Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

CÔNG tác vận ĐỘNG QUẦN CHÚNG LIÊN hệ địa PHƯƠNG CÔNG tác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.81 KB, 35 trang )

TỈNH ỦY LÂM ĐỒNG
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

*

BÀI THU HOẠCH
PHẦN VI: TÌNH HÌNH, NHIỆM VỤ
CỦA ĐỊA PHƯƠNG

TÊN BÀI THU HOẠCH:

“CƠNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG.
LIÊN HỆ ĐỊA PHƯƠNG CÔNG TÁC”

Lớp: Trung cấp LCT - HC Khóa 79
Hệ: Khơng tập trung

Số phách:………………
Điểm:…………………..

Lâm Đồng, tháng 10 năm 2021


TỈNH ỦY LÂM ĐỒNG
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

*

BÀI THU HOẠCH
PHẦN VI: TÌNH HÌNH, NHIỆM VỤ
CỦA ĐỊA PHƯƠNG



TÊN BÀI THU HOẠCH:

“CƠNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG.
LIÊN HỆ ĐỊA PHƯƠNG CÔNG TÁC”

Học viên thực hiện: NGUYỄN VĂN THƯỜNG
Đơn vị: Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt
Lớp: Trung cấp LLCT - HC Khóa 79
Hệ: Khơng tập trung

Số phách:…………

Lâm Đồng, tháng 10 năm 2021
2


LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành được bài thu hoạch “Tình hình, nhiệm vụ của địa phương” tơi
xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành nhất đến Ban Giám hiệu, Lãnh đạo Phòng Quản lý
Đào tạo và Nghiên cứu khoa học trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng và đặc biệt là quý
Thầy Cô tham gia giảng dạy học phần VI cho lớp Trung cấp Chính trị - Hành chính
K79 tuy là hình thức dạy học trực tuyến nhưng với sự tận tình giúp đỡ của q Thầy
Cơ đã giúp tơi nhận thức được nhiều vấn đề về kiến thức thú vị và hấp dẫn về lịch sử
đảng bộ tỉnh Lâm Đồng, lịch sử Lâm Đồng trong các thời kỳ kháng chiến chống Pháp,
Mỹ và thời kỳ đổi mới hiện nay, tình hình kinh tế xã hội tỉnh Lâm Đồng trong năm
2020, đặc biệt là vấn đề công tác vận đồng quần chúng tại địa phương trong giai đoạn
hiện nay…
Trong quá trình học tập và nghiên cứu bản thân tôi thấy chủ đề “Công tác vận

động quần chúng. Liên hệ địa phương công tác” là một trong những chủ đề hay,
thông qua những bài giảng, bài chia sẻ của Thầy Cô và cùng trao đổi thảo luận tích cực
của lớp chúng tơi đã thu nhận được nhiều kiến thức bổ ích cho mình. Trong quá trình
học tập, tìm hiểu và nghiên cứu mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng bài thu hoạch
khơng tránh được những thiếu sót, rất mong nhận được sự chỉ dẫn và đóng góp thêm
của các Thầy, Cơ giáo để thu hoạch của tơi được hồn chỉnh hơn.
Tơi xin trân thành cảm ơn!

3


DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
SV: Sinh viên
GV: Giảng viên
CB: Cán bộ
CĐSP: Cao đẳng sư phạm
GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo
BCHTW: Ban chấp hành trung ương
CT/TW: Chỉ thị/ Trung ương
CBVC: Cán bộ viên chức
BD: Bồi dưỡng
NCKH: Nghiên cứu khoa học
CĐT: Cơng đồn trường
BGH: Ban giám hiệu
UBND: Ủy ban nhân dân
VHVN: Văn hóa văn nghệ
TDTT: Thể dục thể thao

4



MỤC LỤC
Mục
Phần I
Phần II
I.
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.

Nội dung
Trang
MỞ ĐẦU
08
NỘI DUNG
10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
10
Một số khái niệm cơ bản
10
Khái niệm quần chúng
10
Khái niệm Công tác vận động quần chúng
11
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác vận động quần
12
chúng
1.2.
Vai trò của quần chúng nhân dân và những nội dung cơ bản của

13
công tác vận động quần chúng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1.
Về vai trị của quần chúng nhân dân
13
1.2.2.
Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác vận
15
động quần chúng nhân dân
II.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG
21
QUẦN CHÚNG
2.1
Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc tại Đảng
22
ủy cơ sở
2.2
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền ở địa phương
23
trong công tác vận động quần chúng
2.3
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng
23
2.4
Tiếp tục quan tâm xây dựng đội ngũ, cán bộ công chức thực hiện
24
công tác vận động quần chúng
III.
LIÊN HỆ VIỆC THỰC HIỆN CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN

24
CHÚNG TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ĐÀ LẠT
3.1.
Đặc điểm tình hình trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt
24
3.2
Kết quả thực hiện công tác vận động quần chúng ở trường CĐSP
26
Đà Lạt
3.2.1.
Về cơng tác chính trị, tư tưởng
26
3.2.2.
Kết quả việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII) và Chỉ
26
thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị
3.2.3
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
27
phong cách Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng
trong giai đoạn mới.
3.2.4.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác vận động quần chúng tại nhà trường
28
3.3.
Những hạn chế, khuyết điểm
29
3.4.
Nguyên nhân
30

3.4.1.
Nguyên nhân của kết quả đạt được
30
3.4.2.
Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm
30
3.5.
Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng ở
31
trường CĐSP Đà Lạt
Phần II
33
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5


35

TÀI LIỆU THAM KHẢO

6


NỘI DUNG BÀI THU HOẠCH

“CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG.
LIÊN HỆ ĐỊA PHƯƠNG CÔNG TÁC”
Cấu trúc nội dung bài thu hoạch bao gồm 3 phần cơ bản:
PHẦN I: MỞ ĐẦU

PHẦN II: NỘI DUNG
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

7


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Công tác quần chúng của mỗi đảng viên phải nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ,
mục tiêu chung về công tác vận động quần chúng của Đảng ở mỗi đơn vị, cơ quan
bằng những việc làm thiết thực của mình. Một mặt, phải tích cực tham gia cơng tác
quần chúng của chi bộ, của các đồn thể, mặt khác phải làm công tác vận động riêng
biệt từng quần chúng do chi bộ phân công. Trong mỗi cơ quan, đơn vị, tổ chức của
Đảng đã động viên và tổ chức quần chúng thực hiện các nhiệm vụ, chỉ tiêu đã đề ra
nhằm nâng cao hiệu quả công việc và cải thiện đời sống; đồng thời bảo đảm việc tăng
cường cơng tác chính trị tư tưởng, xây dựng con người mới hướng vào việc hoàn
thành nhiệm vụ trên. Đảng viên không phải là người duy nhất tuyên truyền, giáo dục
quần chúng trong mỗi cơ quan, đơn vị mà còn có tồn thể bộ máy của Đảng, Nhà
nước và các đồn thể cũng làm cơng tác nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, Người đã dành tất cả
tình cảm, trí tuệ và cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Người đã để lại cho dân tộc ta một di sản vơ giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó
có quan điểm sâu sắc về vai trị của quần chúng nhân dân, đây cũng là yếu tố vô cùng
quan trọng để Hồ Chí Minh xác định sức mạnh to lớn của nhân dân ta.
Truyền thống trọng dân, dân là gốc trong tiến trình lịch sử Việt Nam và những
bài học kinh nghiệm qua các triều đại phong kiến Việt Nam cũng là cơ sở hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của quần chúng nhân dân. Lịch sử đã chứng minh:
Mỗi triều đại phong kiến Việt Nam trong thời kì hưng thịnh đều có quan điểm về dân
đúng đắn, tích cực nên được dân ủng hộ, tập trung được sức mạnh của dân, đánh
thắng được giặc ngoại xâm xây dựng được đất nước phồn thịnh. Kết quả này do nhiều
nguyên nhân, nhưng cơ bản nhất là vua, quan không quan tâm đến dân, không đủ

năng lực để điều hành đất nước, quan lại kéo bè, kéo cánh, đục kht nhân dân, từ đó
lịng dân ly tán, chính quyền sụp đổ. Khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, các
phong trào của nhân dân ta diễn ra thường xuyên nhưng đều thất bại. Hồ Chí Minh
nhận thấy vai trò của quần chúng nhân dân rất quan trọng và Người đã đi sâu vào
công tác quần chúng để thức tỉnh họ. Phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân
trong thời đại mới thì Đảng và Nhà nước cần tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về cơng tác vận động quần chúng trong tình hình mới, luôn luôn coi công tác vận
động, tổ chức quần chúng nhân dân tham gia vào mọi công việc của đất nước.
Nói đến cơng tác vận động quần chúng, Hồ Chí Minh đã triển khai “cơng tác
này một cách triệt để, rõ ràng và thực hiện rộng rãi ở nhiều nơi trên đất nước.
Công tác vận động quần chúng là một công tác quan trọng tác động đến sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội, tác động sâu sắc đến các phong trào ở địa phương. Cần

8


nâng cao công tác vận động quần chúng ở mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị phát huy
những mặt tích cực và hạn chế trong cơng tác này nhằm góp phần xây dựng sự nghiệp
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Được thành lập từ năm 1976, trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt là một trung
tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục cho các cấp học
Mầm non, Tiểu học, THCS trình độ cao đẳng. Liên kết đào tạo trình độ đại học, văn
bằng 2 đại học và đặc biệt hiện nay nhà trường đẩy mạnh phát triển các ngành Giáo
dục nghề nghiệp thuộc Bộ LĐTB&XH theo tiêu chuẩn quốc gia và Asean có phẩm
chất, năng lực, trình độ chun mơn đáp ứng u cầu nguồn nhân lực xã hội.
Trong công tác vận động quần chúng, Đảng ủy trường CĐSP Đà Lạt cũng tích
cực quan tâm lãnh đạo việc đẩy mạnh công tác phát triển Đảng, lãnh đạo các chi bộ, tổ
chức đoàn thể quần chúng trong trường thực hiện tốt Nghị quyết chuyên đề về công
tác phát triển đảng trong đội ngũ cán bộ viên chức và sinh viên. Xác định được quần
chúng là lực lượng đơng đảo trong nhà trường chính vì vậy Đảng ủy nhà trường cũng

thực hiện nhiều chương trình ý nghĩa, thiết thực nhằm thu hút đại bộ phần quần chúng
tham gia.
Xuất phát từ những lý do cơ bản trên trong nội dung bài thu hoạch này chúng
tôi tập trung đi sâu nghiên cứu về vấn đề “Công tác vận động quần chúng. Liên hệ
địa phương công tác”.

9


PHẦN II: NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm quần chúng
Từ rất lâu quan niệm về quần chúng hay còn được gọi là dân, nhân dân được
những nhà Nho giáo hoặc một số vị vua quan niệm như sau:
Một là, “dân” trong quan niệm của Khổng Tử là Thần dân trăm họ, là “bá tính”
chịu sự cai quản thống trị của người chịu cai quản cao nhất là vua. Khổng Tử cũng có
những tư tưởng trọng dân và hết sức vì dân. Theo Khổng Tử, đức tin của dân giữ một
vai trò quan trọng, nếu thiếu lòng tin của nhân dân thì chính quyền sớm muộn cũng sẽ
sụp đổ. Khổng Tử không chỉ quan tâm đến việc nuôi, dưỡng dân về mặt vật chất, chăm
lo đời sống tinh thần cho nhân dân.
Hai là, trong tư tưởng của Mạnh Tử dân là người lao động chân tay, họ đã và
đang sản xuất ra của cải vật chất duy trì sự tồn tại của xã hội”. Mạnh Tử chú trọng
đến việc chăm lo đời sống no đủ cho nhân dân, có thể nói tư tưởng “trọng dân”, “tín
dân”, “dân vi quý”, quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần cho dân, coi nhẹ hình
phạt giáo hóa dân của Khổng Tử và Mạnh Tử đã trở thành tư tưởng tiền đề cho các học
thuyết nói chung và quan điểm về “dân” “vai trị nhân dân của Hồ Chí Minh” nói
riêng. Chủ nghĩa tam dân của Tơn Trung Sơn”, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng tam
dân đó là: “độc lập dân tộc, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Tư tưởng này đề
cao hết sức vai trò của nhân dân và nó trở thành ba nguyên tắc: “Độc lập - Tự do Hạnh phúc” của cả nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng

lập sau này.
Ba là, Nguyễn Trãi quan niệm về dân như sau: tư tưởng về dân của Nguyễn
Trãi, đó là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. Nguyễn Trãi nhận thức được rằng lực
lượng làm ra thóc, cơm ăn, áo mặc là do ở nhân dân; rằng điện ngọc cung vàng của
vua chúa cũng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà có: “thường nghĩ quy mô lớn
lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ của quân dân”. Chính xuất phát từ suy nghĩ như vậy,
nên khi đã làm quan trong triều đình, được hưởng lộc của vua ban, Nguyễn Trãi đã
nghĩ ngay đến nhân dân, những người dãi nắng dầm mưa, những người lao động cực
nhọc. Do đó, ơng đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được
nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong
sáng tạo lịch sử.
Từ những quan điểm trước, chủ nghĩa Mác – Lênin đã “kế thừa và phát triển
quan điểm về quần chúng nhân dân vượt trội so với các quan điểm khác trong lịch sử
xã hội”. Chủ nghĩa lịch sử duy vật cho rằng: Quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử.

10


Vai trò của quần chúng nhân dân rất quan trọng, trong chủ nghĩa duy vật lịch sử được
thể hiện trên ba quan điểm sau:
Quần chúng là lực lượng sản xuất, lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật
chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Quần chúng là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng trong xã hội.
Quần chúng là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần và văn hóa vật
chất.
Trong Wikypedia, “quần chúng hay cịn gọi là nhân dân, người dân, dân là thuật
ngữ chỉ về toàn thể những con người sinh sống trong một quốc gia, và tương đương
với khái niệm dân tộc”. Nhân dân cịn có khái niệm rộng hơn và được sử dụng trong
pháp lý, trong tư tưởng chính trị. Trong lĩnh vực chính trị pháp lý, nhân dân cịn tương
đồng với thuật ngữ cơng dân là những con người mang quốc tịch và được bảo hộ của

một nhà nước nơi họ đang sinh sống và thông thường là không bao gồm những người
trong bộ máy cai trị.
Khái niệm quần chúng hay còn được gọi là dân, nhân dân trong tư tưởng Hồ
Chí Minh có nội hàm rất rộng, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi
con người Việt Nam cụ thể, cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc . Đó là “Mọi
con dân nước Việt”, “Mỗi một con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc, tín
ngưỡng, “già, trẻ gái trai, giàu nghèo, quý tiện”. Hồ Chí Minh đưa ra một số quan
điểm về quần chúng như sau: Thứ nhất, quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách
mạng là sự nghiệp quần chúng. Hồ Chí Minh ln có lịng tin vơ tận đối với quần
chúng. Người luôn chăm lo tăng cường mối liên hệ với quần chúng, coi đó là nguồn
sức mạnh tạo nên mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Thứ hai, Hồ Chí Minh có
viết: quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội, quần chúng
còn là người sáng tác nữa. Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý. Những giá trị
tinh thần do nhân dân sáng tạo là cơ sở cho sự phát triển văn hóa nghệ thuật.
Như vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh về quần chúng là bộ phận có cùng chung
lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết
lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải
quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
1.1.2. Khái niệm Công tác vận động quần chúng
Khái niệm cơng tác vận động quần chúng cịn được hiểu là công tác dân vận. Là
làm cho dân tin tưởng, ủng hộ và thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra.
Là tuyên truyền cho dân hiểu để loại bỏ những hủ tục lạc hậu từ thời xa xưa hoặc các
phong tục tập quán như: mê tín dị đoan ở một số dân tộc ít người sống ở khu vực miền
núi nước ta hoặc hủ tục cướp vợ, chữa bệnh bằng phương thức cúng bái.

11


Dân vận là vận động tất cả các lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót
một người dân nào, góp thành lực lượng tồn dân, để thực hành những cơng việc nên

làm, những cơng việc Chính phủ và Đồn thể đã giao cho. Dân vận khơng thể chỉ
dùng, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, báo chương, truyền đơn, chỉ thị mà đủ mà phải kết
hợp công tác vận động tuyên truyền đến từng người dân để dân hiểu và thực hiện.
Hồ Chí Minh có nói về cơng tác dân vận: “Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học
hỏi dân”, “Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết”. Trong lúc thi hành phải
theo dõi, giúp đỡ, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm tra lại
cơng việc, rút kinh nghiệm, phê bình và khen thưởng động viên dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh dạy chúng ta, muốn làm công tác dân vận khéo thì phải thật sự u dân, kính
dân, thương dân và hiểu dân, phải biết vận động nhân dân làm tốt những việc có lợi
cho cách mạng, cho đất nước”, “để đem tài dân, sức dân, của dân mà làm lợi cho dân”.
Ðây sẽ là cẩm nang cho Ðảng và Nhà nước ta trong tiến trình lãnh đạo, tổ chức tồn
dân tiến hành sự nghiệp đổi mới và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn nêu bật vai trò nhân dân trong đổi mới đất nước và
đi lên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà trong Di chúc Người đã căn dặn Ðảng ta, trong
cuộc chiến đấu chống lại những hư hỏng, nghèo nàn, lạc hậu để xây dựng những cái
mới mẻ, tốt tươi thì phải dựa vào nhân dân, giáo dục và tổ chức tồn dân. Những việc
đó chính là để nhân dân tự giác thực hiện trách nhiệm của mình, có những đóng góp
nhiều nhất vào q trình tiến hành đổi mới và đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước ta hiện nay.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trong nhiều tác phẩm, bài nói và viết trên
các bài báo, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với
dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với
hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành”. Trong thời kỳ phát
triển mới của đất nước, thực hiện đường lối mở cửa, hội nhập của Ðảng, mỗi cán bộ,
đảng viên của đảng cầm quyền, để thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân, thiết nghĩ tự mỗi người cần thường xuyên học tập và
làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân
vận khéo thì việc gì cũng thành cơng”.
Như vậy, cơng tác vận động quần chúng là vận động nhân dân làm tốt những
việc có lợi cho cách mạng, là làm cho dân tin tưởng, ủng hộ và thực hiện chính sách

của Đảng và Nhà nước, đồng thời phải tuyên truyền cho dân hiểu và thấy được lợi ích
của dân để nhân dân tự giác thực hiện trách nhiệm của mình trong cơng cuộc xây dựng
sự nghiệp đất nước.
1.1.3. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác vận động quần chúng

12


Hồ Chí Minh có quan điểm nhất qn về dân, vạch rõ nguồn gốc, lực lượng tạo
ra quyền hành đó là nhân dân. Đây là quan điểm gốc để Người coi sự nghiệp cách
mạng quần chúng nhân dân; công cuộc đổi mới, xây dựng, kháng chiến kiến quốc là
trách nhiệm và cơng việc của dân.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh thì dân có vai trị rất quan trọng, tất cả mọi lợi
ích đều vì nhân dân, ngồi ra khơng có bất cứ một lợi ích nào khác Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có
lợi cho dân chúng dù nhỏ cũng có gắng, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng phải tránh.
Dân là gốc của nước, Hồ Chí Minh ln ln tâm niệm: Phải làm cho dân có ăn, phải
làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành.
Khái niệm "công tác vận động quần chúng" cũng được sử dụng bằng cụm từ
"dân vận". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết : "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của
mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng tồn dân, để
thực hành những cơng việc nên làm, những cơng việc Chính phủ và đồn thể đã giao
cho".
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác vận động quần chúng là hệ thống
quan điểm toàn diện sâu sắc về: “xây dựng củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân
tộc”; “trách nhiệm của Đảng và Chính quyền trong công tác vận động quần chúng,
tuyên truyền”; “vận động và tổ chức quần chúng nhân dân tham gia sự nghiệp cách
mạng”; “yêu cầu đối với cán bộ làm công tác vận động quần chúng”. Đó là hệ thống tư
tưởng có ý nghĩa chỉ đạo đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
1.2. Vai trò của quần chúng nhân dân và những nội dung cơ bản của công

tác vận động quần chúng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1. Về vai trị của quần chúng nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ
kính u của giai cấp cơng nhân và của cả dân tộc ta. Khơng những vậy, Người cịn là
một là chiến sĩ xuất sắc, nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và
phong trào giải phóng dân tộc.
Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các vị anh hùng dân tộc, các bậc
minh quân đều đánh giá cao vai trò, sức mạnh quật cường của nhân dân Việt Nam, biết
tập hợp và khai thác lực lượng của nhân dân lập nên những chiến công lẫy lừng và
những thành công rực rỡ. Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, từ những bài nói, bài
viết, cho đến cả cuộc đời hoạt động cách mạng vô cùng phong phú và và đa dạng, ta
thấy quan điểm quần chúng của Người vô cùng đúng đắn, kiên định, phong phú, sáng
tạo và mang tính chất độc đáo của Việt Nam. Ở quan điểm quần chúng của Hồ Chí
Minh, ta không những thấy tư tưởng tiến bộ, đúng đắn của chủ nghĩa Mác về vai trò
quần chúng trong lịch sử.“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, quần

13


chúng nhân dân vừa là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, vừa là động lực cơ bản
của mọi cuộc cách mạng xã hội, đồng thời cũng là người sáng tạo, lưu giữ những giá
trị văn hóa tinh thần”, mà còn thấy sự phát triển sáng tạo và truyền thống văn hóa của
dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã nêu cao quan điểm về con người, và đồng thời là quan điểm về
dân: “Tất cả vì con người và do con người; tất cả vì dân và do dân; con người là vốn
quý nhất, là lực lượng to lớn nhất”. Tư tưởng đó được thể hiện trên nhiều phương diện.
Trước hết đó là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh: Sống vì nước, vì dân, vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, xã hội. Con người vừa là mục tiêu”, vừa là động lực biến một nước
dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui, hạnh phúc. Quan
điểm về con người, về nhân dân của Hồ Chí Minh cịn được thể hiện ở tư tưởng chính

trị - xã hội “dân là chủ”. Bao nhiêu lợi ích và quyền hạn đều làm cho dân và vì dân.
Cơng cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, mọi quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân. Quan điểm về vai trò của quần chúng nhân dân, về con người ở Hồ Chí
Minh đã trở thành phương pháp, tác phong công tác: tin ở dân, dựa vào dân, học hỏi
dân. “Có dân là có tất cả”. “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu
cũng xong”. Quan điểm về tác phong quần chúng của Hồ Chí Minh bao hàm nhiều nội
dung phong phú. Trước hết đó là niềm tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại của
quần chúng; là tính khiêm tốn học hỏi quần chúng, tôn trọng quần chúng; quan tâm
đến lợi ích thiết thân của quần chúng; sống có tình có nghĩa với quần chúng - một
truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta.
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định rằng: Công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ chiến lược quan
trọng, có ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về cơng tác dân vận - cơng tác vận động quần chúng - là một hệ thống
những quan điểm, phương thức dân vận được thấm nhuần trong cả cuộc đời và trong
các tác phẩm của Người. Thương yêu nhân dân, thương yêu con người, tin tưởng ở
sức mạnh đồn kết của nhân dân, hết lịng phục vụ nhân dân là quan điểm bao trùm
trong toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở để hình thành tư tưởng về công tác dân
vận của Người. Người luôn ý thức dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. “Dân là gốc
của nước. Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Trong xã hội muốn thành cơng phải có ba
điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hịa. Nhưng thiên thời khơng quan trọng bằng
địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là quan trọng hơn hết”.
Tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trị của quần chúng nhân dân
xuất phát từ cơ sở nhận thức khoa học đúng đắn: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân
dân. Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề đồn kết, dân có đồn kết lại

14



thì mới tập hợp được đơng đảo nhân dân”. Đảng dù vĩ đại đến mấy cũng chỉ là một bộ
phận của nhân dân. Người nêu lên một luận đề như một chân lý: “Dân vận kém thì
việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng”. Hồ Chí Minh muốn
khẳng định cơng tác dân vận khơng chỉ là những thao tác cụ thể, những cơng thức có
sẵn mà bản thân nó là một khoa học - khoa học về con người, một nghệ thuật - nghệ
thuật tiếp cận và vận động con người, phải dày cơng tìm tịi suy nghĩ để phân tích
chính xác tình hình nhân dân, vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận vào thực tiễn
sinh động để vận động nhân dân có hiệu quả. “Mắt trông, tai nghe, chân đi” là yêu cầu
sát cơ sở, sát thực tế, đến với nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân
mà giúp dân giải quyết các công việc cụ thể, đề xuất chính sách hoặc điều chỉnh chính
sách cho phù hợp, “vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách”. “Miệng
nói, tay làm” là phong cách quan trọng nhất hiện nay, “phải thật thà nhúng tay vào
việc”, không được nói một đằng, làm một nẻo, miệng thì vận động người khác
nhưng mình thì khơng làm hoặc làm ngược lại. Bác cũng nghiêm khắc phê phán “bệnh
nói sng, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”.
Đối lập với tác phong “miệng nói, tay làm” là lối “chỉ nói sng, chỉ ngồi viết
mệnh lệnh” tức là nói mà khơng làm, và nếu có làm thì chỉ làm việc theo lối quan liêu
“bàn giấy”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh hậu quả và tác hại của căn bệnh này: Cái lối làm
việc như vậy rất có hại”. Nó làm cho chúng ta khơng đi sát phong trào, khơng hiểu rõ
được tình hình bên dưới cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành
được đến nơi, đến chốn làm ảnh hưởng đến lợi ích nhân dân nói chung.
Người làm dân vận phải thật thà “nhúng” tay vào việc, tức là làm việc một cách
thật sự , phải cùng lao động, cùng chiến đấu, lăn vào cuộc sống hàng ngày của quần
chúng để thực hiện mục đích của cơng tác dân vận. Nếu chỉ nói xng, chỉ ngồi viết
mệnh lệnh thì làm sao hiểu được dân, làm sao “vận” được dân, làm sao dân hiểu và
thực hiện, làm sao để dân có tự do, hạnh phúc thật sự. Về vai trò của quần chúng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh trong những năm qua được Đảng ta vận dụng một cách đúng
đắn và công tác dân vận của cả hệ thống chính trị được triển khai với nhiều nội dung,
hình thức phong phú. Cần phát huy vai trị của quần chúng hơn nữa trong tình hình
mới, để đạt kết quả tốt và thành công trong những lĩnh vực khác nhau.

1.2.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác vận
động quần chúng nhân dân.
Một là, xây dựng và củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc
Ngay khi giành được thắng lợi, chủ tich Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trị to
lớn của khối đại đồn kết dân tộc là một vai trị vơ cùng quan trọng. Theo Người:
“Muốn đồn kết tồn dân, cần phải có một đồn thể rộng lớn, rất độ lượng thì mới có
thể thu hút được mọi đồn thể và cá nhân có lịng thiết tha yêu nước, không phân biệt

15


tuổi tác, gái trai, tôn giáo, nghề nghiệp, giai cấp, đảng phái”. Đại đoàn kết là sự nghiệp
của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân tổ chức lãnh đạo là các tổ chức
Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó có các chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trước hết là trách nhiệm của Đảng vì Đảng là hạt nhân
lãnh đạo, là Đảng cầm quyền của cả hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo toàn dân tộc
Việt Nam. Đường lối đúng đắn của Đảng là yếu tố quan trọng hàng đầu để khơi dậy và
phát huy sức mạnh toàn thể nhân dân. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực
và sức chiến đấu của Đảng để Đảng đoàn kết, thống nhất, và xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đồng thời phải đào tạo một đội
ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực, gắn bó mật thiết với nhân dân, làm
việc có trách nhiệm và có ý nghĩa sống cịn đối với Đảng và sự nghiệp đại đồn kết
tồn dân ta. Thấm nhuần lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước mặt quần chúng, không
phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. “Quần chúng chỉ quý
mến những người có tư cách, đạo đức”. Từ đó, phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn
dân tộc không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước là trụ cột của hệ thống
chính trị, người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng mà cần phải tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm những nguyên tắc tất
cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; cán bộ, công chức phải thật sự là công bộc

của dân. Đây là yếu tố rất quan trọng, bảo đảm sự bền vững chặt chẽ của cả hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đảng ta đã xác định việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp rộng rãi
sức mạnh toàn dân và phát huy cao độ sức mạnh vật chất tinh thần nhằm thực hiện các
mục tiêu cách mạng khơng phải là thủ đoạn chính trị nhất thời, mà là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược lâu dài về sau trong mọi thời kì cách mạng. Mặc dù có lúc, có nơi chưa
quán triệt một cách đúng đắn và đầy đủ lối đại đoàn kết, nhưng về tổng thể, xuyên suốt
các chặng đường lãnh đạo cách mạng, Đảng ta thường xuyên chăm lo xây dựng khối
đại đoàn kết, phê phán các quan điểm coi thường cơng tác mặt trận, đánh giá khơng
đúng vai trị của quần chúng nhân dân.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam chỉ cho thấy khi nào từ trung ương đến
thẩm uyền thấm nhuần quan điểm xác định vai trò vị trí của nhân dân đúng với tư cách
là chủ thể lịch sử. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân là một yếu tố nội sinh có ý
nghĩa to lớn quyết định thành công hay thất bại của cách mạng dân tộc và coi trọng
được xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân thì sự nghiệp cách mạng dù khó khăn đến
mấy cũng thể vượt qua và giành thắng lợi vẻ vang.
Đại đoàn kết dân tộc hiểu theo nghĩa chung là thực thể liên kết giữa các giai
cấp, tầng lớp dân cư, tôn giáo và các tầng lớp nhân dân vừa có lợi ích chung vừa có lợi

16


ích riêng.Trong xã hội, mỗi giai cấp, các tầng lớp có lợi ích riêng khác nhau, song
về cơ bản lại thống nhất ở lợi ích dân tộc chân chính, cùng một chung mục tiêu là
nước Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Mặt khác, bên
cạnh lợi ích chung, mỗi giai cấp có lợi ích riêng. Vì vậy, đường lối chính sách của
Đảng phải được đảm bảo hài hịa giữa lợi chung và lợi ích riêng của mỗi giai cấp, tầng
lớp, bả đảm chăm lo cho xây dựng cơ sở xã hội của chế độ trong xã hội.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ và độc lập và thống nhất Tổ quốc là nhiệm vụ
thiêng liêng cao cả của mọi con người Việt Nam. Giương cao ngọn cờ, Đảng đã phát

huy được mọi sức mạnh của giai cấp, của mọi tầng lớp, mọi dân tộc và tôn giáo trong
Mặt trận dân tộc thống nhất phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Đồng
thời, Đảng cũng coi trọng việc đề ra các chính sách cụ thể nhằm đáp ứng từng bước
yêu cầu, nguyện vọng của từng giai cấp và tầng lớp khác nhau. Đảng và Nhà nước đề
ra nhiều chủ trương, chỉ thị hay những chính sách và hệ thống pháp luật nhằm bảo dảm
thực hiện u cầu dân chủ, bình đẳng, cơng bằng trên tất cả các mặt trong xã hội như:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho các giai cấp, tầng lớp, các đồn kết các dân tộc,
tơn giáo, kể cả người Việt Nam đang sinh sống định cư nước ngồi. Chính vì vậy,
Đảng đã và đang huy động mạnh sức mạnh đơng đảo khối đại đồn kết tồn dân, phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa của đất nước Việt Nam.
Hai là, trách nhiệm của Đảng, chính quyền trong cơng tác vận động quần
chúng. Cơng tác vận động quần chúng của Đảng bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. “Đoàn kết trong
Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Trong thời kỳ mới của cuộc cách mạng, mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân tiếp tục
được khẳng định trong nhiều những Nghị quyết khác nhau của Đảng, đó là việc: “đổi
mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân”.
Các tổ chức Đảng, các cán bộ, Đảng viên phải làm tốt công tác quần chúng vì
đây là cơng tác cơ bản của Đảng, nó có mối quan hệ với cơng tác xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền Nhà nước của dân, do dân và vì dân. “Cán bộ, đảng viên và đồn
viên phải đồn kết chặt chẽ; phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích chung
của nhân dân lên trên lợi ích riêng của mình; phải làm gương mẫu trong đồn kết dân
tộc”. Từ đó, Đảng cũng khẳng định: Cơng tác quần chúng khơng những là trách nhiệm
của các đồn thể mà còn là trách nhiệm của tất cả tổ chức khác trong hệ thống chính
trị, có phối hợp với nhau chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mọi cán bộ Đảng viên,
nhân viên Nhà nước đều phải làm cơng tác quần chúng theo chức trách của mình và
hồn thành tốt nhiệm vụ của mình. Có như vậy, mới tập hợp được mọi lực lượng, đoàn
kết được toàn dân dân tộc. Tư tưởng xem nhẹ công tác vận động quần chúng hoặc


17


khốn trắng cho Mật trận đồn thể cần được phê phán và khắc phục triệt để. Những
quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác vận động quần chúng trên là sự tổng kết từ thực
tiễn cách mạng nước ta, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn sâu sắc cần tiếp tục
vận dụng quán triệt trong tình hình mới.
Trên cơ sở phương hướng công tác vận động quần chúng của Đảng trong thời
kỳ mới, cần xác định và thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ lớn của công tác vận động
quần chúng hiện nay. Cụ thể thực hiện tốt việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc,
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Căn cứ nhiệm vụ chính trị của
Đảng và Nhà nước, căn cứ vào sự chuyển dịch cơ cấu xã hội, giai cấp để xác định các
chính sách cụ thể đối với từng giai cấp, tầng lớp xã hội, tạo được động lực mới thúc
đẩy phong trào cách mạng.
Các cấp ủy phải luôn tăng cường và kiện toàn, đổi mới đội ngũ cán bộ làm công
tác vận động quần chúng, phải luôn coi trọng lãnh đạo và kiểm tra các cấp chính quyền
về trách nhiệm phục vụ nhân dân, cải cách nền hành chính Nhà nước, khắc phục mọi
biểu hiện sai trái, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Công tác vận động quần
chúng có vai trị đặc biệt quan trọng nhằm giáo dục, tổ chức và vận động nhân dân ta
vượt qua khó khăn thử thách, tạo nên bước tiến nhanh và vững chắc để đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước.
Trong quan hệ giữa dân và Đảng, Hồ Chí Minh quan niệm: dân là chủ và dân
làm chủ thì Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là đầy tớ và làm đày tớ cho dân. Dân
chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội ... Dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất
và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước. Hồ Chí Minh coi dân chủ
thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Dân chủ không dừng lại
với tư cách như là một thiết chế xã hội của một quốc gia, mà cịn có ý nghĩa biểu thị

mối quan hệ quốc tế, hịa bình giữa các dân tộc. Đó là dân chủ, bình đẳng trong mọi tổ
chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử trong các quan hệ quốc tế.
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã chủ
trương xây dựng và ban hành bản Hiến pháp mới. Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp
lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Điều đó thể hiện rõ ở Chương
II Hiến pháp năm 1946 gồm 18 điều quy định về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, điều
6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ
quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp
và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”. Quan điểm nhất quán của Hồ Chí

18


Minh đáp ứng được khát vọng của cả dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân
dân, cơm no áo ấm cho mọi người dân Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng trở
thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội là nhân tố tiên quyết để bảo đảm tính chất dân
chủ của xã hội. Dân chủ trong Đảng trở thành yếu tố quyết định tới trình độ dân chủ
của toàn xã hội, phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực có trong dân để đem lại lợi ích cho
nhân dân.
Ba là, tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng nhân dân tham gia sự
nghiệp cách mạng. Khi nói về vai trị và sức mạnh của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự
nghiệp của cá nhân anh hùng”. Ngày 15/10/1949, Người viết bài “Dân vận” đăng trên
tờ “Sự Thật” số 120. Đến nay, tuy hơn sáu thập kỷ đã trôi qua nhưng bài báo ấy vẫn
tỏa sáng những quan điểm tư tưởng xun suốt của Hồ Chí Minh về cơng tác vận động
quần chúng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa VIII) một lần
nữa đã khẳng định vai trị cơng tác dân vận “Đổi mới cơng tác quần chúng của Đảng,
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân” và quyết định lấy ngày 15/10 hàng
năm làm ngày Dân vận, xem đây là dịp kiểm điểm và tăng cường nhận thức, hành

động để củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Từ những ngày đầu hoạt động, Hồ Chí Minh đã dạy cơng dạy cho cán bộ nhận
thức được sâu sắc rằng: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Vì vậy, khi ở Liên
Xơ về Trung Quốc, cuối năm 1924, Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách liên lạc, đưa thanh
niên ta sang Quảng Châu mở lớp đào tạo những hạt giống cho cách mạng. Trong số
những người học trò đầu tiên của Hồ Chí Minh lúc bấy giờ có đồng chí Trần Phú, sau
này trở thành Tổng Bí Thư của Đảng ta. Thời kỳ Hồ Chí Minh đi cơng tác Cơn Minh Hồ Khẩu, thời gian rất ngắn, công việc lại nhiều, nhưng tối đến Hồ Chí Minh vẫn triệu
tập mọi người đến giảng giải về công tác cách mạng, nhiệm vụ của người đảng viên.
Khi về Pác Bó, có điều kiện hơn ở ngồi nước, nhiều lớp huấn luyện chính trị và quân
sự được Hồ Chí Minh liên tiếp mở ra thu hút rất nhiều cán bộ ta. Mỗi lớp như thế
thường được mở trong tuần hay mười hơm. Hồ Chí Minh đào tạo, huấn luyện anh em
rồi trả họ về cơ sở, rèn luyện họ trong thực tiễn cách mạng. Đối với Hồ Chí Minh, một
hạt giống tốt khơng thể để tự nó lớn lên và chết dần mà phải làm cho nó nảy nở ra trăm
ngàn hạt giống khác. Lớp học lúc bấy giờ cũng rất đơn giản, không bàn không ghế.
Mấy anh em ngồi xung quanh đống lửa vừa được sưởi ấm vừa được nghe nói chuyện.
Trong cơng tác cũng như trong khi giảng dạy ở các lớp huấn luyện, Hồ Chí
Minh chú trọng đặc biệt đến cách tuyên truyền vận động quần chúng. Hồ Chí Minh
thường nói: “Chúng ta ở rất bí mật. Nhưng đó là bí mật với tụi tổng đoàn, với bọn mật
thám, bọn Tây, bọn thống trị chứ khơng phải bí mật với nhân dân”. Hồ Chí Minh cịn
u cầu lấy quần chúng làm bình phong bảo vệ và che chở cho cách mạng. Muốn được

19


như thế, cán bộ khơng được làm cái gì trái với ý quần chúng, trái với phong tục tập
quán địa phương. Có những phong tục tốt, cần giữ lại. Cũng có nhiều phong tục tập
qn khơng tốt, cần phải thay đổi. Nhưng không phải tự ý cán bộ thay đổi ngay một
lúc mà phải vận động từ từ để quần chúng giác ngộ và tự cải cách lấy.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng chủ nghĩa ấy vào thực tiễn, Hồ Chí
Minh càng thấm sâu chân lý: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; và trong tư

tưởng tình cảm và hành động, Người ln thể hiện nhất qn chân lý đó. Quần chúng
cách mạng chính là các tầng lớp nhân dân nước ta mà Hồ Chí Minh đã tìm thấy sức
mạnh to lớn ở họ. Cơ sở của quan điểm tư tưởng ấy là lòng tin vào con người của Hồ
Chí Minh. Người cho rằng, nhân dân rất thông minh, cần cù lao động sáng tạo; nhân
dân là lực lượng đơng đảo của tồn xã hội; nhân dân là người hiểu biết tất cả; nhân
dân là nguồn sức mạnh vô tận ở mọi nơi, mọi lúc. Chính vì thế, Người cho rằng nhân,
nghĩa là nhân dân và trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân được hình thành trên cơ sở
tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách
mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa. Những thành công hay thất bại của các phong trào ấy đều được Người
nghiên cứu rút ra những bài học cần thiết cho việc hình thành tư tưởng về sức mạnh
của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, nhưng
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân đông đảo. Người nhắc nhở, cơng tác
dân vận của Đảng phải tìm mọi cách giải thích cho từng người dân hiểu rõ, việc mình
làm là vì lợi ích của chính họ, nên họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Người cũng chỉ
rõ làm bất cứ việc gì cũng phải bàn với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng
với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ
chức toàn dân thi hành. Đảng phải lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải
phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực
hiện bằng sức mạnh của nhân dân. Nhân dân mới chính là người sáng tạo ra lịch sử, là
chủ thể của lịch sử, là người làm nên lịch sử. Người nhấn mạnh, cá nhân dù có tài giỏi
mấy cũng không thay thế được nhân dân.
Trong xu thế mở cửa hội nhập trong khu vực và trên toàn thế giới, nước ta đang
có nhiều thuận lợi, nhưng cũng khơng ít khó khăn, đặc biệt là âm mưu diễn biến hịa
bình của các thế lực thù địch chia rẽ khối đại đồn kết tồn dân, hịng làm giảm sức
mạnh của lực lượng quần chúng trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất
nước. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban ngành, đoàn thể cần phải sâu sát hơn nữa
quan điểm của Đảng về công tác Dân vận; coi trọng việc giữ gìn, phát huy mối quan
hệ khắn khít giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, thực hiện tốt phương châm ý Đảng lòng dân trong mọi chủ trương, việc làm của mình. Mỗi cán bộ đảng viên phải liên hệ


20


chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng nhân dân và hướng dẫn nhân dân, tổ chức thành lực
lượng, thành phong trào hành động cách mạng trên các lĩnh vực, nhằm không ngừng
nâng cao đời sống của nhân dân. Riêng các tầng lớp của nhân dân cần tích cực tham
gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức. Hướng tới
kỷ niệm 89 năm Ngày truyền thống công tác Dân vận (15/10/1930 - 15/10/2019) mỗi
cán bộ, đảng viên càng ra sức học tập , rèn luyện để trở thành tấm gương cho quần
chúng noi theo, nói đi đơi với làm, nói ít làm nhiều thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần XI của Đảng đã đề ra cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và
giá trị thực tiễn rất quan trọng .
Bốn là, yêu cầu đối với cán bộ làm công tác vận động quần chúng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Muốn việc thành cơng hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém”. Ðó là một chân lý nhất định. Ngay từ khi chính quyền cách mạng nhân dân
được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời những nhân sĩ, học giả, trí thức của xã
hội cũ ra làm việc và tham gia vào công tác chính quyền . Tất cả những ai có chun
mơn, cần dùng vào lĩnh vực nào nếu có nhiệt tâm đều được trọng dụng. Bên cạnh việc
đào tạo và rèn luyện đội ngũ cán bộ cần kiệm liêm chính, chí công vô tư làm công bộc
cho dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi các ngành các cấp và địa phương tìm và tiến
cử nhân tài để kiến quốc. Nhờ sự góp sức đồng lịng của tồn dân, tồn qn mà cuộc
kháng chiến trường kỳ của ta thắng lợi vẻ vang và sự nghiệp cách mạng của dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Ðảng từng bước phát triển bền vững. Ngày nay, các thế hệ cán bộ
của chúng ta được đào tạo cơ bản, đầy đủ, chính quy với số lượng đông đảo thường
xuyên nhưng thực tế chất lượng cán bộ chưa đáp ứng u cầu, nhiệm vụ, khơng ít cán
bộ lãnh đạo sa vào tham nhũng, lãng phí, quan liêu khiến nhân dân bất bình, giảm lịng
tin. Nhưng vì cách lãnh đạo của ta cịn kém, thói quan liêu cịn nhiều cho nên có
những người như thế cũng bị dìm xuống, khơng được cất nhắc. Muốn tránh khỏi sự
hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo.

Theo Hồ Chí Minh, có nhiều cán bộ qn rằng so với nhân dân thì số đảng viên
chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một người đảng viên. Nếu khơng có
nhân dân giúp sức, thì Đảng khơng làm được việc gì hết. Người lãnh đạo khơng nên
kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho
sự lãnh đạo đúng đắn .Vì vậy, ngồi kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải
dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng để thêm cho kinh nghiệm của mình.
Phải lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người “không quan
trọng”. Một số cán bộ không nhận thức rõ “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một
cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn,
nghĩ mãi khơng ra”. Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Nhưng đặc
điểm rõ nhất trong tư tưởng của dân chúng là họ hay so sánh. Họ so sánh bây giờ và so

21


sánh thời đã qua. Họ so sánh từng việc và họ so sánh toàn bộ phận. Do sự so sánh, họ
thấy chỗ khác nhau, họ thấy mối mâu thuẫn. Từ đó, họ kết luận, đề ra cách giải quyết.
Vì sự so sánh kỹ càng đó, mà cách giải quyết của dân chúng bao giờ cũng gọn gàng,
hợp lý, công bằng.
II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN
CHÚNG
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, công tác vận động quần chúng cần phải
thực hiện tốt hơn nữa nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Công tác vận động
quần chúng là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng, là một đặc trưng chủ yếu
trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. “Công tác vận động quần chúng không chỉ là vận
động nhân dân thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, mà còn là
phương thức thu hút nhân dân vào việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách
đó.
Trong những hoạt động này vấn đề cốt lõi là phải quan tâm đến lợi ích chính
đáng của nhân dân. Vấn đề tưởng như đơn giản, dễ làm nhưng thực tế đến nay nhiều

lúc, nhiều nơi vẫn làm chưa tốt. Bên cạnh số đông cán bộ đảng viên vẫn giữ được
phẩm chất cách mạng và gắn bó với nhân dân, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên mang nặng bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, nạn tham ô, hối lộ vẫn
cịn xảy ra. Khơng ít đồn thể cũng bị quan liêu hố, hành chính hố, khơng chịu đổi
mới nội dung, hình thức, phương pháp tập hợp các tầng lớp nhân dân, làm giảm sự gắn
bó của nhân dân với Đảng và Nhà nước... những hiện tượng đó là tiếng chuông cảnh
báo để chúng ta phải làm tốt hơn nữa công tác dân vận.
Để nâng cao hiệu quả của công tác dân vận bên cạnh việc hồn thiện chủ
trương, chính sách cho phù hợp với thực tiễn đang đặt ra còn phụ thuộc rất lớn vào
phương thức tiến hành dân vận. Công tác vận động quần chúng ở giai đoạn hiện nay
cần được đẩy mạnh hơn nữa, bên cạnh đó cần vận dụng để thực hiện tốt tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác vận động quần chúng chúng ta cần giải quyết một số vấn đề sau:
2.1. Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc tại Đảng ủy cơ
sở
Trước hết, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền ở các cấp và Chính quyền về sự cần
thiết phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dạy: “Đồn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các
đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Cơng tác tun truyền cần phải làm cho nhân
dân thấm nhuần lời dạy của Người. Cùng với đó, cần quán triệt, thực hiện quan điểm
của Đảng: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường

22


khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh của giai cấp do Đảng lãnh đạo”.
Để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, huyện Ba Vì cần phát huy những yếu tố
và lực lượng của quần chúng trong mọi việc. Qua đó, để mọi người nhận thức rõ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm mọi người dân đang sinh sống và làm việc tại địa

phương.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ và Chính quyền địa phương về đại
đồn kết tồn dân tộc. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với việc tăng
cường, củng cố, phát huy vai trị của khối đại đồn kết tồn dân tộc. Mỗi địa phương
khơng ngừng hồn thiện, thể chế hóa, cụ thể hóa hệ thống đường lối, chính sách, pháp
luật để “bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, nhân dân thực sự làm
chủ, được bày tỏ nguyện vọng của mình thơng qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân; đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Khắc phục triệt để tình trạng
thực hiện khơng đúng, thậm chí trái ngược với đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đề ra. Phải khuyến khích, động viên, phát huy được sức
mạnh đại đồn kết tồn dân tộc.
Đồng thời, có những chính sách cụ thể, quan tâm mọi mặt đối với các tầng lớp,
giai cấp trong xã hội, nhất là chính sách đối với những xã miền núi, tạo điều kiện để họ
khắc phục khó khăn, đảm bảo ổn cuộc sống. Tạo cơ hội để nhân dân tham gia thảo
luận, góp ý những vấn đề quan trọng của huyện ủy; phổ biến sâu rộng và thực hiện tốt
hơn nữa Quy chế Dân chủ ở cơ sở, giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức xúc đang
đặt ra. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi,
tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn.
Ba là, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng bộ và chính quyền
trong việc xây dựng khối đại đồn kết tồn. Là tổ chức đóng vai trò nòng cốt trong tập
hợp, vận động nhân dân, Đảng bộ và Chính quyền ở địa phương tiếp tục đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, sâu sát quần chúng, cơ sở, quan tâm hơn nữa đến quyền
lợi chính đáng của con người. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục
nâng cao nhận của mọi người dân. Phát huy vai trò của nhân dân trong việc xây dựng
Đảng bộ và chính quyền, chính quyền vững mạnh, tạo sự đồng thuận xã hội, vận động
các tầng lớp nhân dân khắc phục khó khăn mắc phải.
2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền ở địa phương
trong công tác vận động quần chúng
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền ở địa phương đối với
cơng tác vận động quần chúng trong tình hình mới, bên cạnh việc xác định rõ về tư

tưởng, nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị về vấn đề
quan trọng này, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần
chúng thực hiện tốt công tác dân vận chính quyền; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu

23


nước trong các tầng lớp nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh.
2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng
Ban Dân vận ở địa phương thường xuyên phối hợp với các cấp, các ngành nắm
vững tình hình nhân dân, tham mưu đề xuất giúp cấp uỷ, chính quyền giải quyết kịp
thời những vướng mắc trong nội bộ nhân dân, không để các vụ việc kéo dài, lan rộng.
Vận động nhân dân trong cơng tác giải phóng mặt bằng phục vụ dự án sơng Tích và
các dự án trên địa bàn; tun truyền vận động nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ
tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Bên cạnh đó, phong trào thi đua “Dân vận khéo” đã và đang được triển khai,
nhân rộng trong đời sống, sinh hoạt, cơng tác, đã có nhiều mơ hình tốt, việc làm hay
đạt hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực và được cấp trên đánh giá cao. Hệ thống dân
vận huyện phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân thường xuyên làm
tốt cơng tác tun truyền, giáo dục về chính trị, tư tưởng cho đoàn viên hội viên và
quần chúng nhân dân.
2.4. Tiếp tục quan tâm xây dựng đội ngũ, cán bộ công chức thực hiện công
tác vận động quần chúng
Hệ thống chính quyền cơ sở từng bước được củng cố và hồn thiện; thực hiện
tốt cơng tác cơng tác tiếp dân, phát huy trách nhiệm của người đứng đầu các cấp chính
quyền trong việc đối thoại với nhân dân, lắng nghe và giải quyết kịp thời các kiến
nghị, bức xúc, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Người cán bộ phải ý thức được rằng mình là người đi đầu trong mọi hoạt động,
vì thế mọi chính sách người cán bộ phải trực tiếp tuyên truyền đến dân, làm công tác

triệt để cho dân hiểu để dân thực hiện. Ngồi ra, người cán bộ cịn phải giải thích đúng
đắn những chính sách đó để trách tình trạng dân hiểu sai lệch về các chủ trương, quan
điểm của Đảng. Dân chúng là một lực lượng đơng đảo, nhờ có sức mạnh đoan kết của
dân mà đất nước đi lên một cách nhanh chóng, phát triển mọi mặt vì thế, vị trí và vai
trị của dân là đặc biệt quan trọng. Trong đời sống xã hội cũng như kinh doanh, dân
còn gặp nhiều khó khăn thì cán bộ, đảng viên cần phải giúp đỡ dân về mặt vật chất cả
tinh thần, động viên dân trong mọi hoàn cảnh. Mỗi cán bộ, đảng viên là một tấm
gương sáng để dân noi theo, học theo. Phải ln gắn bó, đồn kết, tơn trọng, yêu
thương dân, tuyệt đối không được xa nhân dân, khinh dân coi thường dân, không được
vô cảm trước đời sống nhân dân. Cải thiện, giúp đỡ, nâng cao dân trí, sâu sát trong
từng hoạt động của quần chúng và phải có mối quan hệ với nhân dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
III. LIÊN HỆ VIỆC THỰC HIỆN CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN
CHÚNG TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ĐÀ LẠT

24


3.1. Đặc điểm tình hình trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt
Được thành lập từ năm 1976, hiện nay nhà trường Đào tạo chính quy với 12 mã
ngành với hơn một ngàn chỉ tiêu: Trong đó có 01 mã ngành đạo tạo giáo viên CĐSP
Giáo dục mầm non, 09 mã ngành cao đẳng giáo dục nghề nghiệp và 02 mã ngành
trung cấp
Ngày 11/3/2021 Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt chính thức được cấp Giấy
Chứng nhận “Đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục” do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành. Tỉ lệ số tiêu chí rất cao đạt 92,72%, vượt nhiều cơ sở giáo dục trong
nước có quy mô lớn, cùng thời điểm kiểm định. Và là một trong số ít các trường CĐSP
ở Việt Nam đạt tiêu chuẩn này.
Nhà trường đã liên kết với nhiều doanh nghiệp hàng đầu trong cả nước về các
lĩnh vực du lịch, văn phịng, ngơn ngữ để cho sinh viên thực hành và thực hành nghề

trong quá trình đào tạo.
Trung tâm thực hành nghề du lịch là một trong những nơi được đầu tư trang thiết
bị hiện đại, đủ tiêu chuẩn khách sạn từ 3* trở lên.
Nhà trường có hệ thống và mạng lưới các cơ sở thực tập sư phạm cho sinh viên
ngành giáo dục mầm non đáp ứng theo tiêu chuẩn của Bộ giáo dục và đào tạo. Đây
cũng là ngành mũi nhọn của nhà trường và có định phát triển ngành chất mầm non
lượng cao, mầm non song ngữ trong những năm tới.
Từ năm 2018 với triết lý phát triển toàn diện người học, bên cạnh kiến thức
chuyên mơn sv trường CĐSP Đà lạt có điều kiện tham gia các hoạt động phát triển kỹ
năng đa dạng: hệ thống phòng học múa, âm nhạc, phòng học nhảy, nhà thi đấu đa
năng, sân vận động..
Song song với đó trường CĐSP Đà Lạt cũng là lá cờ đầu trong phong trào sinh
viên tình nguyện của tỉnh Lâm Đồng, trường thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh
viên tình nguyện, các hoạt động vì cộng đồng thiết thực, ý nghĩa như mùa hè xanh,
xn u thương, hành trình đỏ, cơng tác xã hội…đó cũng là nơi sinh viên CĐSP Đà
Lạt thể hiện kỹ năng sống, và tự tin thể hiện bản lĩnh trong thời kỳ hội nhập.
Trong suốt 45 năm xây dựng và phát triển CĐSP Đà lạt luôn được xã hội đánh
giá cao về chất lượng đào tạo của nhà trường cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo tỉnh
Lâm Đồng nói chung và cả nước nói riêng. Nhà trường cũng vinh dự nhận được nhiều
bằng khen, giấy khen của Bộ GD&ĐT, chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, Sở GD&ĐT
Lâm Đồng. Đó cũng là thành cơng, cũng chính là động lực để cho nhà trường phát
triển mạnh mẽ hơn nữa với sứ mạnh của mình, tiếp tục vươn mình xứng đáng là một
trong những cơ sở đào tạo hàng đầu trong hệ thống giáo dục Việt Nam.
Trong những năm gần đây Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013
Hội nghị Trung ương 8 khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện sự nghiệp giáo dục và
đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” và Nghị quyết số 19NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa

25



×