Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

BUỔI THẢO LUẬN THỨ tư môn dsu 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (914.52 KB, 32 trang )

BUỔI THẢO LUẬN THỨ TƯ

BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC
BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM ……………………………………………..3
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ TÍNH CHẤT PHỤ
CỦA BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ……….............................................................4
VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO BẢO ĐẢM …………………………………11
VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC ………………………………………………………14
VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH...….……...………………………………………...23
DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM KHẢO…………………………………....33

2


VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ TÍNH CHẤT PHỤ
CỦA BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
Nghiên cứu:





Điều 295 BLDS 2015 (Điều 320 đến 322 BLDS 2005) và các quy định
liên quan khác (nếu có);
Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP.


HCM;
Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân
dân Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang;
Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân
cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh.

Đọc:







Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017,
Chương 3;
Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt
Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam 2021 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 5 và tiếp theo;
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự
Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 387 đến 389.
Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Tóm tắ t Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tịa án nhân dân TP.
HCM
Ngun đơn: ơng Phạm Bá Minh
Bị đơn: bà Bùi Thị Khen và ông Bùi Khắc Thảo
Bà Bùi Thi ̣ Khen và ông Nguyễn Khắ c Thảo thế chấ p cho ông Pha ̣m Bá Minh
giấ y sử du ̣ng sa ̣p D2-9 ta ̣i chơ ̣ Tân Hương để vay 60 triê ̣u đồ ng, thời ha ̣n vay là 6 tháng,

lãi suấ t là 3%/ tháng. Khi hế t ha ̣n hơp̣ đồ ng bà Khen và ông Thảo vẫn chưa trả hế t nơ ̣
cho ông Minh. Nay ông Minh khởi kiê ̣n yêu cầ u bà Khen trả hế t số nơ ̣ còn la ̣i trong thời
ha ̣n là mô ̣t tháng kể từ ngày bản án có hiê ̣u lực pháp luâ ̣t. Còn về phía bà Khen, ông
Minh thì đồ ng ý trả phầ n còn la ̣i nhưng xin trả trong vòng 12 tháng. Tòa án xét thấ y
giấ y chứng nhân sa ̣p trên chỉ là giấ y đăng kí sử du ̣ng sa ̣p, không phải là quyề n sở hữu,
nên giấ y chứng nhâ ̣n sử du ̣ng sa ̣p không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen trả tiề n cho ông
Minh. Buô ̣c ông Minh trả la ̣i giấ y chứng nhâ ̣n sử du ̣ng sa ̣p cho bà Khen và ông Thảo,
bà Khen và ông Thảo có nghiã vu ̣ thanh toán tiề n còn la ̣i cho ông Minh ngay khi bản án
có hiê ̣u lực pháp luâ ̣t.
-

Tóm tắ t Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Ôn, bà Lê Thị Xanh.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Rành, bà Hồ Thị Hết

3


Ngày 30/8/1995 vơ ̣ chờ ng ơng Võ Văn Ơn cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa
thuâ ̣n về viê ̣c thu ̣c đấ t. Theo đó vơ ̣ chồ ng ông Ôn giao cho ông Rành quyề n sử du ̣ng đấ t
để ông Rành canh tác, đổ i la ̣i ông Rành sẽ giao la ̣i cho vơ ̣ chờ ng ơng Ơn 30 cây vàn g
24k để sử du ̣ng và có thỏa thuâ ̣n nế u quá 3 năm vơ ̣ chờ ng ơng Ơn khơng ch ̣c la ̣i đấ t
bằ ng số vàng trên thì ông Rành có quyề n canh tác ruô ̣ng đấ t trên viñ h viễn. Hai bên có
lâ ̣p “Giấ y thu ̣c đấ t làm ruô ̣ng”. Bản án sơ thẩ m xác đinh
̣ quan hê ̣ tranh chấ p trên là
“Tranh chấ p hơp̣ đồ ng cầ m cố quyề n sử du ̣ng đấ t” và tuyên bố giao dich
̣ thu ̣c đấ t trên
là vô hiê ̣u. Tòa giám đố c thẩ m hủy bản án sơ thẩ m và công nhâ ̣n giao dich
̣ thu ̣c đấ t trên.

Tóm tắ t Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân cấp
cao tại Tp. Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn: Ngân hàng liên doanh V
Bi ̣đơn: Công Ty PT
Lý do tranh chấ p: Ngân hàng V và Công ty PT đã ký kết các hợp đồng tín dụng
và để đảm bảo cho khoản vay 1.500.000.000 đồng của Cơng ty PT theo Hợp đồng tín
dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 thì giữa ơng Trần T, bà Trần Thị H và Ngân
hàng có ký kết hợp đồng thế chấp số 63/2014/HĐTC ngày 05/6/2014. Theo đó, ơng T
và bà H đồng ý thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất có diện tích là 120,75m2 và căn
nhà 02 tầng gắn liền với đất có diện tích sử dụng là 214,62m2 ; đất thuộc thửa số 392;
tờ bản đồ số 3, tại số 40, đường Đ, Phường 13, quận T, Thành phố H do ông Trần T và
bà Trần Thị H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn Ngân hàng Việt Nga thừa nhận Cơng ty PT đã tất tốn các khoản vay từ
Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 lần lượt vào các ngày
15/10/2014; ngày 25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì vậy, việc thế chấp tài sản của ơng
T, bà H đã chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005 và
khoản 1 Điều 327 Bộ luật dân sự năm 2015. Nhưng Ngân hàng la ̣i muố n dùng tài sản
thế chấ p trên vào các khoản vay khác.
Hướng giải quyế t của Tòa án: Chấp nhận Kháng nghị số 10/KNGĐT-VKSKDTM ngày 07/12/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh và hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 20/2020/KDTMPT ngày 26/8/2020 của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Dương và giữ ngun Bản án kinh
doanh thương mại sơ thẩm số 11/2019/KDTM-ST ngày 12/9/2019 của Tòa án nhân dân
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đối với vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín
dụng” giữa nguyên đơn Ngân hàng Liên doanh V với bị đơn Công ty PT.
-

Và cho biết:
1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có
thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

4



BLDS 2015 đã có những điểm mới so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có
thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ như sau:
- Thứ nhất, BLDS 2005 có 3 điều luật quy định về tài sản có thể dùng để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ, cụ thể:
+ Điều 320: vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
+ Điều 321: Tiền, giấy tờ có giá dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
+ Điều 322: Quyền tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
BLDS 2015 đã rút gọn lại thành một điều luật tại Điều 295:
1. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm
giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.
2. Tài sản bảo đảm có thể được mơ tả chung, nhưng phải xác định được.
3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương
lai.
4. Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ
được bảo đảm.
Ở BLDS 2005, việc quy định cụ thể tài sản là vật, tiền, hay quyền tài sản sẽ khơng thể
bao qt được hết những gì là tài sản, vì tài sản có nghĩa rộng hơn những gì BLDS 2005
đã liệt kê.
- Thứ hai, Điều 295 BLDS 2015 quy định về tài sản bảo đảm hình thành trong
tương lai. Ở đây, luật đã quy định rõ tài sản, tức là bao gồm những gì là tài sản hình
thành trong tương lai sẽ là tài sản bảo đảm, chứ khơng chỉ quy định về “vật” hình thành
trong tương lai như ở Điều 320 BLDS 2005.
- Thứ ba, BLDS 2015 cũng đã có những điểm mới về phạm vi bảo lãnh mà ở
BLDS 2005 chưa có, tại Điều 336 “Phạm vi bảo lãnh”
1. Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên
được bảo lãnh.
2. Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường
thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

3. Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
4. Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì
phạm vi bảo lãnh khơng bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh
chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.
Cụ thể, BLDS 2015 quy định rằng, bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một
phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ, biện pháp bảo đảm tài sản sẽ do các bên thoả thuận, và
phạm vi bảo lãnh của nghĩa vụ phát sinh trong tương lai sẽ không bao gồm nghĩa vụ
phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân chấm dứt tồn tại. Đây cũng là
một điểm mới rất quan trọng và thực tế của BLDS 2015.

5


- Thứ tư, BLDS 2015 đã quy định về giá trị tài sản đảm bảo có thể lớn hơn, bằng
hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được đảm bảo, tại Khoản 4 Điều 295, mà ở BLDS 2005
chưa quy định về điều này. Đây là biện pháp loại bỏ trường hợp người yêu cầu giá trị
tài sản đảm bảo cao hơn giá trị nghĩa vụ được đảm bảo.
1.2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
Đoạn “nhận thấy” của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay: “vào ngày 14/9/2007 bà Bùi Thị Khen và
ơng Nguyễn Khắc Thảo có thế chấp cho ông một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân
Hương để vay 60.000.000 đồng, thời hạn vay là 6 tháng, lãi suất thoả thuận là
3%tháng” và đoạn “bị đơn là bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo đã xác nhận
có thế chấp một giấy tờ sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vat 60.000.000 đồng cho ông
Phạm Bá Minh là chủ dịch vụ cầm đồ Bá Minh”.
1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản khơng? Vì sao?
Giấy chứng nhận sạp khơng phải là tài sản. Vì:
Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 quy định: Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và

quyền tài sản.
Theo Khoản 8 Điều 6 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010: “ Giấy tờ có giá
là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người
sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện
khác”.
Các giấy tờ có giá bao gồm:
a) Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được
quy định tại Điều 1 của Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005;
b) Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu cơng ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;
c) Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa
vụ trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 của Luật quản lý nợ công năm 2009;
d) Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần,
chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng
khốn hoặc chỉ số chứng khốn; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khốn
khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật chứng
khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010);
đ) Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 của Nghị định số
52/2016/NĐ-CP ngày 19/5/2006 của Chính phủ về “Phát hành trái phiếu doanh
nghiệp”…’’

6


Quyền tài sản theo Điều 115 BLDS 2015: Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất
và các quyền tài sản khác.
Giấy chứng nhận sạp khơng thuộc loại giấy tờ có giá hay quyền tài sản nào như
đã nêu trên, do đó giấy chứng nhận sạp không phải là tài sản.
1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tịa án

chấp nhận khơng? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Việc dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo nghĩa vụ dân sự không được Toà án
chấp nhận, trong đoạn: “Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy
chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng kí quyền sử dụng sạp, khơng
phải là quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi
hành án trả tiền cho ông Minh”.
1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối
với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
Trong bản án trên, giấy chứng nhận sạp được dùng để bảm đảm nghĩa vụ, nhưng
đó khơng phải là tài sản theo quy định của pháp luật, mà chỉ là giấy đăng kí sử dụng
sạp. Bà Khen cũng khơng lấy chính sạp D2-9 hay quyền sở hữu sạp để làm tài sản đảm
bảo. Vì vậy, hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Toà án đối với sự việc này là hồn
tồn hợp lý và có cơ sở.
1.6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất
để cầm cố?
Đoạn: “Ngày 30/8/1995” vợ chồng ông Võ Văn Ổn và Lê Thị Xanh cùng ông
Nguyễn Văn Rành thoả thuận việc thục đất. Hai bên có lập “Giấy thục đất làm ruộng”
với nội dung giống như việc cầm cố tài sản”, “Bản án sơ thẩm xác định quan hệ tranh
chấp là “tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất” là đúng”.
1.7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không?
Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?
Khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Người sử dụng đất được
thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng
cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất”.
Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản” và Điều 115 BLDS 2015 “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm

7



quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền
tài sản khác”.
Vì quyền sử dụng đất được luật thừa nhận là quyền tài sản, là bất động sản nên
quyền sử dụng đất là tài sản thuộc sở hữu của một chủ thể có quyền sử dụng đất đó.
Luật đất đai khơng quy định về cấm cầm cố quyền sử dụng đất, người sử dụng đất
“được” thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa
kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai
(Khoản 1 Điều 167) mà không có quy định hạn chế quyền của người sử dụng. BLDS
2015 cho phép cầm cố bất động sản.
Dựa vào những cơ sở pháp lý và lập luận trên, tôi cho rằng quy định hiện nay của
BLDS 2015 và Luật Đất đai 2013 thì có thể cầm cố quyền sử dụng đất, nhưng không
được vi phạm điều cấm của luật theo quy định của BLDS 2015.
1.8. Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyế t đinh
̣ trên, Tòa án có chấ p nhâ ̣n cho phép dùng quyề n sử du ̣ng đấ t để
cầ m cố .
Đoa ̣n của Quyế t đinh:
̣ “Hô ̣i đồ ng xét xử giám đố c thẩ m xét thấ y kháng nghi ̣ của
Viê ̣n trưởng Viê ̣n kiể m sát nhân dân tỉnh Tiề n Giang là có căn cứ chấ p nhâ ̣n.”
Kháng nghi ̣ của Viê ̣n trưởng Viê ̣n kiể m sát nhân dân tỉnh Tiề n Giang: “… Với
giao dich
̣ trên cho thấ y mă ̣c dù pháp luâ ̣t dân sự không qui đinh
̣ cu ̣ thể cho người sử
du ̣ng đấ t có quyề n cầ m cố QSDĐ nhưng xét về bản chấ t của giao dich
̣ này thấ y rằ ng
giữa các bên đương sự đã thực hiê ̣n mô ̣t giao dich
̣ cầ m cố tài sản cho nhau và giao dich
̣
này không trái pháp luâ ̣t, không trái đa ̣o đức xã hô ̣i và tuân thủ đúng quy đinh

̣ của pháp
luâ ̣t về hình thức, nô ̣i dung của hơp̣ đồ ng cầ m cố tài sản đươc̣ Bô ̣ luâ ̣t Dân sự quy đinh
̣
từ Điề u 326 đế n Điề u 341.”
Qua đó, tôi thấ y rằ ng mă ̣c dù không nói rõ trong bản án nhưng với viê ̣c chấ p nhâ ̣n
kháng nghi ̣ của Viê ̣n trưởng Viê ̣n kiể m sát tỉnh Tiề n Giang đồ ng nghiã với viê ̣c Hô ̣i
đồ ng xét xử giám đố c thẩ m đã đồ ng ý với viê ̣c cho phép dùng quyề n sư du ̣ng đấ t để
cầ m cố .
1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định
số 02.
Theo suy nghi ̃ của tôi hướng giai quyế t trên của Tòa án là hoàn toàn hơp̣ li,́ phù
hơp̣ với quy đinh
̣ của pháp luâ ̣t khi công nhâ ̣n giao dich
̣ thu ̣c đấ t trên. Vì theo như trình
bày ở trên thì quyề n sử du ̣ng đấ t là quyề n tài sản, theo Điề u 115: “Quyề n tài sản là
quyề n tri ̣giá đươc̣ bằ ng tiề n, bao gồ m quyề n tài sản đố i với đố i tươṇ g quyề n sở hữu trí
tuê ̣, quyề n sử du ̣ng đấ t và các quyề n tài sản khác”. Và trong quy đinh
̣ của Luâ ̣t Đấ t đai
cũng không cấ m viê ̣c cầ m giấ y chứng nhâ ̣n đấ t để cầ m cố . Thêm vào đó, giấ y chứng
nhâ ̣n quyề n sử du ̣ng đấ t trên thuô ̣c sở hữu của ông Ôn và bà Xanh, viê ̣c cầ m cố cũn g

8


đươc̣ lâ ̣p thành văn bản nên viê ̣c đem đi cầ m cố là hoàn toàn phù hơp̣ với quy đinh
̣ của
pháp luâ ̣t dân sự về cầ m cô tài sản ta ̣i Điề u 309: “Cầ m cố tài sản là viê ̣c một bên (sau
đây gọi là bên cầ m cố ) giao tài sản thuộc quyề n sở hữu của mình cho bên kia (sau đây
gọi là bên nhận cầ m cố ) để bảo đảm thực hiê ̣n nghiã vụ”.
1.10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ

nào? Vì sao?
Trong Qú t đinh
̣ sớ 27, thế chấ p đươc̣ sử du ̣ng để đảm bảo cho nghiã vu ̣ trả nơ.̣
Vì đối tượng kinh doanh là tiền và thu nhập chủ yếu của ngân hàng được tạo ra từ hoạt
động tín dụng. Trong khi đó bất kì một khoản cho vay nào cũng đều chứa đựng những
rủi ro nhất định. Một khi có rủi ro xảy ra thì ngân hàng phải chịu tổn thất. Để hạn chế
rủi ro thì ngay từ đầu tất cả các khoản cho vay phải có ít nhất hai nguồn trả nợ tách
biệt. Do đó bảo đảm tín dụng là một tiêu chuẩn bổ sung những hạn chế của nhà quản
trị ngân hàng cũng như phịng ngừa những diễn biến khơng thuận lợi.

1.11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế
chấp đã chấm dứt?
Đoạn “Quá trình giải quyế t vu ̣ án, nguyên đơn Ngân hàng Viê ̣t Nga thừa nhâ ̣n
Công ty PT đã tấ t toán các khoản vay từ Hơp̣ đồ ng tín du ̣ng số 60/2014/HĐTD ngày
14/4/2014 lầ n lươṭ vào các ngày 15/10/2014; ngày 25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì
vâ ̣y, viê ̣c thế chấ p tài sản của ông T, bà H đã chấ m dứt theo quy đinh
̣ ta ̣i Khoản 1 Điề u
357 Bô ̣ luâ ̣t Dân sự năm 2005 và Khoản 1 Điề u 327 Bơ ̣ l ̣t Dân sự năm 2015.”
1.12. Vì sao Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt?
Vì theo sự xác nhận của phía Ngân hàng thì Cơng ty PT đã thanh tốn tất cả các
khoản nợ theo các hợp đồng tín dụng cụ thể và phía Ngân hàng cũng đã tất tốn các hợp
đồng này vào ngày cuối cùng là 25/11/2014. Do vậy, căn cứ theo quy định tại khoản 1
Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005 và theo Khoản 1 Điề u 327 Bô ̣ luâ ̣t Dân sự 2015 về
việc thế chấp tài sản chấm dứt khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt thì
Hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 đã chấm dứt, hết
hiệu lực từ ngày 25/11/2014.
1.13. Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết phục
khơng? Vì sao?
Viê ̣c Tòa án xác đinh
̣ hơp̣ đồ ng thế chấ p nêu trên đã chấ m dứt hoàn toàn thuyế t phu ̣c.

Vì:
+ Hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC ngày 05/6/2014 được ký kết với
ông Trần T, bà Trần Thị H với Ngân hàng V để đảm bảo nghiã vu ̣ trả nơ ̣
1.500.000.000 đồ ng. Tại Khoản 2, Điều 1 của hợp đồng nêu trên, đã thỏa thuận
“Bên thế chấp đồng ý dùng tồn bộ tài sản thế chấp được mơ tả tại Điều 2 Hợp đồng

9


này để bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ phát sinh trong tương lai
theo toàn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên vay trong
giới hạn số tiền tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp” nhưng ngày 17/6/2014, Ngân
hàng và Công ty PT ký kết Phụ lục 01 sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng hạn mức
số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014, nâng hạn mức tín dụng từ 1,5 tỷ đồng lên 5 tỷ
đồng. Ngày 23/09/2014, Ngân hàng và Công ty PT ký kết Phụ lục 02 sửa đổi, bổ
sung hợp đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014, nâng hạn mức
tín dụng từ 1,5 tỷ đồng lên 10 tỷ đồng. Như vâ ̣y, Ngân hàng đã tự ý nâng ha ̣n mức
tín du ̣ng mà không đươc̣ sự đồ ng ý của ông Trần T, bà Trần Thị H.
+ Đồ ng thời theo quyế t đinh
̣ của Tòa án nhân dân tố i cao: “nguyên đơn Ngân hàng
Việt Nga thừa nhận Công ty PT đã tất tốn các khoản vay từ Hợp đồng tín dụng số
60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 lần lượt vào các ngày 15/10/2014; ngày
25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì vậy, việc thế chấp tài sản của ông T, bà H đã
chấm dứt theo quy định tại Khoản 1 Điều 357 Bộ luật ân sự năm 2005 và Khoản 1
Điều 327 Bộ luật Dân sự năm 2015.

VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
Nghiên cứu:




Điều 297 và Điều 298 BLDS 2015 (Điều 323, 325 BLDS2005) và các
quy định liên quan khác (nếu có);
Bản án số 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 của Toà án nhân dân
TP. Hà Nội.

Đọc:







Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017,
Chương 3;
Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt
Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam 2021 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 31 và tiếp theo;
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự
Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 390;
Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Tóm tắt bản án: số: 09/2019/KDTM-PT ngày 16/08/2019 về v/v: "Tranh chấp hợp
đồng tín dụng" của Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội.
- Nguyên đơn: Ngân hàng N
- Bị đơn: Công ty TNHH xây dựng và thương mại V
Hai bên đã ký hợp đồng tín dụng như sau: Hợp đồng tín dụng số 1421-LAV200900142/HĐTD ký ngày 29/9/2009 và số 1421-LAV-201000037/HMTD ký ngày
21/05/2010 và 21/5/2012, Ngân hàng N tiếp tục ký Hợp đồng hạn mức tín dụng số

1421-LAV-201000037, theo đó Ngân hàng N tiếp tục gia hạn cho cơng ty thêm 12
tháng với hạn mức tín dụng như cũ. Quá trình thực hiện hợp đồng này, Ngân hàng N
chưa giải ngân mà chỉ theo dõi phần dư nợ chuyển sang giữa Ngân hàng N với Công

10


ty V. Ngân hàng yêu cầu Công ty V phải thanh toán trả nợ gốc, lãi và lãi chậm trả phát
sinh từ hợp đồng tín dụng hạn mức. Tài sản đảm bảo cho các khoản vay trên là:
Quyền sử dụng đất và tài sản mang tên chủ sở hữu là ông Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị
V. Động sản là Hệ thống khoan cọc nhồi KH125-3.
Bản án sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N về việc yêu cầu
Công ty V phải thanh toán trả nợ gốc, lãi và lãi chậm trả phát sinh từ Hợp đồng tín
dụng hạn mức số 1421-LAV 200900142/HĐTD ký ngày 29/9/2009 và Hợp đồng tín
dụng số 1421-LAV-201000037/HMTD ký ngày 21/05/2010 và ngày 21/5/2012. Buộc
Công ty V phải thanh toán cho Ngân hàng N số tiền vay và lãi suất trong hạn, lãi suất
quá hạn các khoản nợ.
Tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản số công chứng: 1013.2009/HĐTC, ngày
07/9/2009 được ký kết giữa bên thế chấp là ông Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị V, bên
nhận thế chấp là Ngân hàng và bên vay là Công ty V chưa phát sinh hiệu lực pháp
luật.Ngân hàng N và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là ông
Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị V phải đi đăng ký lại giao dịch bảo đảm theo đúng quy
định.
Bản án phúc thẩm tuyên:
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Đỗ Văn Q và bà
Phạm Thị V do vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm hai lần.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N về việc u cầu Cơng
ty V phải thanh tốn trả nợ gốc, lãi và lãi chậm trả phát sinh từ hợp đồng tín dụng hạn
mức như bản án sơ thẩm.

Bác bỏ yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (ông Q, bà V)
về việc tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản là vô hiệu, chưa phát sinh hiệu lực pháp luật
cũng như yêu cầu Ngân hàng N phải trả lại bản gốc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
và quyền sử dụng đất.
Và cho biết:
2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Tại BLDS 2015 thì nội hàm về đăng ký giao dịch bảo đảm khơng có gì mới, vẫn
trên tinh thần kế thừa BLDS 2005, chỉ thay đổi về thuật ngữ “giao dịch” và “biện pháp”.
BLDS 2005 đề cập về vấn đề “đăng ký giao dịch bảo đảm”, cịn BLDS 2015 thì quy
định về “đăng ký biện pháp bảo đảm”. Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các
bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm. Tại BLDS
2015 đã dùng “biện pháp” để giới hạn lại phạm vi cần bảo đảm được quy định tại điều
292 BLDS 2015.

11


2.2. Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường
hợp phải đăng ký khơng? Vì sao?
Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 là trường hợp phải
đăng ký vì: Theo quy định của pháp luật, Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 163/2006/NĐCP thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm bắt buộc trong các trường hợp sau: thế chấp
quyền sử dụng đất; thế chấp quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng
trồng; thế chấp tàu bay, tàu biển; thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều
nghĩa vụ; các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Như vậy, hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 là hợp đồng
thế chấp tài sản cụ thể là nhà đất để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ nên thuộc trường hợp
phải đăng ký.
2.3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 chưa được đăng ký phù hợp với quy định.

Đoạn trong bản án cho câu trả lời: “Tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản số công
chứng: 1013.2009/HĐTC, ngày 07/9/2009 được ký kết giữa bên thế chấp là ông Đỗ
Văn Q và bà Phạm Thị V, bên nhận thế chấp là Ngân hàng và bên vay là Công ty V
chưa phát sinh hiệu lực pháp luật. Ngân hàng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
có u cầu độc lập là ơng Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị V phải đi đăng ký lại giao dịch
bảo đảm theo đúng quy định”.
2.4. Theo Tồ án, nếu khơng được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009
có vơ hiệu khơng? Vì sao?
Theo Tịa án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 sẽ vơ
hiệu.
Vì dựa trên những cơ sở pháp lý sau: Khoản 1 Điều 298 BLDS 2015 quy định:
“1. Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định của
luật.
Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường
hợp luật có quy định”.
 Do đó, việc đăng ký là điều kiện để hợp đồng này có hiệu lực.
- Điểm b Khoản 1 Điều 4 Nghị định 102/2017/NĐ-CP:
“b) Thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đó đã được
chứng nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”.
Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 thuộc trường hợp mà pháp luật quy định phải đăng ký.

12


Khoản 1 Điều 5 Nghị định 102/2017/NĐ-CP quy định:
“1. Trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản
gắn liền với đất, tàu bay, tàu biển, thì thời điểm có hiệu lực của đăng ký
biện pháp bảo đảm là thời điểm cơ quan đăng ký ghi nội dung đăng ký vào
sổ đăng ký. Trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tài sản là động

sản khác, thì thời điểm có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm là thời
điểm nội dung đăng ký được cập nhật vào cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo
đảm.”
Qua đó, về nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thế chấp quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp nên nếu khơng được đăng ký
thì hợp đồng thế chấp sẽ vô hiệu.
Từ những cơ sở nêu trên, việc hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 nếu không được
đăng ký sẽ trở nên vô hiệu và mất giá trị pháp lý.
-

2.5. Hướng của Toà án như trong câu hỏi trên có thuyết phục khơng? Vì sao?
Hướng của Tịa án như trong câu hỏi trên là thuyết phục, vì:
Tịa đã áp dụng những QPPL mà pháp luật quy định nhằm đảm bảo tính cơng
bằng, về bản chất đăng ký giao dịch bảo đảm là hoạt động ghi vào sổ đăng ký các giao
dịch, hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo một trình tự, thủ tục luật định
nhằm đảm bảo hiệu lực của các giao dịch bảo đảm hoặc có hiệu lực đối với người thứ
ba. Do đó nếu khơng được đăng ký thì hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 sẽ không được
ghi nhận khiến hợp đồng này trở nên vô hiệu và như vậy sẽ ảnh hưởng lớn đến quyền
lợi của bên có quyền.

VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC
Nghiên cứu:




Điều 328 BLDS 2015 (Điều 358 BLDS2005) và các quy định liên
quan khác (nếu có);
Án lệ số 25/2018/AL; Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày
18/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;

Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Toà án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh.

Đọc:




Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017,
Chương 3;
Hồng Thế Cường, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam 2017, Vấn đề 19;

13







Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt
Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam 2021 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 149 và tiếp theo;
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự
Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 393 và 394;
Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).


Và cho biết:
3.1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp

Cơ sở
pháp lý

Cầm cố tài sản

Đặt cọc

Thế chấp

Điều 309 BLDS 2015

Điều 328 BLDS 2015

Điều 317 BLDS 2015

Khái
niệm

Cầm cố tài sản là việc một
bên (sau đây gọi là bên
cầm cố) giao tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình
cho bên kia (sau đây gọi là
bên nhận cầm cố) để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ
(điều 309)


Phương
thức
thực
hiện

Bên cầm cố giao tài sản
thuộc quyền sở hữu của
mình cho bên nhận cầm cố

Các
trường
hợp
chấm
dứt

1. Nghĩa vụ được bảo đảm
bằng cầm cố chấm dứt.
2. Việc cầm cố tài sản
được hủy bỏ hoặc được

Thế chấp tài sản là
việc một bên (sau đây
Đặt cọc là việc một bên
gọi là bên thế chấp)
(sau đây gọi là bên đặt cọc) dùng tài sản thuộc sở
giao cho bên kia (sau đây
hữu của mình để bảo
gọi là bên nhận đặt cọc)
đảm thực hiện nghĩa
một khoản tiền hoặc kim

vụ và khơng giao tài
khí q, đá q hoặc vật có sản cho bên kia (sau
giá trị khác (sau đây gọi
đây gọi là bên nhận
chung là tài sản đặt cọc)
thế chấp).
trong một thời hạn để bảo
Tài sản thế chấp do
đảm giao kết hoặc thực
bên thế chấp giữ. Các
hiện hợp đồng (điều 328)
bên có thể thỏa thuận
giao cho người thứ ba
giữ tài sản thế chấp.
Tài sản thế chấp do
Một bên giao cho bên kia
bên thế chấp giữ. Các
một khoản tiền hoặc kim
bên có thể thỏa thuận
khí q, đá q hoặc vật có
giao cho người thứ ba
giá trị khác
giữ tài sản thế chấp.
1. Nghĩa vụ được bảo
đảm bằng thế chấp
Khơng có quy định về
chấm dứt.
trường hợp chấm dứt đặt
2. Việc thế chấp tài
cọc

sản được hủy bỏ hoặc
được thay thế bằng

14


Việc trả
lại tài
sản bảo
đảm
Mục
đích

thay thế bằng biện pháp
bảo đảm khác.
3. Tài sản cầm cố đã được
xử lý.
4. Theo thỏa thuận của các
bên.

biện pháp bảo đảm
khác.
3. Tài sản thế chấp đã
được xử lý.
4. Theo thỏa thuận
của các bên.

Tài sản cầm cố được trả lại
cho bên cầm cố. Hoa lợi,
lợi tức thu được từ tài sản

cầm cố cũng được trả lại
cho bên cầm cố

Tài sản đặt cọc được trả lại
cho bên đặt cọc hoặc được
trừ để thực hiện nghĩa vụ
trả tiền

Nhận lại tài sản thế
chấp do người thứ ba
giữ và giấy tờ liên
quan đến tài sản thế
chấp do bên nhận thế
chấp giữ

Bảo đảm việc giao kết
hoặc thực hiện hợp đồng

Bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự

Bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự

Được bán, thay thế, trao
Xử lý tài đổi, tặng cho tài sản cầm
sản bảo cố nếu được bên nhận cầm
cố đồng ý hoặc theo quy
đảm
định của pháp luật


Được bán, thay thế, trao
đổi, tặng cho tài sản cầm
cố nếu được bên nhận cầm
cố đồng ý hoặc theo quy
định của pháp luật
Trường hợp hợp đồng
được giao kết, thực hiện thì
tài sản đặt cọc được trả lại
cho bên đặt cọc hoặc được
trừ để thực hiện nghĩa vụ
Khơng có quy định
trả tiền; nếu bên đặt cọc từ
về xử lý tài sản bảo
chối việc giao kết, thực
đảm
hiện hợp đồng thì tài sản
đặt cọc thuộc về bên nhận
đặt cọc; nếu bên nhận đặt
cọc từ chối việc giao kết,
thực hiện hợp đồng thì
phải trả cho bên đặt cọc tài
sản đặt cọc và một khoản
tiền tương đương giá trị tài
sản đặt cọc, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.

3.2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc

15



Đặt cọc

BLDS 2005

BLDS 2015

Cơ sở pháp


Được quy định tại Điều 358

Được quy định tại Điều 328

Đặt cọc là việc một bên giao cho bên
kia một khoản tiền hoặc kim khí q, đá
q hoặc vật có giá trị khác (sau đây
gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời
hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện
hợp đồng dân sự. Việc đặt cọc phải
được lập thành văn bản

Đặt cọc là việc một bên (sau đây
gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia
(sau đây gọi là bên nhận đặt cọc)
một khoản tiền hoặc kim khí q,
đá q hoặc vật có giá trị khác (sau
đây gọi chung là tài sản đặt cọc)
trong một thời hạn để bảo đảm giao

kết hoặc thực hiện hợp đồng

Thỏa thuận phải được lập thành văn
bản, đối với thỏa thuận bằng miệng thì
sẽ khơng có giá trị pháp lý.

Có thể xác lập bằng bất cứ hình
thức nào.

Khái niệm

Hình thức
thỏa thuận
đặt cọc

Mục đích
của đặt cọc

- Thỏa thuận đặt cọc phải được lập
thành văn bản. Thỏa thuận đặt cọc có
thể được thể hiện bằng văn bản riêng
nhưng cũng có thể được thể hiện bằng
một điều khoản trong hợp đồng chính
thức.
- Đối với đặt cọc nhằm giao kết hợp
đồng thì việc đặt cọc phải được thể hiện
bằng văn bản riêng vì tại thời điểm giao
kết thỏa thuận đặt cọc thì hợp đồng
chưa được hình thành.
- Bên cạnh đó, pháp luật cũng không

quy định thỏa thuận đặt cọc bắt buộc
phải công chứng chứng thực, mà tùy
vào thỏa thuận giữa các bên.

- Các bên trong đặt cọc có thể thỏa
thuận về mục đích của đặt cọc theo
một trong ba trường hợp sau:
“Chỉ bảo đảm cho việc giao kết
hợp đồng, thực hiện hiện hợp đồng
hoặc vừa bảo đảm cho việc giao kết
hoặc vừa bảo đảm cho việc thực
hiện hợp đồng”.
- Việc đặt cọc là một trong các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ,
chỉ cần bảo đảm đúng mục đích,
ngồi ra khơng địi hỏi đáp ứng về
điều kiện hình thức xác lập.
- Tuy nhiên các bên vẫn nên có
những hình thức xác lập thỏa thuận
dễ nhận biết và xử lý cũng như dễ
dàng cho các bên chứng minh.

3.3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 328 BLDS 2015

16


Bên đặt cọc mất cọc trong trường hợp “bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực
hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc”.

Bên nhận cọc bị phạt cọc trong trường hợp “bên nhận từ chối việc giao kết, thực
hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương
đương giá trị tài sản đặt cọc”.
3.4. Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách
quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc
khơng? Vì sao?
Nếu hợp đồng đặt cọc khơng được giao kết hay bị vơ hiệu vì lý do khách quan
thì khơng làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên, bên
nhận cọc có nghĩa vụ hồn trả những gì đã nhận từ người đặt cọc và người nhận cọc
không phải trả tiền phạt cọc. Trong thực tiễn xét xử, Án lệ số 25/2018/Al đã chứng minh
cho điều trên, và Án lệ đã bổ sung 1 phần lỗ hổng trong Điều 328 BLDS 2015 khi pháp
luật không quy định về việc phạt tiền cọc trong trường hợp vì lý do bất khả kháng.

Đối với Quyết định số 49:
Tóm tắt Án lệ số 25/2018/AL; Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018
của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh
Tịa án nhân dân cấp cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh
thương mại: “tranh chấp đòi lại tiền đặt cọc từ việc hủy hợp đồng mua bán cổ phần”.
Nguyên đơn là Cơng ty cổ phần TV-TM-DV địa ốc Hồng Quân. Người đại diện hợp
pháp của nguyên đơn: Ông Phan Hùng. Bị đơn là công ty TNHH Thương Mại và xây
dựng Sơn Long Thuận, người đại diện là ông Đinh Ấn (Giám đốc cơng ty). Người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển
Việt Nam, người đại diện là ông Nguyễn Tấn Diện ( phó giám đốc ngân hàng), cịn có
Tổng cơng ty và đầu tư kinh doanh vốn nhà nước. Ngày 20/02/2008, Công ty Cổ phần
du lịch Ninh Thuận ký kết biên bản thỏa thuận bán 3.912 cổ phiếu, mệnh giá 100.000
đồng/cổ phiếu, tổng là 3.919.200.000 đồng, thuộc sở hữu của Tổng Công ty Đầu tư và
Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) tại Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận cho Cơng
ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hồng Quân. Ngày 22/02/2008 Công ty Cổ phần TVTM-DV Địa ốc Hoàng Quân chuyển một tỷ đồng tiền đặt cọc mua cổ phiếu vào tài
khoản của Công ty du lịch Ninh Thuận tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và
Phát triển Việt Nam và Ngân hàng này đã trích tài khoản này để thu nợ ấy của Công ty

Ninh Thuận. Thỏa thuận không đạt được, Công ty Ninh Thuận cam kết hoàn trả một tỷ
đồng và lãi suất. Sau đó Cơng ty Ninh Thuận đổi thành Cơng ty TNHH du lịch Ninh
Thuận và hiện nay đã sáp nhập vào Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long

17


Thuận. Vì vậy, ngun đơn (gọi tắt là Cơng ty Hồng Qn) khởi kiện buộc Cơng ty
TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận hoặc Ngân hàng Thương mại cổ
phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh NinhT huận hồn trả 1 tỷ đồng và
khơng yêu cầu lãi suất.

3.5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho
bên nhận cọc như thế nào?
Ngày 22/02/2008, Công ty cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân chuyển
1.000.000.000 đồng (1 tỷ đồng) tiền đặt cọc (mua 39.192 cổ phiếu, mệnh giá 100.000
đồng/ cổ phiếu, tổng giá trị, tổng giá trị là 3.919.200 đồng, thuộc sở hữu của Công ty
SCIC tại công ty cổ phần du lịch Ninh Thuận tại ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu
tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Ninh Thuận đã trích tài khoản này để thu nợ
vay của Công ty cổ phần du lịch Ninh Thuận.
3.6. Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc
cịn thuộc sở hữu của bên đặt cọc khơng? Vì sao?
Tài sản đặt cọc vẫn còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc. Căn cứ theo khoản 1 điều
328, BLDS 2015: “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên
kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật
có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm
giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”. Vậy nên số tiền 1.000.000.000 đồng đặt cọc của
Cơng ty Hồng Qn vẫn chưa thuộc quyền sở hữu của Công ty Ninh Thuận vì hợp
đồng chưa được xác lập. Tịa giám đốc thẩm đã áp dụng điều 332, bộ luật dân sự 2015:
“Trường hợp bên mua khơng hồn thành nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán theo thỏa

thuận thì bên bán có quyền địi lại tài sản. Bên bán hồn trả cho bên mua số tiền bên
mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua
làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại”, do đó Tịa
án đã chấp nhận u cầu khởi kiện của Cơng ty Hồng Qn, buộc Ngân hàng Thương
mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam có trách nhiệm hồn trả cho Cơng ty Hồng
Qn 1.000.000.000 đồng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên
quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến quyền sở hữu tài sản đặt
cọc là hợp lý. Tòa án quyết định giữ nguyên bản án số 01/ 2018/ KDTM-PT ngày
07/03/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận: không chấp nhận kháng cáo của ngân
hàng và buộc ngân hàng phải hoàn trả số tiền 1.000.000.000 đồng cho Cơng ty Hồng
Qn. Căn cứ theo Khoản 1 Điều 328, BLDS 2015:“Đặt cọc là việc một bên (sau đây
gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền

18


hoặc kim khí q, đá q hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc)
trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”. Số tiền mà Cơng ty
Hồng Qn đặt cọc cho Công ty Ninh Thuận để mua cổ phiếu mà Ngân hàng Thương
mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam khấu trừ nợ đối với Công ty Ninh Thuận là
trái với quy định của pháp luật, vì số tiền này chưa thuộc quyền sở hữu của Cơng ty
Ninh Thuận, do đó Tịa đã áp dụng Điều 332, Bộ luật Dân sự 2015:“Trường hợp bên
mua khơng hồn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận thì bên bán có
quyền địi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh tốn sau
khi trừ giá trị hao mịn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài
sản thì bên bán có quyền u cầu bồi thường thiệt hại” yêu cầu Ngân hàng phải có trách
nhiệm hồn trả số tiền 1.000.000.000 cho cho Cơng ty Hồng Qn.
Đồng thời, Tịa khơng chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm số 160/QĐKNGĐTVKS- KDTM ngày 24/09/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại

thành phố Hồ Chí Minh.
Bản án số 26
Tóm tắt bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của TAND tỉnh Quảng Ninh
Vụ việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc
-

Ngun đơn: ơng Vũ Đình P
Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Thị Kim A
Bị đơn: ông Trần Xuân I
Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Thuý L

Cụ thể: ông P nhờ ông I mua một chiếc xe ô tô sản xuất năm 2016 từ Mỹ về và đã ký
văn bản thoả thuận đặt cọc số tiền 450.000.000đ mua xe ô tô với thời gian giao xe là
trước Tết dương lịch năm 2017 (khơng có giá xe). Nhưng sau đó, ơng I khơng giao đúng
hạn, đến tháng 11/2017 hai bên lại ký bản cam kết thời hạn bàn giao xe và sẽ làm thủ
tục mua bán và bán giao xe vào 08/01/2018. Nhưng ông I đã khơng thực hiện được vì
lý do chính sách pháp luật ở Mỹ thay đổi nên không nhập khẩu xe ơ tơ về được. Do đó,
ơng I hồn trả lại ông P 450.000.000đ. Sau ông P làm đơn khởi kiện yêu cầu ông I trả
tiền cọc là phạt cọc.
Cách giải quyết của Toà án: Tuyên thoả thuận đặt cọc giữa ông P và ông I vô hiệu.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ơng Vũ Đình P về việc yêu cầu ông I phải trr
số tiền phạt cọc là 450.000.000đ.
3.8. Đoạn nào cho thấy Tòa án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?
Đoạn cho thấy Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL:
“Mặt khác, thực tế ông I cũng đã từng nhờ em gái mua được ô tô nhập khẩu từ
Mỹ về Việt Nam để sử dụng (có thể dưới dạng quà tặng, quà biếu), nên ông mới đồng

19



ý mua hộ ơng P; nhưng hồn tồn phụ thuộc vào chính sách quản lý của Nhà nước ở
từng thời điểm và hoàn toàn phụ thuộc vào người thân bên Mỹ và Đại lý nhập khẩu; Vì
ơng I khơng có xe ơ tơ để bán và cũng khơng có đủ điều kiện nhập khẩu xe để bán cho
ông P; ông P biết rõ điều này và khơng có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh rằng ơng I
có khả năng bán xe ơ tơ cho ơng P, nhưng cố tình từ chối thực hiện. Do đó, việc ơng I
khơng thực hiện được thỏa thuận là do yếu tố khách quan.
Căn cứ theo Án lệ số 25/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân
tối cao thơng qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số
269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao:
“Trường hợp bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do yếu tố khách
quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt cọc”.”
3.9. Việc Toà án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hồn cảnh trong vụ việc
này có thuyết phục khơng? Vì sao?
Theo nhóm, việc Tồ án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này
là chưa thuyết phục. Vì những nguyên do sau:
Thứ nhất: Căn cứ nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán
TANDTC, tiêu chí để áp dụng Án lệ đó là phải đưa ra được những tình tiết then chốt
của vụ việc tác động quyết định hoặc phán quyết của Tồ án. Vì những tình tiết này là
yếu tố quan trọng mà Tồ án sau sẽ dựa vào đó để quyết định áp dụng Án lệ cho những
vụ việc tương tự sau này. Mà ở đây, theo người viết, Án lệ 25/2018/AL cho thấy sự
thiếu sót trong việc đưa ra những giải thích và phân tích hợp lý các quy định được áp
dụng trong quyết định của TANDTC. Cụ thể là Án lệ số 25 đưa ra thuật ngữ "nguyên
nhân khách quan" nhưng lại không đưa ra được lời giải thích rõ ràng nào về thuật ngữ
này và thuật ngữ này cũng khơng được định nghĩa trong luật. Tồ nhận định: "Nếu có
căn cứ xác định cơ quan thi hành án dân sự chậm trễ trong việc chuyển tên quyền sở
hữu cho bà H thì lỗi dẫn tới việc bà H không thể thực hiện đúng cam kết với ông L thuộc
về khách quan và bà H không phải chịu phạt tiền cọc ", qua đó ta cũng khơng thể xác
định nguyên nhân khách quan trên có thuộc vào Khoản 2 Điều 584 BLDS 2015 cụ thể
là thuộc vào trường hợp sự kiện bất khả kháng hay không:
"2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong

trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do
lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác."
Người viết cho rằng, Án lệ cần phải có những phân tích nhằm chứng minh việc
q hạn của Cơ quan Thi hành án Dân sự là sự kiện bất khả kháng theo các điều kiện:
1. Việc chậm trễ của Cơ quan Thi hành án Dân sự xảy ra ngồi ý chí của ơng
L và bà H.

20


2. Việc chậm trễ ông L và bà H không thể lường trước được.
3. Bà H không thể khắc phục dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết.
Thứ hai: Ở Án lệ số 25 hai bên đã ký Hợp đồng đặt cọc để bảo đảm giao kết hợp
đồng mua bán nhà và đây là hợp đồng hợp pháp; còn ở bản án này ta sẽ thấy rằng: theo
quy định của pháp luật việc kinh doanh mua bán xe ô tơ nhập khẩu là loại hàng hóa kinh
doanh có điều kiện, thương nhân phải đăng ký và được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy
phép kinh doanh (Quy định tại Điểm a,b Khoản 1 Điều 9, Nghị định số 187/2013/NĐ –
CP, ngày 20/11/2013; Điểm 4,5 Điều 6, Thông tư số 04/2014/ TT – BCT, ngày
27/01/2014; Điều 3,4 Thông tư số 143/2015/ TT – BTC, ngày 11/9/2015; Điều 14, 15,
16 Nghị định 116/2017/CP ngày 17/10/2017 quy định về điều kiện, thủ tục cấp phép
nhập khẩu ơ tơ). Ơng P và ơng I ký hợp đồng đặt cọc với tư cách là cá nhân với nhau,
bản thân ông I không được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh nhập khẩu
xe ô tô và ngay cả doanh nghiệp do ông I làm chủ là Công ty Cổ phần P L cũng không
đăng ký kinh doanh nhập khẩu xe ôtô. Việc ký hợp đồng đặt cọc giữa ông P và ông I đã
vi phạm các quy định của pháp luật về mua bán nhập khẩu xe ô tô, vi phạm Điều 117,
Điều 122, Điều 123 BLDS năm 2015, nên hợp đồng này vô hiệu và không làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên. Do đó, giao dịch này vơ
hiệu và u cầu phạt đặt cọc của ơng P là khơng có căn cứ. Vì vậy việc đặt vụ việc của
Án lệ số 25 vào để áp dụng ở bản án này là không cần thiết.

3.10. Việc Tồ án “khơng chấp nhận u cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu
cầu ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ
số 25/2018/AL khơng? Vì sao?
Theo nhóm, việc Tồ án "không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P về việc
yêu cầu ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ" là phù hợp với Án lệ số
25/2018/AL
Giải pháp pháp lý Án lệ đề ra là phải xác định việc bên nhận đặt cọc không thể
thực hiện đúng cam kết là do khách quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt cọc.
Như vậy, đối với vụ án tranh chấp hợp đồng đặt cọc một khi đã hội tụ đủ các nội
dung mà tình huống Án lệ số 25/2018/AL nêu ra, thì phải được giải quyết theo đúng
giải pháp pháp lý của án lệ đã đưa ra. Tức là, trong quá trình xét xử Thẩm phán, Hội
thẩm phải “bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải
quyết như nhau” (Khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP).
Và trong bản án số 26/2019/DS-PT ngoại trừ việc hợp đồng vô hiệu, ta có thể
thấy cả hai bản án đều là khơng thực hiện thoả thuận đúng hạn do nguyên nhân khách
quan và khơng phỉa lỗi của người nhận cọc. Vì vụ việc tương tự, có tình tiết và sự kiện
pháp lý tương đồng thì phải được giải quyết giống nhau.

21


VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH
Nghiên cứu:



Điều 335 BLDS 2015 (Điều 361 BLDS 2005) và các quy định liên
quan khác (nếu có);
Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Quyết định số 968/2011/DS-GĐT

ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

Đọc:









Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017,
Chương 3;
Nguyễn Trương Tín, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam 2017, Vấn đề 18;
Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt
Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam 2021 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 186 và tiếp theo;
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự
Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 395 đến 396;
Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
4.1. Những đặc trưng của bảo lãnh
Theo Khoản 1 Điều 355 BLDS 2015 quy định bảo lãnh như sau:
1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho

bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn
thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có
khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
 Phạm vi của bảo lãnh được quy định tại Điều 336 BLDS 2015 như sau:
– Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được
bảo lãnh.
– Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt
hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

22


– Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
– Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm
vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp
nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.
 Bảo lãnh sẽ chấm dứt trong trường hợp sau đây:





Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt
Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác
Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Theo thỏa thuận của các bên

 Chế định bảo lãnh làm phát sinh hai mối quan hệ:

+
+

Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh (Điều 337 BLDS 2015).
Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh (Điều 339 BLDS 2015).

Nghĩa vụ giữa những người cùng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh là nghĩa vụ liên
đới, trừ khi có thỏa thuận khác (Điều 338 BLDS 2015).
4.2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh
Thứ nhất, về hình thức bảo lãnh. BLDS 2015 khơng quy định về hình thức bảo
lãnh. Trong khi đó, tại Điều 362 BLDS 2005 qui định bắt buộc việc bảo lãnh phải được
lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong
trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải được cơng chứng hoặc
chứng thực.
Đây là điểm mới tích cực của BLDS 2015 so với BLDS 2005. Bởi lẽ, việc không
quy định về hình thức bảo lãnh sẽ giúp các bên linh hoạt hơn, chủ động hơn trong việc
thiết lập quan hệ bảo lãnh.
Thứ hai, một số điểm mới về phạm vi bảo lãnh. BLDS 2005 quy định bên bảo
lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
Tuy nhiên, BLDS 2015 có mở rộng thêm nghĩa vụ bảo lãnh gồm cả “lãi trên số tiền
chậm trả” so với quy định chỉ có “tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt
hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác” ở BLDS 2005.
Khoản 4 Điều 336 BLDS 2015 quy định trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là
nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh khơng bao gồm nghĩa vụ phát
sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.
Thứ ba, về quyền yêu cầu của bên bảo lãnh. Quyền yêu cầu của bên bảo lãnh
quy định là bên bảo lãnh chỉ được yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối


23


với mình trong phạm vi bảo lãnh, khi bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ quy định tại
Điều 367 BLDS 2005. So với Điều 340 BLDS 2015 quy định rằng, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác, bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ
đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện.
Với quy định này, bên bảo lãnh có thể yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa
vụ đối với mình ngay cả khi bên bảo lãnh chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với bên nhận
bảo lãnh trong phạm vi nghĩa vụ mà bên bảo lãnh đã thực hiện. Hay nói cách khác, bên
bảo lãnh, họ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đến đâu (trong phạm vi bảo
lãnh) thì họ có quyền u cầu bên được bảo lãnh phải hoàn trả lại cho họ đến đó.
Thứ tư, về việc miễn trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh. Tại Điều 342 BLDS
2015 có quy định:
1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện khơng
đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên
nhận bảo lãnh có quyền u cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ
vi phạm và bồi thường thiệt hại.
Đây là một điểm mới đáng chú ý của BLDS 2015 so với quy định của BLDS 2005.
Cụ thể rằng, trong BLDS 2005, tại Điều 369 có nói đến việc bên bảo lãnh phải đưa tài
sản của thuộc sở hữu của mình để thanh tốn cho bên nhận bảo lãnh khi đã đến hạn thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ.
Với điểm này, pháp luật Việt Nam đã quy định cụ thể, khái quát hơn nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích của bên nhận bảo lãnh khi bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh được quy định, thông qua việc trao cho họ quyền
được yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ và buộc bên bảo lãnh phải bồi
thường thiệt hại (nếu có) do hành vi vi phạm nghĩa vụ đó gây ra.
Thứ năm, về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Điều 368 BLDS 2005 quy định

rằng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác thì
mặc dù bên nhận bảo lãnh đã miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh, nhưng
bên được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Điểm khác của BLDS 2015 so với BLDS 2005 được quy định tại Điều 341 nhà
làm luật, nghiên cứu luật đã có một góc nhìn rất mới khi quy định rằng, trừ trường hợp
có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác, nếu bên nhận bảo lãnh đã miễn việc
thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh cũng khơng cịn phải thực
hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh nữa.
Với quy định mới này, có thể thấy rằng, nhà làm luật đã hướng đến việc coi nghĩa
vụ của bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là một. Hay nói cách khác, nghĩa vụ mà bên

24


bảo lãnh đáng ra phải thực hiện và nghĩa vụ đương nhiên của bên được bảo lãnh là một.
Từ đó, nếu bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh, cũng
đồng thời với việc họ miễn luôn nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
Thứ sáu, về việc hủy bỏ bảo lãnh. Về việc hủy bỏ bảo lãnh khơng có điều khoản
quy định về việc này trong BLDS 2015. Tuy nhiên trước đó ở BLDS 2005, việc hủy bỏ
bảo lãnh được quy định cụ thể tại Điều 370: “Việc bảo lãnh có thể được hủy bỏ nếu
được bên nhận bảo lãnh đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Việc BLDS 2015 khơng quy định trường hợp, cũng như điều kiện hủy bỏ việc bảo
lãnh là để quy định ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ của bên bảo lãnh đối với nghĩa vụ
bảo lãnh, tuy nhiên việc bảo lãnh có thể được hủy bỏ nếu bên nhận bảo lãnh đồng ý,
điều này thể hiện sự tôn trọng thỏa thuận của các bên.
Đối với Quyết định số 02:
Tóm tắt Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao:
Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương – Chi nhánh Đồng Nai ký hợp đồng cho
Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc vay tiền. Tài sản được dùng để đảm bảo cho khoản vay

là quyền sử dụng mãnh đất của ông Miễn và bà Cà. Hợp đồng này thông qua bà Trang
để thực hiện và ơng Miễn bà Cà đều nói rằng mình khơng quen biết với bà Tỉnh cũng
như Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân. Quỹ tín dụng khơng địi được nợ từ bà Tỉnh
cũng như Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân nên buộc người bảo lãnh phải có trách
nhiệm với khoản nợ đó. Cả ơng Miễn và bà Cà đều khơng đồng ý với quyết định này.
Tịa án tuyên bố chỉ khi chủ Doanh nghiệp tư nhân không trả được nợ hoặc khơng đủ
thì ơng Miễn và bà Cà mới phải trả thay, nếu cả hai đêu không trả thì mới xử lý tài sản
thế chấp để thu hồi khoản nợ.
4.3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ơng Miễn, bà Cà với Quỹ
tín dụng là quan hệ bảo lãnh?
Trong trường hợp xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ
3 số 01534 ngày 22/9/2006 giữa Quỹ tín dụng (bên nhận thế chấp) với ông Miễn và bà
Cà (bên thế chấp) và bà Tỉnh – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân (bên vay vốn)
phải tuân theo đúng quy định tại Khoản 1 Điều 5 và Khoản 1 Điều 7 của Hợp đồng thế
chấp, Điều 361 của Bộ luật Dân sự là khi chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân khơng
trả nợ hoặc trả khơng đủ thì ơng Miễn và bà Cà phải trả thay, nếu ông Miễn, bà Cà
khơng trả nợ hoặc trả khơng đủ thì mới xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

4.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán.

25


×