Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

BUỔI THẢO LUẬN THỨ TƯ môn dsu 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.05 KB, 33 trang )

BUỔI THẢO LUẬN THỨ TƯ

BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ

MỤC LỤC
1


MỤC LỤC
BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM ……………………………………………..3
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ TÍNH CHẤT PHỤ
CỦA BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ……….............................................................4
VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO BẢO ĐẢM …………………………………11
VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC ………………………………………………………14
VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH...….……...………………………………………...23
DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM KHẢO…………………………………....33

VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ TÍNH CHẤT PHỤ
CỦA BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
Nghiên cứu:

2







Điều 295 BLDS 2015 (Điều 320 đến 322 BLDS 2005) và các quy
định liên quan khác (nếu có);


Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân
TP. HCM;
Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân
dân Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang;
Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Tồ án nhân
dân cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh.

Đọc:







Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017,
Chương 3;
Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt
Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam 2021 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 5 và tiếp theo;
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự
Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 387 đến 389.
Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP.
HCM

- Nguyên đơn: ông Phạm Bá Minh
- Bị đơn: bà Bùi Thị Khen và ông Bùi Khắc Thảo

Bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo thế chấp cho ông Phạm Bá Minh
giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60 triệu đồng, thời hạn vay là 6
tháng, lãi suất là 3%/ tháng. Khi hết hạn hợp đồng bà Khen và ông Thảo vẫn chưa trả
hết nợ cho ông Minh. Nay ông Minh khởi kiện yêu cầu bà Khen trả hết số nợ còn lại
trong thời hạn là một tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Cịn về phía bà
Khen, ơng Minh thì đồng ý trả phần còn lại nhưng xin trả trong vòng 12 tháng. Tòa án
xét thấy giấy chứng nhân sạp trên chỉ là giấy đăng kí sử dụng sạp, khơng phải là
quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận sử dụng sạp không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen
trả tiền cho ông Minh. Buộc ông Minh trả lại giấy chứng nhận sử dụng sạp cho bà
Khen và ông Thảo, bà Khen và ơng Thảo có nghĩa vụ thanh tốn tiền cịn lại cho ơng
Minh ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Tóm tắt Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Ôn, bà Lê Thị Xanh.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Rành, bà Hồ Thị Hết
Ngày 30/8/1995 vợ chồng ơng Võ Văn Ơn cùng ơng Nguyễn Văn Rành thỏa
thuận về việc thục đất. Theo đó vợ chồng ơng Ơn giao cho ơng Rành quyền sử dụng
đất để ông Rành canh tác, đổi lại ông Rành sẽ giao lại cho vợ chồng ơng Ơn 30 cây

3


vàng 24k để sử dụng và có thỏa thuận nếu q 3 năm vợ chồng ơng Ơn khơng chuộc
lại đất bằng số vàng trên thì ơng Rành có quyền canh tác ruộng đất trên vĩnh viễn. Hai
bên có lập “Giấy thục đất làm ruộng”. Bản án sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp
trên là “Tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất” và tuyên bố giao dịch thục
đất trên là vơ hiệu. Tịa giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm và công nhận giao dịch
thục đất trên.
Tóm tắt Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân cấp
cao tại Tp. Hồ Chí Minh.


- Nguyên đơn: Ngân hàng liên doanh V
- Bị đơn: Công Ty PT
Lý do tranh chấp: Ngân hàng V và Công ty PT đã ký kết các hợp đồng tín
dụng và để đảm bảo cho khoản vay 1.500.000.000 đồng của Công ty PT theo Hợp
đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 thì giữa ông Trần T, bà Trần Thị H
và Ngân hàng có ký kết hợp đồng thế chấp số 63/2014/HĐTC ngày 05/6/2014. Theo
đó, ơng T và bà H đồng ý thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất có diện tích là
120,75m2 và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất có diện tích sử dụng là 214,62m2 ; đất
thuộc thửa số 392; tờ bản đồ số 3, tại số 40, đường Đ, Phường 13, quận T, Thành phố
H do ông Trần T và bà Trần Thị H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quá
trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Ngân hàng Việt Nga thừa nhận Cơng ty PT đã tất
tốn các khoản vay từ Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 lần lượt
vào các ngày 15/10/2014; ngày 25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì vậy, việc thế chấp
tài sản của ông T, bà H đã chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân
sự năm 2005 và khoản 1 Điều 327 Bộ luật dân sự năm 2015. Nhưng Ngân hàng lại
muốn dùng tài sản thế chấp trên vào các khoản vay khác.
Hướng giải quyết của Tòa án: Chấp nhận Kháng nghị số 10/KNGĐT-VKSKDTM ngày 07/12/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh và hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số
20/2020/KDTM-PT ngày 26/8/2020 của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Dương và giữ
nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 11/2019/KDTM-ST ngày
12/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đối với vụ
án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn Ngân hàng Liên doanh V với bị
đơn Công ty PT.
Và cho biết:

1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản
có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

4



-

-

-

BLDS 2015 đã có những điểm mới so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có
thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ như sau:
Thứ nhất, BLDS 2005 có 3 điều luật quy định về tài sản có thể dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ, cụ thể:
+ Điều 320: vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
+ Điều 321: Tiền, giấy tờ có giá dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
+ Điều 322: Quyền tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
BLDS 2015 đã rút gọn lại thành một điều luật tại Điều 295:
1. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp
cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.
2. Tài sản bảo đảm có thể được mơ tả chung, nhưng phải xác định được.
3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương
lai.
4. Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ
được bảo đảm.
Ở BLDS 2005, việc quy định cụ thể tài sản là vật, tiền, hay quyền tài sản sẽ khơng thể
bao qt được hết những gì là tài sản, vì tài sản có nghĩa rộng hơn những gì BLDS
2005 đã liệt kê.
Thứ hai, Điều 295 BLDS 2015 quy định về tài sản bảo đảm hình thành trong tương
lai. Ở đây, luật đã quy định rõ tài sản, tức là bao gồm những gì là tài sản hình thành
trong tương lai sẽ là tài sản bảo đảm, chứ không chỉ quy định về “vật” hình thành
trong tương lai như ở Điều 320 BLDS 2005.

Thứ ba, BLDS 2015 cũng đã có những điểm mới về phạm vi bảo lãnh mà ở BLDS
2005 chưa có, tại Điều 336 “Phạm vi bảo lãnh”
1. Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho
bên được bảo lãnh.
2. Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường
thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
3. Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
4. Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì
phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh
chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.
Cụ thể, BLDS 2015 quy định rằng, bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một
phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ, biện pháp bảo đảm tài sản sẽ do các bên thoả thuận, và
phạm vi bảo lãnh của nghĩa vụ phát sinh trong tương lai sẽ không bao gồm nghĩa vụ
phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân chấm dứt tồn tại. Đây cũng là
một điểm mới rất quan trọng và thực tế của BLDS 2015.

- Thứ tư, BLDS 2015 đã quy định về giá trị tài sản đảm bảo có thể lớn hơn, bằng hoặc
nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được đảm bảo, tại Khoản 4 Điều 295, mà ở BLDS 2005 chưa

5


quy định về điều này. Đây là biện pháp loại bỏ trường hợp người yêu cầu giá trị tài sản
đảm bảo cao hơn giá trị nghĩa vụ được đảm bảo.

1.2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
Đoạn “nhận thấy” của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay: “vào ngày 14/9/2007 bà Bùi Thị Khen và

ông Nguyễn Khắc Thảo có thế chấp cho ơng một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân
Hương để vay 60.000.000 đồng, thời hạn vay là 6 tháng, lãi suất thoả thuận là
3%tháng” và đoạn “bị đơn là bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo đã xác
nhận có thế chấp một giấy tờ sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vat 60.000.000 đồng
cho ông Phạm Bá Minh là chủ dịch vụ cầm đồ Bá Minh”.

1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản khơng? Vì sao?
Giấy chứng nhận sạp khơng phải là tài sản. Vì:
Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 quy định: Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản.
Theo Khoản 8 Điều 6 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010: “ Giấy tờ có
giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với
người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều
kiện khác”.
Các giấy tờ có giá bao gồm:
a) Hối phiếu địi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được
quy định tại Điều 1 của Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005;
b) Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu cơng ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;
c) Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, cơng trái và cơng cụ khác làm phát sinh nghĩa
vụ trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 của Luật quản lý nợ cơng năm 2009;
d) Các loại chứng khốn (cở phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ
phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm
chứng khốn hoặc chỉ số chứng khốn; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng
khoán khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 của
Luật chứng khốn năm 2006 (đã được sửa đởi, bổ sung một số điều năm 2010);
đ) Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 của Nghị định số
52/2016/NĐ-CP ngày 19/5/2006 của Chính phủ về “Phát hành trái phiếu doanh
nghiệp”…’’


6


Quyền tài sản theo Điều 115 BLDS 2015: Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác.
Giấy chứng nhận sạp khơng thuộc loại giấy tờ có giá hay quyền tài sản nào như
đã nêu trên, do đó giấy chứng nhận sạp không phải là tài sản.

1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tịa
án chấp nhận khơng? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Việc dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo nghĩa vụ dân sự không được Toà án
chấp nhận, trong đoạn: “Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy
chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng kí quyền sử dụng sạp, khơng
phải là quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen
thi hành án trả tiền cho ông Minh”.

1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối
với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
Trong bản án trên, giấy chứng nhận sạp được dùng để bảm đảm nghĩa vụ, nhưng
đó khơng phải là tài sản theo quy định của pháp luật, mà chỉ là giấy đăng kí sử dụng
sạp. Bà Khen cũng khơng lấy chính sạp D2-9 hay quyền sở hữu sạp để làm tài sản
đảm bảo. Vì vậy, hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Toà án đối với sự việc này là
hoàn tồn hợp lý và có cơ sở.

1.6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố?
Đoạn: “Ngày 30/8/1995” vợ chồng ông Võ Văn Ổn và Lê Thị Xanh cùng ông
Nguyễn Văn Rành thoả thuận việc thục đất. Hai bên có lập “Giấy thục đất làm
ruộng” với nội dung giống như việc cầm cố tài sản”, “Bản án sơ thẩm xác định quan

hệ tranh chấp là “tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất” là đúng”.

1.7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không?
Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?
Khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Người sử dụng đất được
thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng
cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất”.
Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản” và Điều 115 BLDS 2015 “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao

7


gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác”.
Vì quyền sử dụng đất được luật thừa nhận là quyền tài sản, là bất động sản nên
quyền sử dụng đất là tài sản thuộc sở hữu của một chủ thể có quyền sử dụng đất đó.
Luật đất đai không quy định về cấm cầm cố quyền sử dụng đất, người sử dụng
đất “được” thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,
thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai
(Khoản 1 Điều 167) mà khơng có quy định hạn chế quyền của người sử dụng. BLDS
2015 cho phép cầm cố bất động sản.
Dựa vào những cơ sở pháp lý và lập luận trên, tôi cho rằng quy định hiện nay
của BLDS 2015 và Luật Đất đai 2013 thì có thể cầm cố quyền sử dụng đất, nhưng
không được vi phạm điều cấm của luật theo quy định của BLDS 2015.

1.8. Trong Quyết định trên, Tịa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định trên, Tịa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất
để cầm cố.

Đoạn của Quyết định: “Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét thấy kháng nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang là có căn cứ chấp nhận.”
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang: “… Với
giao dịch trên cho thấy mặc dù pháp luật dân sự không qui định cụ thể cho người sử
dụng đất có quyền cầm cố QSDĐ nhưng xét về bản chất của giao dịch này thấy rằng
giữa các bên đương sự đã thực hiện một giao dịch cầm cố tài sản cho nhau và giao
dịch này không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội và tuân thủ đúng quy định
của pháp luật về hình thức, nội dung của hợp đồng cầm cố tài sản được Bộ luật Dân
sự quy định từ Điều 326 đến Điều 341.”
Qua đó, tơi thấy rằng mặc dù khơng nói rõ trong bản án nhưng với việc chấp
nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát tỉnh Tiền Giang đồng nghĩa với việc
Hội đồng xét xử giám đốc thẩm đã đồng ý với việc cho phép dùng quyền sư dụng đất
để cầm cố.

1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết
định số 02.
Theo suy nghĩ của tơi hướng giai quyết trên của Tịa án là hồn tồn hợp lí, phù
hợp với quy định của pháp luật khi cơng nhận giao dịch thục đất trên. Vì theo như
trình bày ở trên thì quyền sử dụng đất là quyền tài sản, theo Điều 115: “Quyền tài sản
là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu
trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Và trong quy định của Luật Đất
đai cũng không cấm việc cầm giấy chứng nhận đất để cầm cố. Thêm vào đó, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trên thuộc sở hữu của ơng Ơn và bà Xanh, việc cầm cố

8


cũng được lập thành văn bản nên việc đem đi cầm cố là hoàn toàn phù hợp với quy
định của pháp luật dân sự về cầm cô tài sản tại Điều 309: “Cầm cố tài sản là việc một
bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên

kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”.

1.10.Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ
nào? Vì sao?
Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để đảm bảo cho nghĩa vụ trả
nợ.
Vì đối tượng kinh doanh là tiền và thu nhập chủ yếu của ngân hàng được tạo ra từ hoạt
động tín dụng. Trong khi đó bất kì một khoản cho vay nào cũng đều chứa đựng những
rủi ro nhất định. Một khi có rủi ro xảy ra thì ngân hàng phải chịu tởn thất. Để hạn chế
rủi ro thì ngay từ đầu tất cả các khoản cho vay phải có ít nhất hai nguồn trả nợ tách
biệt. Do đó bảo đảm tín dụng là một tiêu chuẩn bổ sung những hạn chế của nhà quản
trị ngân hàng cũng như phịng ngừa những diễn biến khơng thuận lợi.

1.11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế
chấp đã chấm dứt?
Đoạn “Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Ngân hàng Việt Nga thừa nhận
Cơng ty PT đã tất tốn các khoản vay từ Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày
14/4/2014 lần lượt vào các ngày 15/10/2014; ngày 25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì
vậy, việc thế chấp tài sản của ơng T, bà H đã chấm dứt theo quy định tại Khoản 1 Điều
357 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Khoản 1 Điều 327 Bộ luật Dân sự năm 2015.”

1.12.Vì sao Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt?
Vì theo sự xác nhận của phía Ngân hàng thì Cơng ty PT đã thanh tốn tất cả các
khoản nợ theo các hợp đồng tín dụng cụ thể và phía Ngân hàng cũng đã tất tốn các
hợp đồng này vào ngày cuối cùng là 25/11/2014. Do vậy, căn cứ theo quy định tại
khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005 và theo Khoản 1 Điều 327 Bộ luật Dân sự
2015 về việc thế chấp tài sản chấm dứt khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp
chấm dứt thì Hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 đã
chấm dứt, hết hiệu lực từ ngày 25/11/2014.


1.13.Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết
phục khơng? Vì sao?
Việc Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt hồn tồn thuyết phục.
Vì:
+ Hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC ngày 05/6/2014 được ký kết
với ông Trần T, bà Trần Thị H với Ngân hàng V để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ

9


1.500.000.000 đồng. Tại Khoản 2, Điều 1 của hợp đồng nêu trên, đã thỏa thuận
“Bên thế chấp đồng ý dùng tồn bộ tài sản thế chấp được mơ tả tại Điều 2 Hợp
đồng này để bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ phát sinh trong
tương lai theo tồn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên
vay trong giới hạn số tiền tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp” nhưng ngày
17/6/2014, Ngân hàng và Công ty PT ký kết Phụ lục 01 sửa đổi, bổ sung hợp đồng
tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014, nâng hạn mức tín dụng từ
1,5 tỷ đồng lên 5 tỷ đồng. Ngày 23/09/2014, Ngân hàng và Công ty PT ký kết Phụ
lục 02 sửa đởi, bở sung hợp đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày
14/4/2014, nâng hạn mức tín dụng từ 1,5 tỷ đồng lên 10 tỷ đồng. Như vậy, Ngân
hàng đã tự ý nâng hạn mức tín dụng mà không được sự đồng ý của ông Trần T, bà
Trần Thị H.
+ Đồng thời theo quyết định của Tòa án nhân dân tối cao: “nguyên đơn Ngân hàng
Việt Nga thừa nhận Cơng ty PT đã tất tốn các khoản vay từ Hợp đồng tín dụng số
60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 lần lượt vào các ngày 15/10/2014; ngày
25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì vậy, việc thế chấp tài sản của ông T, bà H đã
chấm dứt theo quy định tại Khoản 1 Điều 357 Bộ luật ân sự năm 2005 và Khoản 1
Điều 327 Bộ luật Dân sự năm 2015.

VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

Nghiên cứu:



Điều 297 và Điều 298 BLDS 2015 (Điều 323, 325 BLDS2005) và
các quy định liên quan khác (nếu có);
Bản án số 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 của Tồ án nhân dân
TP. Hà Nội.

Đọc:







Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017,
Chương 3;
Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt
Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam 2021 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 31 và tiếp theo;
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự
Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 390;
Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Tóm tắt bản án: số: 09/2019/KDTM-PT ngày 16/08/2019 về v/v: "Tranh chấp hợp
đồng tín dụng" của Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội.


- Nguyên đơn: Ngân hàng N
- Bị đơn: Công ty TNHH xây dựng và thương mại V
Hai bên đã ký hợp đồng tín dụng như sau: Hợp đồng tín dụng số 1421-LAV200900142/HĐTD ký ngày 29/9/2009 và số 1421-LAV-201000037/HMTD ký ngày
21/05/2010 và 21/5/2012, Ngân hàng N tiếp tục ký Hợp đồng hạn mức tín dụng số

10


1421-LAV-201000037, theo đó Ngân hàng N tiếp tục gia hạn cho cơng ty thêm 12
tháng với hạn mức tín dụng như cũ. Quá trình thực hiện hợp đồng này, Ngân hàng N
chưa giải ngân mà chỉ theo dõi phần dư nợ chuyển sang giữa Ngân hàng N với Công
ty V. Ngân hàng u cầu Cơng ty V phải thanh tốn trả nợ gốc, lãi và lãi chậm trả phát
sinh từ hợp đồng tín dụng hạn mức. Tài sản đảm bảo cho các khoản vay trên là:
Quyền sử dụng đất và tài sản mang tên chủ sở hữu là ông Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị
V. Động sản là Hệ thống khoan cọc nhồi KH125-3.
Bản án sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N về việc u cầu
Cơng ty V phải thanh tốn trả nợ gốc, lãi và lãi chậm trả phát sinh từ Hợp đồng tín
dụng hạn mức số 1421-LAV 200900142/HĐTD ký ngày 29/9/2009 và Hợp đồng tín
dụng số 1421-LAV-201000037/HMTD ký ngày 21/05/2010 và ngày 21/5/2012. Buộc
Cơng ty V phải thanh tốn cho Ngân hàng N số tiền vay và lãi suất trong hạn, lãi suất
quá hạn các khoản nợ.
Tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản số công chứng: 1013.2009/HĐTC, ngày
07/9/2009 được ký kết giữa bên thế chấp là ông Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị V, bên
nhận thế chấp là Ngân hàng và bên vay là Công ty V chưa phát sinh hiệu lực pháp
luật.Ngân hàng N và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là ông
Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị V phải đi đăng ký lại giao dịch bảo đảm theo đúng quy
định.
Bản án phúc thẩm tuyên:
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Đỗ Văn Q và bà

Phạm Thị V do vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm hai lần.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N về việc yêu cầu
Cơng ty V phải thanh tốn trả nợ gốc, lãi và lãi chậm trả phát sinh từ hợp đồng tín
dụng hạn mức như bản án sơ thẩm.
Bác bỏ yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (ông Q, bà
V) về việc tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản là vô hiệu, chưa phát sinh hiệu lực
pháp luật cũng như yêu cầu Ngân hàng N phải trả lại bản gốc Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà và quyền sử dụng đất.
Và cho biết:

2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Tại BLDS 2015 thì nội hàm về đăng ký giao dịch bảo đảm khơng có gì mới,
vẫn trên tinh thần kế thừa BLDS 2005, chỉ thay đổi về thuật ngữ “giao dịch” và “biện
pháp”. BLDS 2005 đề cập về vấn đề “đăng ký giao dịch bảo đảm”, cịn BLDS 2015
thì quy định về “đăng ký biện pháp bảo đảm”. Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự
do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm.

11


Tại BLDS 2015 đã dùng “biện pháp” để giới hạn lại phạm vi cần bảo đảm được quy
định tại điều 292 BLDS 2015.

2.2. Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường
hợp phải đăng ký khơng? Vì sao?
Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 là trường hợp phải
đăng ký vì: Theo quy định của pháp luật, Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 163/2006/NĐCP thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm bắt buộc trong các trường hợp sau: thế chấp
quyền sử dụng đất; thế chấp quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng
trồng; thế chấp tàu bay, tàu biển; thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều
nghĩa vụ; các trường hợp khác do pháp luật quy định.

Như vậy, hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 là hợp đồng
thế chấp tài sản cụ thể là nhà đất để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ nên thuộc trường hợp
phải đăng ký.

2.3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 chưa được đăng ký phù hợp với quy định.
Đoạn trong bản án cho câu trả lời: “Tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản số
công chứng: 1013.2009/HĐTC, ngày 07/9/2009 được ký kết giữa bên thế chấp là ông
Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị V, bên nhận thế chấp là Ngân hàng và bên vay là Công ty
V chưa phát sinh hiệu lực pháp luật. Ngân hàng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập là ông Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị V phải đi đăng ký lại giao
dịch bảo đảm theo đúng quy định”.

2.4. Theo Tồ án, nếu khơng được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 có
vơ hiệu khơng? Vì sao?
Theo Tịa án, nếu khơng được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 sẽ vơ
hiệu.
Vì dựa trên những cơ sở pháp lý sau: Khoản 1 Điều 298 BLDS 2015 quy định:
“1. Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định
của luật.
Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong
trường hợp luật có quy định”.
 Do đó, việc đăng ký là điều kiện để hợp đồng này có hiệu lực.
- Điểm b Khoản 1 Điều 4 Nghị định 102/2017/NĐ-CP:

12


“b) Thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đó đã được

chứng nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”.
Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 thuộc trường hợp mà pháp luật quy định phải đăng
ký.
- Khoản 1 Điều 5 Nghị định 102/2017/NĐ-CP quy định:
“1. Trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản
gắn liền với đất, tàu bay, tàu biển, thì thời điểm có hiệu lực của đăng ký
biện pháp bảo đảm là thời điểm cơ quan đăng ký ghi nội dung đăng ký
vào sổ đăng ký. Trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tài sản là
động sản khác, thì thời điểm có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm
là thời điểm nội dung đăng ký được cập nhật vào cơ sở dữ liệu về biện
pháp bảo đảm.”
Qua đó, về nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thế chấp quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp nên nếu khơng được đăng
ký thì hợp đồng thế chấp sẽ vơ hiệu.
Từ những cơ sở nêu trên, việc hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 nếu không được
đăng ký sẽ trở nên vô hiệu và mất giá trị pháp lý.

2.5. Hướng của Toà án như trong câu hỏi trên có thuyết phục khơng? Vì sao?
Hướng của Tịa án như trong câu hỏi trên là thuyết phục, vì:
Tịa đã áp dụng những QPPL mà pháp luật quy định nhằm đảm bảo tính cơng
bằng, về bản chất đăng ký giao dịch bảo đảm là hoạt động ghi vào sổ đăng ký các giao
dịch, hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo một trình tự, thủ tục luật
định nhằm đảm bảo hiệu lực của các giao dịch bảo đảm hoặc có hiệu lực đối với
người thứ ba. Do đó nếu khơng được đăng ký thì hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 sẽ
khơng được ghi nhận khiến hợp đồng này trở nên vô hiệu và như vậy sẽ ảnh hưởng
lớn đến quyền lợi của bên có quyền.

VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC
Nghiên cứu:





Điều 328 BLDS 2015 (Điều 358 BLDS2005) và các quy định liên
quan khác (nếu có);
Án lệ số 25/2018/AL; Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày
18/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Tồ án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh.

Đọc:

13











Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017,
Chương 3;
Hồng Thế Cường, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt

Nam 2017, Vấn đề 19;
Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt
Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam 2021 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 149 và tiếp theo;
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự
Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 393 và 394;
Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:

3.1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp

Cơ sở
pháp lý

Khái
niệm

Phương
thức
thực
hiện

Cầm cố tài sản

Đặt cọc

Thế chấp

Điều 309 BLDS 2015


Điều 328 BLDS 2015

Điều 317 BLDS 2015

Cầm cố tài sản là việc một
bên (sau đây gọi là bên
cầm cố) giao tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình
cho bên kia (sau đây gọi là
bên nhận cầm cố) để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ
(điều 309)

Thế chấp tài sản là
việc một bên (sau
đây gọi là bên thế
Đặt cọc là việc một bên
chấp) dùng tài sản
(sau đây gọi là bên đặt
thuộc sở hữu của
cọc) giao cho bên kia (sau mình để bảo đảm
đây gọi là bên nhận đặt
thực hiện nghĩa vụ và
cọc) một khoản tiền hoặc
khơng giao tài sản
kim khí q, đá q hoặc
cho bên kia (sau đây
vật có giá trị khác (sau đây gọi là bên nhận thế
gọi chung là tài sản đặt

chấp).
cọc) trong một thời hạn để Tài sản thế chấp do
bảo đảm giao kết hoặc
bên thế chấp giữ. Các
thực hiện hợp đồng (điều bên có thể thỏa
328)
thuận giao cho người
thứ ba giữ tài sản thế
chấp.

Bên cầm cố giao tài sản
Một bên giao cho bên kia
thuộc quyền sở hữu của
một khoản tiền hoặc kim
mình cho bên nhận cầm cố khí q, đá q hoặc vật có
giá trị khác

14

Tài sản thế chấp do
bên thế chấp giữ. Các
bên có thể thỏa
thuận giao cho người


Các
trường
hợp
chấm
dứt


1. Nghĩa vụ được bảo đảm
bằng cầm cố chấm dứt.
2. Việc cầm cố tài sản
được hủy bỏ hoặc được
Khơng có quy định về
thay thế bằng biện pháp
trường hợp chấm dứt đặt
bảo đảm khác.
cọc
3. Tài sản cầm cố đã được
xử lý.
4. Theo thỏa thuận của các
bên.

Việc trả
lại tài
sản bảo
đảm

Tài sản cầm cố được trả lại
cho bên cầm cố. Hoa lợi,
lợi tức thu được từ tài sản
cầm cố cũng được trả lại
cho bên cầm cố

Bảo đảm thực hiện nghĩa
Mục đích vụ dân sự
Xử lý tài
sản bảo

đảm

Được bán, thay thế, trao
đổi, tặng cho tài sản cầm
cố nếu được bên nhận
cầm cố đồng ý hoặc theo
quy định của pháp luật

thứ ba giữ tài sản thế
chấp.
1. Nghĩa vụ được bảo
đảm bằng thế chấp
chấm dứt.
2. Việc thế chấp tài
sản được hủy bỏ
hoặc được thay thế
bằng biện pháp bảo
đảm khác.
3. Tài sản thế chấp đã
được xử lý.
4. Theo thỏa thuận
của các bên.

Nhận lại tài sản thế
Tài sản đặt cọc được trả lại chấp do người thứ ba
cho bên đặt cọc hoặc được giữ và giấy tờ liên
trừ để thực hiện nghĩa vụ
quan đến tài sản thế
trả tiền
chấp do bên nhận

thế chấp giữ
Bảo đảm việc giao kết
hoặc thực hiện hợp đồng

Bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự

Được bán, thay thế, trao
Khơng có quy định về
đổi, tặng cho tài sản cầm
xử lý tài sản bảo đảm
cố nếu được bên nhận
cầm cố đồng ý hoặc theo
quy định của pháp luật
Trường hợp hợp đồng
được giao kết, thực hiện
thì tài sản đặt cọc được trả
lại cho bên đặt cọc hoặc
được trừ để thực hiện
nghĩa vụ trả tiền; nếu bên
đặt cọc từ chối việc giao
kết, thực hiện hợp đồng
thì tài sản đặt cọc thuộc về
bên nhận đặt cọc; nếu bên
nhận đặt cọc từ chối việc
giao kết, thực hiện hợp
đồng thì phải trả cho bên
đặt cọc tài sản đặt cọc và

15



một khoản tiền tương
đương giá trị tài sản đặt
cọc, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác.

3.2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc
Đặt cọc

BLDS 2005

BLDS 2015

Cơ sở pháp


Được quy định tại Điều 358

Được quy định tại Điều 328

Đặt cọc là việc một bên giao cho bên
kia một khoản tiền hoặc kim khí q, đá
q hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi
là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn
để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện
hợp đồng dân sự. Việc đặt cọc phải
được lập thành văn bản

Đặt cọc là việc một bên (sau đây

gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia
(sau đây gọi là bên nhận đặt cọc)
một khoản tiền hoặc kim khí quý,
đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau
đây gọi chung là tài sản đặt cọc)
trong một thời hạn để bảo đảm
giao kết hoặc thực hiện hợp đồng

Thỏa thuận phải được lập thành văn
bản, đối với thỏa thuận bằng miệng thì
sẽ khơng có giá trị pháp lý.

Có thể xác lập bằng bất cứ hình
thức nào.

Khái niệm

Hình thức
thỏa thuận
đặt cọc

16


Mục đích
của đặt cọc

- Thỏa thuận đặt cọc phải được lập
thành văn bản. Thỏa thuận đặt cọc có
thể được thể hiện bằng văn bản riêng

nhưng cũng có thể được thể hiện bằng
một điều khoản trong hợp đồng chính
thức.
- Đối với đặt cọc nhằm giao kết hợp
đồng thì việc đặt cọc phải được thể
hiện bằng văn bản riêng vì tại thời
điểm giao kết thỏa thuận đặt cọc thì
hợp đồng chưa được hình thành.
- Bên cạnh đó, pháp luật cũng khơng
quy định thỏa thuận đặt cọc bắt buộc
phải công chứng chứng thực, mà tùy
vào thỏa thuận giữa các bên.

- Các bên trong đặt cọc có thể thỏa
thuận về mục đích của đặt cọc
theo một trong ba trường hợp sau:
“Chỉ bảo đảm cho việc giao kết hợp
đồng, thực hiện hiện hợp đồng
hoặc vừa bảo đảm cho việc giao
kết hoặc vừa bảo đảm cho việc
thực hiện hợp đồng”.
- Việc đặt cọc là một trong các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ,
chỉ cần bảo đảm đúng mục đích,
ngồi ra khơng địi hỏi đáp ứng về
điều kiện hình thức xác lập.
- Tuy nhiên các bên vẫn nên có
những hình thức xác lập thỏa
thuận dễ nhận biết và xử lý cũng
như dễ dàng cho các bên chứng

minh.

3.3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 328 BLDS 2015
Bên đặt cọc mất cọc trong trường hợp “bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực
hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc”.
Bên nhận cọc bị phạt cọc trong trường hợp “bên nhận từ chối việc giao kết,
thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền
tương đương giá trị tài sản đặt cọc”.

3.4. Nếu hợp đồng được đặt cọc khơng được giao kết, thực hiện vì lý do khách
quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc
khơng? Vì sao?
Nếu hợp đồng đặt cọc không được giao kết hay bị vô hiệu vì lý do khách quan
thì khơng làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên, bên
nhận cọc có nghĩa vụ hồn trả những gì đã nhận từ người đặt cọc và người nhận cọc
không phải trả tiền phạt cọc. Trong thực tiễn xét xử, Án lệ số 25/2018/Al đã chứng
minh cho điều trên, và Án lệ đã bổ sung 1 phần lỗ hổng trong Điều 328 BLDS 2015
khi pháp luật không quy định về việc phạt tiền cọc trong trường hợp vì lý do bất khả
kháng.

17


Đối với Quyết định số 49:
Tóm tắt Án lệ số 25/2018/AL; Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày
18/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh
Tịa án nhân dân cấp cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh
thương mại: “tranh chấp đòi lại tiền đặt cọc từ việc hủy hợp đồng mua bán cổ phần”.
Nguyên đơn là Công ty cổ phần TV-TM-DV địa ốc Hoàng Quân. Người đại diện hợp

pháp của nguyên đơn: Ông Phan Hùng. Bị đơn là công ty TNHH Thương Mại và xây
dựng Sơn Long Thuận, người đại diện là ông Đinh Ấn (Giám đốc công ty). Người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển
Việt Nam, người đại diện là ơng Nguyễn Tấn Diện ( phó giám đốc ngân hàng), cịn có
Tởng cơng ty và đầu tư kinh doanh vốn nhà nước. Ngày 20/02/2008, Công ty Cổ phần
du lịch Ninh Thuận ký kết biên bản thỏa thuận bán 3.912 cổ phiếu, mệnh giá 100.000
đồng/cổ phiếu, tổng là 3.919.200.000 đồng, thuộc sở hữu của Tổng Công ty Đầu tư và
Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) tại Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận cho Công
ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hồng Qn. Ngày 22/02/2008 Cơng ty Cở phần TVTM-DV Địa ốc Hoàng Quân chuyển một tỷ đồng tiền đặt cọc mua cổ phiếu vào tài
khoản của Công ty du lịch Ninh Thuận tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và
Phát triển Việt Nam và Ngân hàng này đã trích tài khoản này để thu nợ ấy của Công ty
Ninh Thuận. Thỏa thuận không đạt được, Công ty Ninh Thuận cam kết hoàn trả một
tỷ đồng và lãi suất. Sau đó Cơng ty Ninh Thuận đởi thành Cơng ty TNHH du lịch
Ninh Thuận và hiện nay đã sáp nhập vào Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng
Sơn Long Thuận. Vì vậy, ngun đơn (gọi tắt là Cơng ty Hồng Qn) khởi kiện buộc
Cơng ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận hoặc Ngân hàng Thương
mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh NinhT huận hoàn trả 1 tỷ
đồng và khơng u cầu lãi suất.

3.5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc
cho bên nhận cọc như thế nào?
Ngày 22/02/2008, Công ty cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân chuyển
1.000.000.000 đồng (1 tỷ đồng) tiền đặt cọc (mua 39.192 cổ phiếu, mệnh giá 100.000
đồng/ cổ phiếu, tổng giá trị, tổng giá trị là 3.919.200 đồng, thuộc sở hữu của Công ty
SCIC tại công ty cổ phần du lịch Ninh Thuận tại ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu
tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Ninh Thuận đã trích tài khoản này để thu
nợ vay của Công ty cổ phần du lịch Ninh Thuận.

3.6. Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc
cịn thuộc sở hữu của bên đặt cọc khơng? Vì sao?


18


Tài sản đặt cọc vẫn còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc. Căn cứ theo khoản 1
điều 328, BLDS 2015: “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho
bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý
hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để
bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”. Vậy nên số tiền 1.000.000.000 đồng đặt
cọc của Công ty Hoàng Quân vẫn chưa thuộc quyền sở hữu của Cơng ty Ninh Thuận
vì hợp đồng chưa được xác lập. Tòa giám đốc thẩm đã áp dụng điều 332, bộ luật dân
sự 2015: “Trường hợp bên mua khơng hồn thành nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán
theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số
tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường
hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền u cầu bồi thường thiệt
hại”, do đó Tịa án đã chấp nhận u cầu khởi kiện của Cơng ty Hồng Qn, buộc
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam có trách nhiệm hồn
trả cho Cơng ty Hồng Qn 1.000.000.000 đồng là có căn cứ, đúng quy định của
pháp luật.

3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm
liên quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến quyền sở hữu tài sản
đặt cọc là hợp lý. Tòa án quyết định giữ nguyên bản án số 01/ 2018/ KDTM-PT ngày
07/03/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận: không chấp nhận kháng cáo của
ngân hàng và buộc ngân hàng phải hoàn trả số tiền 1.000.000.000 đồng cho Cơng ty
Hồng Qn. Căn cứ theo Khoản 1 Điều 328, BLDS 2015:“Đặt cọc là việc một bên
(sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một
khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài
sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”. Số

tiền mà Cơng ty Hồng Qn đặt cọc cho Công ty Ninh Thuận để mua cổ phiếu mà
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam khấu trừ nợ đối với
Công ty Ninh Thuận là trái với quy định của pháp luật, vì số tiền này chưa thuộc
quyền sở hữu của Cơng ty Ninh Thuận, do đó Tịa đã áp dụng Điều 332, Bộ luật Dân
sự 2015:“Trường hợp bên mua khơng hồn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán
theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số
tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường
hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền u cầu bồi thường thiệt
hại” yêu cầu Ngân hàng phải có trách nhiệm hồn trả số tiền 1.000.000.000 cho cho
Cơng ty Hồng Qn.
Đồng thời, Tịa khơng chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm số
160/QĐKNGĐT- VKS- KDTM ngày 24/09/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

19




Bản án số 26

Tóm tắt bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của TAND tỉnh Quảng Ninh
Vụ việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc

-

Ngun đơn: ơng Vũ Đình P
Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Thị Kim A
Bị đơn: ông Trần Xuân I
Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Thuý L


Cụ thể: ông P nhờ ông I mua một chiếc xe ô tô sản xuất năm 2016 từ Mỹ về và đã ký
văn bản thoả thuận đặt cọc số tiền 450.000.000đ mua xe ô tô với thời gian giao xe là
trước Tết dương lịch năm 2017 (khơng có giá xe). Nhưng sau đó, ơng I khơng giao
đúng hạn, đến tháng 11/2017 hai bên lại ký bản cam kết thời hạn bàn giao xe và sẽ
làm thủ tục mua bán và bán giao xe vào 08/01/2018. Nhưng ông I đã khơng thực hiện
được vì lý do chính sách pháp luật ở Mỹ thay đổi nên không nhập khẩu xe ô tơ về
được. Do đó, ơng I hồn trả lại ơng P 450.000.000đ. Sau ông P làm đơn khởi kiện yêu
cầu ông I trả tiền cọc là phạt cọc.
Cách giải quyết của Tồ án: Tun thoả thuận đặt cọc giữa ơng P và ông I vô hiệu.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ơng Vũ Đình P về việc u cầu ông I phải trr
số tiền phạt cọc là 450.000.000đ.

3.8. Đoạn nào cho thấy Tòa án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?
Đoạn cho thấy Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL:
“Mặt khác, thực tế ông I cũng đã từng nhờ em gái mua được ô tô nhập khẩu từ
Mỹ về Việt Nam để sử dụng (có thể dưới dạng quà tặng, quà biếu), nên ông mới đồng
ý mua hộ ơng P; nhưng hồn tồn phụ thuộc vào chính sách quản lý của Nhà nước ở
từng thời điểm và hoàn toàn phụ thuộc vào người thân bên Mỹ và Đại lý nhập khẩu;
Vì ơng I khơng có xe ô tô để bán và cũng không có đủ điều kiện nhập khẩu xe để bán
cho ông P; ông P biết rõ điều này và khơng có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh rằng
ơng I có khả năng bán xe ơ tơ cho ơng P, nhưng cố tình từ chối thực hiện. Do đó, việc
ơng I khơng thực hiện được thỏa thuận là do yếu tố khách quan.
Căn cứ theo Án lệ số 25/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân
tối cao thơng qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số
269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao:
“Trường hợp bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do yếu tố khách
quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt cọc”.”

3.9. Việc Toà án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc

này có thuyết phục khơng? Vì sao?

20


Theo nhóm, việc Tồ án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc
này là chưa thuyết phục. Vì những nguyên do sau:
Thứ nhất: Căn cứ nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán
TANDTC, tiêu chí để áp dụng Án lệ đó là phải đưa ra được những tình tiết then chốt
của vụ việc tác động quyết định hoặc phán quyết của Tồ án. Vì những tình tiết này là
yếu tố quan trọng mà Tồ án sau sẽ dựa vào đó để quyết định áp dụng Án lệ cho
những vụ việc tương tự sau này. Mà ở đây, theo người viết, Án lệ 25/2018/AL cho
thấy sự thiếu sót trong việc đưa ra những giải thích và phân tích hợp lý các quy định
được áp dụng trong quyết định của TANDTC. Cụ thể là Án lệ số 25 đưa ra thuật ngữ
"nguyên nhân khách quan" nhưng lại khơng đưa ra được lời giải thích rõ ràng nào về
thuật ngữ này và thuật ngữ này cũng không được định nghĩa trong luật. Tồ nhận định:
"Nếu có căn cứ xác định cơ quan thi hành án dân sự chậm trễ trong việc chuyển tên
quyền sở hữu cho bà H thì lỗi dẫn tới việc bà H khơng thể thực hiện đúng cam kết với
ông L thuộc về khách quan và bà H không phải chịu phạt tiền cọc ", qua đó ta cũng
khơng thể xác định ngun nhân khách quan trên có thuộc vào Khoản 2 Điều 584
BLDS 2015 cụ thể là thuộc vào trường hợp sự kiện bất khả kháng hay không:
"2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn
toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật
có quy định khác."
Người viết cho rằng, Án lệ cần phải có những phân tích nhằm chứng minh việc
quá hạn của Cơ quan Thi hành án Dân sự là sự kiện bất khả kháng theo các điều kiện:

1. Việc chậm trễ của Cơ quan Thi hành án Dân sự xảy ra ngoài ý chí của ơng
L và bà H.

2. Việc chậm trễ ơng L và bà H không thể lường trước được.
3. Bà H không thể khắc phục dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết.
Thứ hai: Ở Án lệ số 25 hai bên đã ký Hợp đồng đặt cọc để bảo đảm giao kết
hợp đồng mua bán nhà và đây là hợp đồng hợp pháp; còn ở bản án này ta sẽ thấy rằng:
theo quy định của pháp luật việc kinh doanh mua bán xe ô tô nhập khẩu là loại hàng
hóa kinh doanh có điều kiện, thương nhân phải đăng ký và được cơ quan có thẩm
quyền cấp giấy phép kinh doanh (Quy định tại Điểm a,b Khoản 1 Điều 9, Nghị định
số 187/2013/NĐ – CP, ngày 20/11/2013; Điểm 4,5 Điều 6, Thông tư số 04/2014/ TT –
BCT, ngày 27/01/2014; Điều 3,4 Thông tư số 143/2015/ TT – BTC, ngày 11/9/2015;
Điều 14, 15, 16 Nghị định 116/2017/CP ngày 17/10/2017 quy định về điều kiện, thủ
tục cấp phép nhập khẩu ô tơ). Ơng P và ơng I ký hợp đồng đặt cọc với tư cách là cá
nhân với nhau, bản thân ông I không được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép kinh
doanh nhập khẩu xe ô tô và ngay cả doanh nghiệp do ông I làm chủ là Công ty Cổ
phần P L cũng không đăng ký kinh doanh nhập khẩu xe ôtô. Việc ký hợp đồng đặt cọc

21


giữa ông P và ông I đã vi phạm các quy định của pháp luật về mua bán nhập khẩu xe ô
tô, vi phạm Điều 117, Điều 122, Điều 123 BLDS năm 2015, nên hợp đồng này vô
hiệu và không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên.
Do đó, giao dịch này vơ hiệu và yêu cầu phạt đặt cọc của ông P là khơng có căn cứ. Vì
vậy việc đặt vụ việc của Án lệ số 25 vào để áp dụng ở bản án này là khơng cần thiết.

3.10. Việc Tồ án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu
cầu ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ
số 25/2018/AL khơng? Vì sao?
Theo nhóm, việc Tồ án "khơng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P về việc
yêu cầu ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ" là phù hợp với Án lệ số
25/2018/AL

Giải pháp pháp lý Án lệ đề ra là phải xác định việc bên nhận đặt cọc không thể
thực hiện đúng cam kết là do khách quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt
cọc.
Như vậy, đối với vụ án tranh chấp hợp đồng đặt cọc một khi đã hội tụ đủ các
nội dung mà tình huống Án lệ số 25/2018/AL nêu ra, thì phải được giải quyết theo
đúng giải pháp pháp lý của án lệ đã đưa ra. Tức là, trong quá trình xét xử Thẩm phán,
Hội thẩm phải “bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được
giải quyết như nhau” (Khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP).
Và trong bản án số 26/2019/DS-PT ngoại trừ việc hợp đồng vơ hiệu, ta có thể
thấy cả hai bản án đều là không thực hiện thoả thuận đúng hạn do nguyên nhân khách
quan và không phỉa lỗi của người nhận cọc. Vì vụ việc tương tự, có tình tiết và sự kiện
pháp lý tương đồng thì phải được giải quyết giống nhau.

VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH
Nghiên cứu:



Điều 335 BLDS 2015 (Điều 361 BLDS 2005) và các quy định liên
quan khác (nếu có);
Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Quyết định số 968/2011/DSGĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

Đọc:


Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017,
Chương 3;


22









Nguyễn Trương Tín, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam 2017, Vấn đề 18;
Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt
Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam 2021 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 186 và tiếp theo;
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự
Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 395 đến 396;
Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:

4.1. Những đặc trưng của bảo lãnh
Theo Khoản 1 Điều 355 BLDS 2015 quy định bảo lãnh như sau:

1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với
bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến
thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện khơng đúng nghĩa vụ.

2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh khơng có
khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

 Phạm vi của bảo lãnh được quy định tại Điều 336 BLDS 2015 như sau:
– Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên
được bảo lãnh.
– Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt
hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
– Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
– Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm
vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc
pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.

 Bảo lãnh sẽ chấm dứt trong trường hợp sau đây:





Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt
Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác
Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Theo thỏa thuận của các bên

23


 Chế định bảo lãnh làm phát sinh hai mối quan hệ:

+ Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh (Điều 337 BLDS 2015).
+ Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh (Điều 339 BLDS 2015).
Nghĩa vụ giữa những người cùng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh là nghĩa vụ
liên đới, trừ khi có thỏa thuận khác (Điều 338 BLDS 2015).

4.2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh
Thứ nhất, về hình thức bảo lãnh. BLDS 2015 khơng quy định về hình thức bảo
lãnh. Trong khi đó, tại Điều 362 BLDS 2005 qui định bắt buộc việc bảo lãnh phải
được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính.
Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải được cơng chứng
hoặc chứng thực.
Đây là điểm mới tích cực của BLDS 2015 so với BLDS 2005. Bởi lẽ, việc khơng
quy định về hình thức bảo lãnh sẽ giúp các bên linh hoạt hơn, chủ động hơn trong việc
thiết lập quan hệ bảo lãnh.
Thứ hai, một số điểm mới về phạm vi bảo lãnh. BLDS 2005 quy định bên bảo
lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
Tuy nhiên, BLDS 2015 có mở rộng thêm nghĩa vụ bảo lãnh gồm cả “lãi trên số tiền
chậm trả” so với quy định chỉ có “tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt
hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác” ở BLDS 2005.
Khoản 4 Điều 336 BLDS 2015 quy định trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là
nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát
sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.
Thứ ba, về quyền yêu cầu của bên bảo lãnh. Quyền yêu cầu của bên bảo lãnh
quy định là bên bảo lãnh chỉ được yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối
với mình trong phạm vi bảo lãnh, khi bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ quy định
tại Điều 367 BLDS 2005. So với Điều 340 BLDS 2015 quy định rằng, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác, bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa
vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện.
Với quy định này, bên bảo lãnh có thể yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ đối với mình ngay cả khi bên bảo lãnh chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với bên

nhận bảo lãnh trong phạm vi nghĩa vụ mà bên bảo lãnh đã thực hiện. Hay nói cách
khác, bên bảo lãnh, họ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đến đâu (trong
phạm vi bảo lãnh) thì họ có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh phải hồn trả lại cho họ
đến đó.

24


Thứ tư, về việc miễn trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh. Tại Điều 342
BLDS 2015 có quy định:

1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện khơng
đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Trường hợp bên bảo lãnh khơng thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì
bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị
nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại.
Đây là một điểm mới đáng chú ý của BLDS 2015 so với quy định của BLDS
2005. Cụ thể rằng, trong BLDS 2005, tại Điều 369 có nói đến việc bên bảo lãnh phải
đưa tài sản của thuộc sở hữu của mình để thanh tốn cho bên nhận bảo lãnh khi đã đến
hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh mà bên bảo lãnh không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Với điểm này, pháp luật Việt Nam đã quy định cụ thể, khái quát hơn nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích của bên nhận bảo lãnh khi bên bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh được quy định, thông qua việc trao cho họ
quyền được yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ và buộc bên bảo lãnh
phải bồi thường thiệt hại (nếu có) do hành vi vi phạm nghĩa vụ đó gây ra.
Thứ năm, về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Điều 368 BLDS 2005 quy định
rằng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác thì
mặc dù bên nhận bảo lãnh đã miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh, nhưng
bên được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đó.

Điểm khác của BLDS 2015 so với BLDS 2005 được quy định tại Điều 341 nhà
làm luật, nghiên cứu luật đã có một góc nhìn rất mới khi quy định rằng, trừ trường hợp
có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác, nếu bên nhận bảo lãnh đã miễn việc
thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh cũng khơng cịn phải thực
hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh nữa.
Với quy định mới này, có thể thấy rằng, nhà làm luật đã hướng đến việc coi
nghĩa vụ của bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là một. Hay nói cách khác, nghĩa vụ
mà bên bảo lãnh đáng ra phải thực hiện và nghĩa vụ đương nhiên của bên được bảo
lãnh là một. Từ đó, nếu bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo
lãnh, cũng đồng thời với việc họ miễn luôn nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
Thứ sáu, về việc hủy bỏ bảo lãnh. Về việc hủy bỏ bảo lãnh khơng có điều khoản
quy định về việc này trong BLDS 2015. Tuy nhiên trước đó ở BLDS 2005, việc hủy
bỏ bảo lãnh được quy định cụ thể tại Điều 370: “Việc bảo lãnh có thể được hủy bỏ nếu
được bên nhận bảo lãnh đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Việc BLDS 2015 khơng quy định trường hợp, cũng như điều kiện hủy bỏ việc
bảo lãnh là để quy định ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ của bên bảo lãnh đối với

25


×