bởi, hơn bao giờ hết, mỗi cán bộ, đảng viên của Ðảng phải thực sự "hết lịng
vì dân", mới "được dân hết lịng vì Ðảng".
Hai là, phòng, chống triệt để những biểu hiện quan liêu, độc đoán, chuyên quyền,
cơ hội chủ nghĩa, kiêu ngạo cộng sản.
Mỗi cán bộ, đảng viên của Ðảng quán triệt và thực hiện tốt chức trách và công việc được
giao, kiên quyết đấu tranh phịng, chống các biểu hiện: "Miệng thì nói dân chủ, nhưng
làm việc thì họ theo lối "quan" chủ. Miệng thì nói "phụng sự quần chúng", nhưng họ


8
làm trái ngược với lợi ích của quần chúng"[2]. Nếu lãnh đạo chỉ thiên về quyền lực "làm
việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm"[3], là đồng
nghĩa với lãnh đạo thiếu văn hóa. Văn hóa cầm quyền của Ðảng là phải "sao cho được
lịng dân", "Chính phủ là cơng bộc của dân"[4].
Ba là, lãnh đạo thực hiện hiệu quả Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, xây dựng hình tượng cán bộ, đảng viên trong sạch, liêm khiết.
Trong bối cảnh hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm chỉnh chấp hành
Cương lĩnh, Ðiều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Ðảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; gương mẫu thực hiện các quy định của Ban Bí thư, quy định của Bộ
Chính trị, quy định của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương, xây dựng
hình tượng cán bộ, đảng viên trong sạch, liêm khiết; kiên quyết khắc phục sự suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; nâng cao
lập trường cách mạng, bản chất giai cấp công nhân của Ðảng; ra sức học tập đạo đức,
phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng dưới mọi
hình thức; nêu cao tính đảng, tính gương mẫu trong q trình tự tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

KẾT LUẬN
Hơn 30 năm đổi mới là giai đoạn lịch sử quan trọng của cách mạng Việt Nam,

đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt về vai trò và sự lãnh đạo của Đảng ta. Đổi mới mang
tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện và triệt để, là
sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, thể hiện tài năng
lãnh đạo của Đảng ta. Đất nước ta đã đạt được những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang
phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế
tăng trưởng khá; nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từng bước được hình thành;
chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước
phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; dân chủ XHCN được
phát huy và ngày càng mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị
được đẩy mạnh. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên; độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững. Quan hệ đối ngoại
ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế ngày càng được nâng cao.


9

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục – Đào tạo, Nhà Xuất bản
Chính trị quốc gia – Hà Nội, 2019
2. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t6, tr.292
3. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t5, tr.293
4. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t4, tr.21
5. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t2, tr.289
6. Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.12, tr.406.
7. Trung tướng Trần Việt Khoa (2019), Khẳng định vai trị lãnh đạo của Ðảng
trong cơng cuộc đổi mới và phát triển đất nước, Báo Nhân dân




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×