Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

BOI DUONG THUONG XUYEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 61 trang )

TRƯỜNG THCS …
TỔ TỐN - TIN

SỔ GHI CHÉP
CƠNG TÁC BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
NĂM HỌC 2017 – 2018
Họ và tên: …
Tổ chuyên môn: …
Chức vụ: …

PHẦN I
KẾ HOẠCH BDTX CÁ NHÂN NĂM HỌC 2017-2018
Căn cứ Thông tư số 31/2011/TT-BGDĐT ngày 08/8/2011 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo về việc ban hành chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên THCS;
Căn cứ vào Kế hoạch số 3002/KH-GDĐT-TC ngày 18 tháng 8 năm 2017 của Sở
Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh về kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho
cán bộ quản lý, giáo viên mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên năm học 2017 –
2018;
Căn cứ vào Kế hoạch số 618/KH-GDĐT ngày 15 tháng 9 năm 2017 của Phòng Giáo
dục và Đào tạo … về việc bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lý, giáo viên mầm
non, phổ thông năm học 2017 – 2018;
Căn cứ vào Kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên Trường THCS … ban hành đối với giáo
viên năm học 2017 - 2018, tơi xây dựng kế hoạch triển khai chương trình bồi dưỡng
thường xuyên (BDTX) giáo viên THCS năm học 2017 – 2018 như sau:
I. Mục đích của bồi dưỡng thường xuyên
Giáo viên học tập bồi dưỡng thường xuyên để cập nhật kiến thức về chính trị, kinh
tế - xã hội, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, phát triển năng lực dạy
học, năng lực giáo dục và những năng lực khác theo yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo
viên, yêu cầu nhiệm vụ năm học, cấp học, yêu cầu phát triển giáo dục của thành phố, yêu
cầu đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục trong toàn Ngành.
Phát triển năng lực tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên; năng lực tự đánh giá hiệu


quả bồi dưỡng thường xuyên; năng lực tổ chức, quản lý hoạt động tự học, tự bồi dưỡng
giáo viên của nhà trường và của Phịng Giáo dục và Đào tạo.
Cơng tác bồi dưỡng thường xuyên phải gắn kết chặt chẽ với việc triển khai đánh giá
giáo viên và cán bộ quản lý theo Chuẩn và theo chỉ đạo đổi mới giáo dục của Ngành để
từng bước cải thiện và nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo qua từng năm.
Đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu về nội dung bồi dưỡng phù hợp với điều kiện
thực tế địa phương và nhiệm vụ năm học. Việc bồi dưỡng phải tập trung vào nâng cao
năng lực nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục để
đáp ứng yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp và tiêu chuẩn chức danh nhằm thực hiện tốt các
nhiệm vụ của hạng chức danh nghề nghiệp.
Tăng cường hình thức bồi dưỡng thường xuyên qua mạng, bồi dưỡng thông qua sinh
hoạt tổ chuyên môn và tự bồi dưỡng theo phương châm học tập suốt đời. BDTX cá nhân
1


sẽ giúp giáo viên phát triển năng lực tự học, tự bồi dưỡng theo yêu cầu của ngành GD,
đồng thời cải thiện và nâng cao hơn hiệu quả giáo dục.
II. Nội dung, thời lượng bồi dưỡng
1. Khối kiến thức bắt buộc
1.1. Nội dung bồi dưỡng 1: (30 tiết/năm học/giáo viên).
Bồi dưỡng chính trị, thời sự, nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước như:
- Các vấn đề lý luận cơ bản và những điểm mới trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư
và Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
- Một số vấn đề tiếp tục đổi mới học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục
quốc dân theo tinh thần triển khai thực hiện Kết luận 94-KL/TW ngày 28 tháng 3 năm
2014.
- Chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm
2017 về phịng chống suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
- Tình hình quốc tế, trong nước và thành phố nổi bật trong 6 tháng đầu năm 2017;

tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, các nghị quyết, chương trình, kế hoạch của đảng bộ địa
phương.
- Các nội dung về chuyên môn, nghiệp vụ hàng năm của ngành Giáo dục – Đào tạo
chuẩn bị cho năm học mới theo chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo.
- Triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung
ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và Nghị quyết số 88/2014/QH13
ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ
thông; Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày 27/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thơng; chương trình giáo
dục phổ thông tổng thể.
- Chú trọng việc đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng
lực học sinh và vận dụng thực tiễn.
1.2. Nội dung bồi dưỡng 2: (30 tiết/năm học/giáo viên).
- Đối với nội dung bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn cho giáo viên, các nội
dung về đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ năm học của địa phương (bao gồm cả nội
dung bồi dưỡng do các dự án), giáo viên tham gia các chuyên đề bồi dưỡng do các cơ sở
giáo dục (trường Đại học Sư phạm TP. HCM, trường Đại học Sài Gòn,...) tổ chức trong
năm học 2017 - 2018.
- Một số vấn đề về dạy học theo định hướng đổi mới chương trình và sách giáo khoa
phù hợp với thành phố Hồ Chí Minh.
- Dạy học phát triển năng lực học sinh theo mơ hình trường học mới.
- Nội dung bồi dưỡng 2 thực hiện hàng tháng thông qua các lớp tập huấn, các hoạt
động chuyên đề do Sở, Phòng GD và ĐT tổ chức và các trường tổ chức triển khai thực
hiện. Sinh hoạt chuyên môn cấp huyện hàng tháng tại một trong các trường THCS trong
huyện (dự giờ, nghe báo cáo chuyên đề; tổng kết các hoạt động cũng như đề ra phương
hướng hoạt động cho tổ bộ môn theo từng thời điểm).

2



THÁNG

DỰ THAO
GIẢNG CẤP
HUYỆN

NGHE BÁO CÁO
CHUYÊN ĐỀ CẤP
HUYỆN

DỰ THAO
GIẢNG
TRƯỜNG

NGHE BÁO CÁO
CHUYÊN ĐỀ CẤP
TRƯỜNG

Dạy học theo
chủ đề: Luyện
tập chứng minh
hai tam giác
bằng nhau (mơn
Tốn).

- Luyện tập chứng
minh hai tam giác
bằng nhau, một số
ứng dụng đơn giản
để chứng minh hai

tam giác bằng nhau
(môn Tốn).

10

11

12

Dạy học phát huy
tính tích cực, chủ
động của HS trong
mơn HH 8
Chủ đề 7 – Sắp Rèn kỹ năng sử
xếp và lọc dữ dụng tổ hợp phím
liệu (mơn Tin trên Excel (môn Tin
học).
học).

1+2
3
4

2. Khối kiến thức tự chọn: Nội dung bồi dưỡng 3 (60 tiết/năm học/giáo viên).
Căn cứ nhu cầu của cá nhân, khối kiến thức tự chọn trong chương trình bồi dưỡng
thường xun ban hành kèm theo các Thơng tư số 31/2011/ TT-BGDĐT ngày 08/8/2011
của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Thông tư số 27/2015/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 10 năm
2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Căn cứ theo kế hoạch của trường và kế hoạch của tổ chuyên môn, cá nhân thực
hiện BDTX các module sau:

- Module 3: Giáo dục học sinh THCS cá biệt.
- Module 14: Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp.
- Module 15: Các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện kế hoạch dạy học.
- Module 32: Hoạt động của giáo viên chủ nhiệm.
* Ngoài các module bồi dưỡng theo nhu cầu của cá nhân nêu trên, cần chú trọng các
nội dung bồi dưỡng sau đây:
- Đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học.
- Thực hành, ứng dụng một số về phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực.
- Giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống trong trường học.
III. Hình thức bồi dưỡng thường xuyên
1. Công tác bồi dưỡng thường xuyên giáo viên phổ thông của năm học này tiếp tục
thực hiện theo Quy chế bồi dưỡng thường xuyên ban hành kèm theo Thông tư số
3


26/2012/QĐ-BGDĐT ngày 10 tháng 7 năm 2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và công
văn số 389/NGCBQLCSGD-NG ngày 28 tháng 3 năm 2017 của Cục nhà giáo và Cán bộ
quản lý cơ sở giáo dục về hướng dẫn triển khai công tác bồi dưỡng thường xuyên năm
học 2017 – 2018 và các năm học tiếp theo.
2. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên năm học 2017 – 2018 cụ thể, xuất
phát từ nhu cầu bồi dưỡng và yêu cầu thực tiễn của giáo dục địa phương theo nhiệm vụ
năm học 2017 – 2018. Việc bồi dưỡng tập trung vào nâng cao năng lực nghề nghiệp,
phẩm chất đạo đức của giáo viên để đáp ứng yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp và tiêu
chuẩn chức danh nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ của hạng chức danh nghề nghiệp. Thực
hiện nghiêm túc việc đánh giá theo chuẩn nghề nghiệp, làm căn cứ để đề xuất các nội
dung bồi dưỡng thiết thực, hiệu quả.
3. Chủ động xây dựng kế hoạch, tài liệu và tổ chức bồi dưỡng nội dung đáp ứng yêu
cầu thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục địa phương theo năm học; tham gia các buổi
báo cáo chuyên đề bồi dưỡng.
4. Thực hiện chuyên đề ở tổ bộ môn, gắn việc học tập BDTX với thực tế giảng dạy

trong năm học 2017 – 2018. Công tác bồi dưỡng cần tập trung vào những nội dung mới,
cần có sự thảo luận ở tổ, nhóm.
5. Rút kinh nghiệm qua cơng tác BDTX tại đơn vị để giáo viên có điều kiện trao đổi,
thảo luận tìm ra giải pháp tự học hiệu quả; sắp xếp thời gian khoa học, hợp lý qua các
buổi họp hàng tháng để trao đổi, thảo luận về nội dung của các chuyên đề nhằm giúp cho
việc học tập BDTX đạt hiệu quả cao hơn; lưu trữ tài liệu cũng như tận dụng nguồn tài
nguyên trên internet sao cho hiệu quả hơn. Tiếp tục đổi mới phương pháp, ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác BDTX.
6. Tiếp tục đổi mới phương pháp, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
BDTX giáo viên. Thực hiện phương pháp tự học, tự bồi dưỡng và bồi dưỡng thông qua
các tài liệu tham khảo thêm trên mạng, các chuyên đề ở tổ bộ môn gắn việc học tập
BDTX với thực tế giảng dạy trong năm học 2017 – 2018. Thực hiện tốt các nội dung
BDTX theo kế hoạch. Tăng cường việc BDTX thông qua sinh hoạt chuyên môn theo
tổ/trường/huyện và tự bồi dưỡng theo phương châm học tập suốt đời.

PHẦN II
TIẾN TRÌNH VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH BDTX
NĂM HỌC 2017-2018
A. Nội dung bồi dưỡng 1
Thời gian
Nội dung học
Giải pháp
Phương tiện
Kết quả
thực hiện
Bồi dưỡng về
Tham gia học
Nắm vững và
chính trị, thời
chính trị hè 2017 - Tài liệu bồi

thực hiện
sự, nghị quyết,
27/07/2017
do Trường bồi
dưỡng.
nghiêm túc chủ
đường lối,
Đến
dưỡng – Phòng
- Qua mạng
trương, đường
chính sách của
02/08/2017
giáo dục và đào
Internet.
lối chính sách
Đảng, Nhà
tạo tổ chức.
của Đảng, Nhà
nước.
nước.
4


B. Nội dung bồi dưỡng 2
Nội dung
học
Bồi dưỡng

Thời gian

thực hiện

nâng cao
trình độ
chun
mơn, các
nội dung về 01/09/2017
Đến
đáp ứng
31/05/2018
u cầu
thực hiện
nhiệm vụ
năm học

Giải pháp

Phương tiện

Kết quả

- Tự bồi dưỡng
thường xuyên
bằng hình thức tự
học và kết hợp với
các buổi tham gia
sinh hoạt tổ
chuyên môn.
- Tham gia các hội
thảo chuyên đề tại

trường và huyện.
- Học tập theo tài
liệu được cung
cấp.

- Sách tham khảo
bộ môn Tốn
THCS.
- Qua các phương
tiện thơng tin đại
chúng. Qua mạng
internet.
- Tham khảo, sưu
tầm nhiều tài liệu
chuyên môn từ các
quận – huyện – tỉnh
- thành trong cả
nước.

Nắm vững
nội dung môn
học được phân
công để đảm
bảo dạy học
chính xác có
hệ thống, thực
hiện đúng kế
hoạch đã xây
dựng, có chú ý
đến sự phân

hóa học sinh
theo năng lực.

của huyện.
C. Nội dung bồi dưỡng 3 (60 tiết/năm học/giáo viên).
C1. Kế hoạch thực hiện
Nội dung học
Tên modoule
THCS 3
Giáo dục
học sinh THCS cá biệt.
THCS 14
Xây dựng kế hoạch
dạy học theo hướng
tích hợp.
THCS 15
Các yếu tố ảnh hưởng
tới thực hiện kế hoạch
dạy học.
THCS 32
Hoạt động của
giáo viên chủ nhiệm.

Thời gian
thực hiện
01/09/201
7
Đến
31/10/201
7

01/10/201
7
Đến
30/11/201
7
01/11/201
7
Đến
31/12/201
7
01/12/201
7
Đến
31/01/201

Số tiết
thực hiện

Kết quả cần đạt

10

Sử dụng được các phương
pháp dạy học, giáo dục học
sinh THCS cá biệt.

10

Xây dựng được kế hoạch dạy
học theo hướng tích hợp.


10

Phân tích được các yếu tố liên
quan đến thực hiện kế hoạch
dạy học để có biện pháp kiểm
sốt hiệu quả các yếu tố này.

15

5

Có kỹ năng tổ chức các hoạt
động trong công tác chủ
nhiệm.


8

Nội dung chú trọng

01/01/201
8
Đến
31/03/201
8

15

- Đổi mới sinh hoạt tổ

chuyên môn theo hướng
nghiên cứu bài học.
- Thực hành, ứng dụng một
số về phương pháp và kỹ
thuật dạy học tích cực.
- Giáo dục giá trị sống, kỹ
năng sống trong trường học.

C2. Trả lời câu hỏi
1. MODULE 3: Giáo dục học sinh THCS cá biệt
1.1. Kết
quả đạt
được

Câu 1: Vì sao cần thu thập thông tin về học sinh cá biệt? Các nguyên
nhân cơ bản dẫn đến hành vi sai lệch của học sinh cá biệt?
Trả lời
* Vì sao cần thu thập thơng tin về học sinh cá biệt?
- Lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi khủng hoảng trong sự phát triển
tâm lí, chính vì vậy mà so với học sinh (HS) ở bậcTiểu học, lứa tuổi này dễ
xuất hiện những HS khó giáo dục. Mâu thuẫn trong chính sự phát triển tâm lí
ở lứa tuổi này, cùng với thiếu sự giúp đỡ, hỗ trợ kịp thời của người lớn do
thiếu hiểu biết đặc điểm và những khó khăn của các em mà một số em đã
không vượt qua được giai đoạn này một cách tích cực, hình thành những thái
độ, hành vi khơng phù hợp.
- Trách nhiệm của giáo dục nói chung và giáo viên (GV) nói riêng là
khơng được để tồn tại những HS có hành vi chưa phù hợp với bổn phận, trách
nhiệm công dân, chưa phù hợp với giá trị xã hội, với những quy định chung
của nhà trường, lớp học, cộng đồng. Bởi vì giáo dục khác với các ngành sản
xuất là không cho phép tạo ra những phế phẩm về nhân cách - không mang lại

hạnh phúc cho cuộc đời các em, mà cịn có hại cho xã hội. Hơn nữa, nếu trong
lớp để tồn tại những học sinh cá biệt (HSCB), ln có những hành vi tiêu cực,
khơng phù hợp thì sẽ ảnh hưởng đến tập thể, những thành viên khác. Trong
thực tế nhiều GV cảm thấy rất khó khăn, có khi là bất lực khi trong lớp có
HSCB. Người GV trong nền giáo dục hiện đại cần phải là người phát triển
cảm xúc, thái độ, hành vi của HS, biết khơi gợi nhu cầu, hứng thú, của người
học; là người giúp cho HS biết cách học, cách tự rèn luyện cả về phẩm chất và
năng lực cá nhân, hướng tới mục đích hình thành những nhân cách phù hợp,
đáp ứng những yêu cầu của xã hội.
- Vì vậy, GV cần có những kĩ năng giúp những em này điều chỉnh, thay
đổi niềm tin, thái độ, hành vi của mình để các em có tương lại tốt đẹp hơn.
GV cần phải có những hiểu biết về kĩ năng cơ bản để tìm hiểu thơng tin về HS
THCS cá biệt (Điều quan trọng nhất ở đây là, những thông tin mà ta thu thập
6


được không phải là để phê phán mà là để giúp đỡ HS) để giáo dục tham vấn
giúp các em thay đổi thái độ, hành vi cho phù hợp, đánh giá sự tiến bộ, kết
quả học tập và giáo dục các em.
* Các nguyên nhân cơ bản dẫn đến hành vi sai lệch của HSCB?
Có nhiều yếu tố dẫn đến hành vi sai lệch của HSCB, nhưng ở đây chỉ
nêu một số nguyên nhân tác động trực tiếp đến HS làm nảy sinh những tư
tưởng, tình cảm khơng lành mạnh làm ảnh hưởng đến sự hình thành nhân
cách và làm hạn chế đến năng lực học tập của các em.
1. Ngun nhân trực tiếp từ chính HS
+ Chưa có mục đích học tập rõ ràng, chưa nhận thức được nhiệm vụ và
trách nhiệm của bản thân.
+ Một số HS có niềm tin sai về giá trị của con người và cuộc sống.
+ Chán nản: Một số HS có tiềm năng nhưng cảm thấy chán nản về năng
lực của mình, mất dần hứng thú và động cơ học tập, kém tự tin.

+ Rối loạn hành vi xã hội của HSCB:
- Dửng dưng trước tình cảm của những người xung quanh.
- Coi thường các chuẩn mực cũng như các nghĩa vụ xã hội.
- Hung tợn, có thể dùng vũ lực.
- Khơng có khả năng cảm nhận tội lỗi và không thể rút ra được bài học
có ích từ kinh nghiệm cuộc sống, ngay cả sau những lần bị phạt do bị phạm
lỗi.
2. Ảnh hưởng của sự phát triển xã hội theo cơ chế thị trường
Xã hội phát triển là điều đáng mừng, nhưng khi phát triển theo cơ chế
thị trường nó kéo theo một bộ phận không lành mạnh khác như dịch vụ giải trí
khơng lành mạnh, phim ảnh bạo lực, tình cảm lứa đôi quá trớn …
Hiện nay, các dịch vụ internet (game), karaokê… được tổ chức gần
trường học, lôi cuốn, hấp dẫn các em vào các trị chơi vơ bổ. Các em lao vào
các trị chơi đó dẫn đến bỏ giờ trốn học và những vi phạm khác. Đồng thời
các kênh truyền hình chiếu một số bộ phim có mang những hình ảnh bạo lực,
thiếu lành mạnh làm cho các em dễ dàng bắt chước; những tụ điểm ăn chơi
hàng ngày nhan nhãn, đập vào mắt các em làm cho các em khơng tự chủ,
tham gia khơng có ý thức dần dần tiêm nhiễm và trở thành HS hư.
3. Ảnh hưởng của mơi trường giáo dục gia đình
HSCB phát sinh từ những ảnh hưởng không tốt của môi trường giáo dục
gia đình, đó là:
+ Gia đình có hồn cảnh kinh tế khó khăn
Từ những khó khăn về đời sống kinh tế, cha mẹ phải lao động vất vả,
chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em, làm cho các em thiếu
tự giác - chủ động trong học tập ở nhà như soạn bài, học bài cũ; do đó khi
đến lớp việc tiếp thu bài mới rất khó khăn, không làm được bài kiểm tra, lo
lắng sợ sệt khi thầy cơ giáo kiểm tra bài cũ… từ đó thua sút bạn bè và phát
sinh tâm lí chán học dẫn đến bỏ giờ trốn học, bỏ học.
+ Gia đình chỉ lo làm ăn, không quan tâm đến việc học của con cái
7



Nhiều gia đình vì kế sinh nhai, cả vợ chồng đều đi làm ăn xa, phó mặc
con cái cho ơng bà hoặc chị em chăm sóc lẫn nhau, một số HS chưa tự giác và
thiếu sự quản lí chặt chẽ của người lớn nên nảy sinh những tư tưởng không
lành mạnh, từ đó ham chơi mà trốn học, bỏ học.
Có gia đình tuy khơng khó khăn về kinh tế nhưng có tham vọng làm
giàu, bỏ mặc con cái, khơng quan tâm đến việc học tập của con cái kể cả
những thói hư tật xấu của con cái, cha mẹ cũng khơng biết để răn dạy, do đó
từ những vi phạm nhỏ dần dần đến việc lớn.
+ Gia đình có cha mẹ bất hịa, khơng có hạnh phúc
Lứa tuổi các em rất nhạy cảm, những cuộc cải vả của cha mẹ, sự to
tiếng quát nạt, bạo lực của người cha làm cho các em dần dần bị ảnh hưởng,
từ đó nảy sinh những việc làm khơng lành mạnh, thích đánh lộn để giải tỏa
tâm lý, bị ức chế, bỏ nhà đi chơi khơng thiết tha đến việc học; từ đó lực học
giảm sút dẫn đến chán học, bỏ học,… có thể HSCB.
Với mơi trường giáo dục của gia đình như vậy, HS khó có thể trở thành
con ngoan trị giỏi, nếu khơng có sự động viên kịp thời của bạn bè, nhà trường
và thầy cô giáo.
Câu 2: Liệt kê những biện pháp/(cách thức) giáo dục HS cá biệt. Theo
thầy (cô) biện pháp nào đánh giá kết quả học tập, giáo dục HS cá biệt hiệu
quả?
Trả lời
* Những biện pháp/cách thức giáo dục HSCB
1. Giáo viên cần phải tiếp cận cá nhân và xây dựng quan hệ tin cậy,
tôn trọng, thân thiện với HSCB
- Thể hiện sự hiểu biết, thông cảm và chấp nhận trẻ.
- Tập trung vào điểm mạnh của trẻ.
- Tìm điểm tích cực và nhìn nhận tình huống theo cách khác tích cực hơn.
- Tập trung vào những điểm cố gắng, tiến bộ của trẻ.

2. Giúp HS biết nhận thức đúng về điểm mạnh vã điểm yếu của
bản thân
- Nhận thức được những điều gì đó đối với bản thân. Việc nhận thức được
điều gì có ý nghĩa và quan trọng đối với mình và những điều đó có phải thực
sự là chân giá trị của con người và đời người không? Điều quan trọng nữa là
cần nhận thấy bên cạnh những hạn chế nhất định, mình là người có giá trị thì
HS mới có nhu cầu, động lực để hoàn thiện bản thân.
- Tự tin về giá trị và những điểm mạnh của mình để làm điểm tựa cho
những hành vi và ứng xử một cách tích cực.
3. Giúp HS nhận thức được hậu quả của những hành vi tiêu cực:
- GV kết hợp với tập thể lớp giúp HS dần nhận thức được nếu cứ hành
động, ứng xử theo cách làm mọi người khó chịu, làm mọi người tổn thương,
cản trở sự phát triển chung... thì khơng chỉ làm khổ, làm hại người khác, mà
nguyên tắc sống trong tập thể, xã hội không cho phép bất cứ ai làm như vậy.
- GV và tập thể HS cần hỗ trợ các em trong quá trình thay đổi hành vi.
8


4. GV cần phải quan tâm hỗ trợ các em vượt qua những khó khăn
và đáp ứng nhu cầu chính đáng của HSCB
- Quan tâm, giúp đỡ HSCB khi gặp khó khăn; phụ đạo bồi dưỡng thêm để
các em có tiến bộ.
- Khoan dung, tạo điều kiện để HS có cơ hội học tập tốt hơn.
- Tạo ra môi trường thân thiện ở trường, ở lớp.
- Công bằng với tất cả HS, khơng phân biệt đổi xử.
5. Động viên, khích lệ, tạo động lực cho HSCB học tập và hoàn thiện
nhân cách cho HS: Người GV phải chăm lo giáo dục động cơ học tập, giá trị,
hành vi tích cực, lành mạnh về mọi mặt chỗ HS. GV là người đánh thức, khơi
dậy hứng thứ nhiều mặt của HS; là người kìm hãm, ngăn chặn những hoạt
động tiêu cực của HS và kích thích, tích cực các hoạt động có giá trị xã hội và

là người hình thành, rèn luyện kĩ năng giải quyết các vấn đề gặp phải trong
cuộc sống.
6. Sử dụng hệ quả tự nhiên và hệ quả logic: Là những gì xảy ra một
cách tự nhiên, khơng có sự can thiệp của người lớn.
7. Phương pháp ứng xử đối với một loại hành vi có mục đích điển
hình: Để cho HSCB được nói chuyện, giao lưu ứng xử nhiều với bạn bè cùng
lớp, các thầy cô và gia đình của các em.
8. Sử dụng mơi trường tập thể thân thiện và các mối quan hệ trong
tập thể để phát hiện kịp thời và tác động phù hợp đến từng cá nhân, tạo
điều kiện tinh thần và sự hỗ trợ đối với từng thành viên trong quá trình
thực hiện: Như vậy, trong cùng một tình huống, sự kiện có thể có hai hay
nhiều phản ứng khác nhau phụ thuộc vào cách suy nghĩ khác nhau, chính
chúng ta là người tạo nên cảm xúc của mình. Áp dụng biện pháp giáo dục kỉ
luật tích cực đối với cả tập thể lớp và HSCB.
* Biện pháp nào đánh giá kết quả học tập, giáo dục HSCB hiệu quả?
Đối với những HSCB, mỗi trường học có các cách giáo dục riêng. Tuy
nhiên, dù áp dụng theo phương pháp nào cũng nên đảm bảo kết hợp giữa kỷ
luật và tình thương.
Mới đây, Hội đồng kỷ luật của Trường THCS Trần Hưng Đạo (TP Rạch
Giá, tỉnh Kiên Giang) đã thống nhất hình thức kỷ luật buộc thơi học có thời
hạn đến hết năm học 2017-2018 đối với 2 nữ sinh lớp 9 đã đánh dã man 3 nữ
sinh lớp 7 cùng trường chỉ vì mâu thuẫn trên mạng xã hội. Dư luận xã hội
đang xơn xao về vấn đề có nên buộc thơi học đối với những HS đánh nhau
không? Vấn đề xử lý HS hư hay HSCB thế nào để vừa răn đe, vừa giáo dục
được HS trên cơ sở tình thương?
1. Giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt trường
Để cho HS nắm bắt được việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm (HK) tức là
những chuẩn mực các em đạt được trong quá trình rèn luyện hạnh kiểm của
mình, nhà trường cần phải thông báo cho các em biết được các mức độ xếp
loại HK (tốt, khá, trung bình, yếu). Hiểu được thì các em sẽ tránh được vi

phạm mà các em mắc phải, để rồi các em khỏi phải bị xếp loại HK yếu, khỏi
9


phải liệt vào danh sách HSCB.
Tổ chức cho HS thảo luận nội qui nhà trường và hướng dẫn cho các em
thực hiện nội qui, có chế độ khen chê cơng bằng, khách quan. Trong buổi
chào cờ đầu tuần, cần đánh giá nhận xét chu đáo, nêu gương người tốt, việc
tốt để các em noi theo, hạn chế những vi phạm nội qui lớp học, trường học.
2. Giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt lớp
Ngồi việc giáo dục HS thơng qua giờ sinh hoạt trường, giờ sinh hoạt
lớp cũng rất quan trọng trong vấn đề này. Bởi vì thơng qua giờ sinh hoạt lớp,
GVCN, cán bộ lớp kịp thời uốn nắn những sai trái khuyết điểm của HS khi bị
vi phạm, lấy tình cảm bạn bè, lấy nghĩa thầy trị làm cho các em thấy được
khuyết điểm của mình. Đồng thời với sự chân thành của GVCN, HS trong
lớp, HS khi vi phạm sẽ sớm nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa chữa.
Trong khi giáo dục các em, GVCN khơng nên nặng về kiểm điểm, phê
bình, mà phải tìm ra và xác định đúng nguyên nhân đã tác động đến các em
làm cho các em mắc sai lầm, vi phạm, vận dụng những điều khoản trong nội
qui, trong qui định xếp loại của thông tư 58 làm cho các em thấy được phạm
vi vi phạm ở mức độ nào và nêu ra hướng cho các em khắc phục. GVCN nêu
những việc làm tốt, những cố gắng nỗ lực của các thành viên trong lớp để xây
dựng tập thể lớp thành lớp tiên tiến… với thành tích như vậy thì không được
bất cứ thành viên nào trong lớp phá vỡ.
3. Kết hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh để giáo dục HS
Ban đại diện cha mẹ HS là cầu nối giữa nhà trường, GVCN với gia đình
HS. Tổ chức Ban đại diện cha mẹ HS ngoài việc giúp nhà trường xây dựng cơ
sở vật chất cịn góp phần cùng nhà trường giáo dục HSCB.
4. Phối hợp với các Đoàn thể và các lực lượng khác trong xã hội
Hiện nay ở địa phương đã hình thành các khu dân cư và nhiều nơi đã

xây dựng khu dân cư, thôn văn hóa, đó là điều kiện tốt để các Đồn thể cùng
với nhà trường, qua đó giáo dục HS. Các đồn thể, chính quyền địa phương
giúp cho các thành viên xây dựng gia đình văn hóa, hạn chế tình trạng cha mẹ
bỏ mặc con cái đi làm ăn, những mối bất hịa trong gia đình dần dần chấm
dứt, từ đó cha mẹ sẽ có điều kiện chăm sóc giáo dục con cái tốt hơn.
5. Dùng phương pháp kết bạn
Thường lứa tuổi HS dễ bị ảnh hưởng những thói hư tật xấu nhưng cũng
dễ tiếp thu những điều hay lẽ phải, dễ hịa mình vào những trị chơi có tính tập
thể, tính giáo dục cao. Do đó GV nên phân cơng một nhóm bạn tốt, cùng hồn
cảnh, cùng sở thích, ước mơ... sinh hoạt, học tập với đối tượng này dần dần
lơi kéo các em hịa nhập vào các cuộc chơi bổ ích, từ đó xóa bỏ các mặc cảm
là HS hư để rồi cùng với các thành viên trong lớp xây dựng tập thể vững
mạnh.
Mặt khác, thơng qua nhóm bạn tốt, GV giao cho HSCB thực hiện một
số công việc, tạo những điều kiện để những HS này hoàn thành và động viên
khích lệ các em để các em xóa những tự ti, mặc cảm là HSCB để hịa mình
với bạn bè. Ngồi ra có thể vận động gia đình của nhóm bạn tốt tham gia vào
10


việc giúp đỡ những HS này bằng cách tạo cho các em tâm lý xem gia đình của
bạn như gia đình mình, tạo điều kiện cho các em cùng tham gia học tập với
con em mình để tách dần ra khỏi nhóm bạn chưa ngoan. Việc làm này cả là
một cố gắng trong đó vai trị quan trọng của GV và sự tham gia của phụ
huynh HS là rất cần thiết.
6. Phương pháp “lạt mềm buộc chặt”
Tuổi mới lớn thì nghịch phá là chuyện khó tránh khỏi. Những biện pháp
mạnh như kỷ luật hay lớn tiếng trách mắng, la rầy HS đơi khi sẽ khơng có tác
dụng bằng sự mềm mỏng, kiên nhẫn. Ai cũng muốn mình là HS ngoan, giỏi
nhưng vì lý do về gia đình, về tâm sinh lý và rất nhiều nguyên nhân khác dẫn

đến những hành động tiêu cực của một vài bạn HS. Trước hết, GV nên tìm
hiểu rõ nguyên nhân và dùng sự mềm mỏng để cảm hóa HS của mình.
7. Kết hợp kỷ luật và tình thương
Đừng vì một vài biểu hiện nhất thời của HS mà gán ghép cho các em cái
tên “học sinh cá biệt”. Bên cạnh đó, thầy cơ giáo cũng cần chú ý đến tâm lý
lứa tuổi của các em bởi “giai đoạn cấp 2, cấp 3 là giai đoạn khá nhạy cảm và
có những rối loạn của tuổi dậy thì”. Đơi khi những phản ứng nổi loạn là do
các em khơng kiềm chế, kiểm sốt được.
Cố PGS-TS Văn Như Cương, hiệu trưởng Trường THPT Lương Thế
Vinh - Hà Nội đã từng nói rằng, thầy cơ phải uốn nắn, định hướng ngay khi
các em mắc những lỗi nhỏ để tránh dẫn đến việc xảy ra chuyện lớn rồi buộc
lòng phải dùng biện pháp kỷ luật HS; PGS chia sẻ: “Kỷ luật là một hình thức
giáo dục, khơng chỉ giáo dục HS vi phạm mà còn răn đe các em khác nữa.
Tuy nhiên, kỷ luật là hình thức giáo dục cuối cùng bắt buộc phải dùng đến”.
Giáo dục là một hoạt động đặc biệt bởi sản phẩm tạo ra là con người. Vì
vậy vẫn nên dùng đến kỷ luật nhưng là kỷ luật kết hợp với tình u thương.
Có như vậy thì người thầy mới khơng khắc những vết thương lên tinh thần
của người học trò về sau này. Đừng làm các em HS rơi vào trạng thái thấy
mình là kẻ cá biệt và cô độc trong lớp rồi nảy sinh những phản ứng tiêu cực
như sợ hãi, tự ti. Mục đích của việc làm này là “giơ cao đánh khẽ” và với
mong muốn giúp HS có kỷ luật tốt hơn. Đây có phải là cách tốt nhất để răn
đe, giáo dục HS khi vi phạm, nhất là HS đang trong độ tuổi hình thành phát
triển tâm lý.
Phần lớn ngày nay, thời gian của các em HS ở trường nhiều hơn ở nhà.
Trong trường, có thầy cơ giáo dạy dỗ cịn về nhà thì (một số) phụ huynh lo đi
làm nên sẽ không thể dành thời gian nhiều để bảo ban các em.
Vậy liệu khi đuổi học, có phải là gián tiếp đưa HS ra ngoài xã hội nhiều
cạm bẫy, đẩy HS đến gần với những tệ nạn xã hội này khơng? Trong khi có
nhiều cách có thể xử lý được như cảnh cáo trước tồn trường, đưa HS đó vào
một nhóm giáo dục đặc biệt tại trường.

Thực tế, đây không phải là cách xử lý mới khi HS vi phạm. Cách này đã
được hình thành từ lâu trong hệ thống giáo dục của nước ta. Nhiều quan điểm
ủng hộ cho rằng đây là cách để đe dọa các HS này tái phạm, nhưng liệu nó có
11


mang phản ứng ngược. Cấp 2 và cấp 3 là độ tuổi nhạy cảm, việc đuổi học này
thực tế chỉ răn đe được một ít, số cịn lại mang tâm lý bất cần sau khi bị đuổi
học. Và khả năng các em dễ tiếp cận với các thành phần xấu trong xã hội là
rất cao.
Chắc hẳn chúng ta ai cũng nhớ hai câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Chính vì vậy,
mỗi khi dùng biện pháp mạnh với HS phạm khuyết điểm, những người có
trách nhiệm nên cân nhắc hết sức kỹ lưỡng.
* Quan điểm của Bộ là không đuổi học HS
Quan điểm của Bộ là nhà trường phải giáo dục các cháu nên người; nhà
trường làm nhiệm vụ giáo dục mà lại quay lưng với HS thì sẽ đẩy các cháu ra
ngồi xã hội; đó là việc làm phi giáo dục. Ở một chừng mực nhất định, nhà
trường nên giáo dục dạy bảo các cháu. Nhưng nếu các cháu đã có hành động
đánh nhau dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ bị xử lý theo quy định của
pháp luật. Đến lúc ấy không thuộc quyền quyết định của Ngành giáo dục nữa.
Tuy nhiên, Bộ vẫn luôn nhắc nhở các trường không nên đẩy các cháu ra xã
hội mà không được giáo dục.
8. Biện pháp cụ thể của GV đối với HS
a) GV cần phải tiếp cận cá nhân và xây dựng quan hệ tin cậy, tôn trọng,
thân thiện với HSCB.
- Thể hiện sự hiểu biết, cảm thông và chấp nhận trẻ.
- Tập trung vào điểm mạnh của trẻ.
- Tìm điểm tích cực và nhìn nhận tình huống theo cách tích cực
hơn.

- Tập trung vào những điểm cố gắng, tiến bộ của trẻ.
Muốn thay đổi hành vi của HS có hiệu quả, GV cần có sự hợp tác của HS.
Do đó, GV cần chủ động tiếp xúc với HS để nắm bắt các điều kiện, hoàn
cảnh, tâm tư, sức khỏe của HS… để kịp thời động viên, an ủi giúp cho các em
vượt qua các khó khăn để vươn lên trong học tập.
b) Giúp HS biết nhận thức đúng về điểm mạnh và các điểm yếu của bản
thân.
c) Giúp HS nhận thức được hậu quả của những hành vi tiêu cực và tất
yếu phải thay đổi hành vi, thói quen cũ.
d) GV cần phải quan tâm, giúp đỡ các em vượt qua những khó khăn và
đáp ứng nhu cầu chính đáng của HS cá biệt.
+ Hành vi, thái độ của GV để HS thấy được an toàn
- Khoan dung, bỏ qua lỗi lầm để HS có cơ hội học tập.
- Giúp HS hiểu rõ: Không ai được làm tổn thương người khác và mọi
người đều có quyền được bảo vệ.
- Tỏ ra thơng hiểu trong quá trình thảo luận.
- Kiên định về chuẩn mực ứng xử và xử lí cơng bằng.
+ Hành vi, thái độ của GV để HS thấy được yêu thương
- Tạo ra môi trường thân thiện trong trường, lớp mà HS có thể biểu lộ,
12


1.2.
Những
nội
dung
bản

thể hiện bản thân. Cử chỉ nhẹ nhàng, ân cần, thân mật, gần gũi. Lắng nghe lời
tâm sự của HS. Động viên, giúp đỡ, khích lệ, khoan dung độ lượng, vị tha,

ấm áp, quan tâm…
- Công bằng với tất cá HS, không phân biệt, đối xử.
+ Hành vi, thái độ của GV để HS thấy được hiểu và thông cảm:
- Lắng nghe HS, cởi mở, linh hoạt.
- Tạo điều kiện cho HS diễn đạt ý kiến và bộc lộ cảm xúc.
- Hiểu tâm lí của trẻ qua từng giai đoạn.
+ Hành vi, thái độ của GV để HS thấy được tôn trọng
- Lắng nghe HS một cách quan tâm, chăm chú.
- Dành thời gian để nhận ra cảm xúc của HS.
- Cùng với HS thiết lập ra nội qui của lớp.
- Tạo giới hạn và bình tĩnh khi HS vi phạm nội qui.
- Ln giữ cho giọng nói hài hịa trong lớp học. Tùy tình huống mà có
lúc giọng nói mang tính chất khách quan, khích lệ, phấn khởi nhưng cũng có
lúc cần nghiêm khắc, kiên quyết.
+ Hành vi, thái độ của GV để HS mình có giá trị.
- Lắng nghe HS nói; tạo điều kiện cho HS bộc lộ khả năng của mình.
- Hưởng ứng các ý tưởng hợp lí của HS.
- Nếu HS có mắc lỗi, chú ý đến hành vi của HS. Không được đồng nhất
lỗi lầm của HS với nhân cách và con người HS.
e) Động viên, khích lệ, tạo động lực cho HS cá biệt tạo động lực học tập
và hoàn thiện nhân cách cho HS.
Tóm lại, trong mỗi con người có nhiều khả năng, trong đó có những khả
năng chưa bao giờ sử dụng, hoặc ít sử dụng, đồng thời ai cũng có những năng
lực nhất định. Trí thơng minh, năng lực của con người có 8 loại như sau:
1. Năng lực giao tiếp / ngơn ngữ.
2. Năng lực tư duy logic và tốn học.
3. Năng lực tưởng tượng.
4. Năng lực âm nhạc
5. Năng lực nội tâm.
6. Năng lực quan hệ tương tác, quan hệ xã hội.

7. Năng lực thể thao vận động.
8. Năng lực tìm hiểu thiên nhiên.
Một HS bình thường hay cá biệt đều có thể có đầy đủ hoặc một số năng
lực nêu trên. Vì vậy người GV cần tìm hiểu và xác định được để tạo điều kiện
và hỗ trợ các em phát triển chúng. Mỗi người GV cần kiên trì, nỗ lực khơng
ngừng, tạo mọi điều kiện để giúp đỡ HSCB hồn thiện nhân cách của mình.
Câu 1: Vì sao cần tiếp cận và khích lệ học sinh cá biệt? Liệt kê 5 câu nói
khơng mang tính khích lệ và đề xuất 5 câu nói mang tính khích lệ học sinh.
Trả lời
* Vì sao cần tiếp cận và khích lệ HSCB?
Trách nhiệm của mỗi GV dù trong thời điểm nào cũng cần chú trọng
13


thân sẽ
vận
dụng
vào thực
tiễn
giảng
dạy và
giáo dục
tại đơn
vị

đến giáo dục toàn diện cho HS. Đối với HSCB thì điều này lại càng khó khăn
hơn. “Biết người, biết ta, trăm trận trăm thắng”, bản thân GV sẽ khó thực hiện
đạt hiệu quả tốt nếu khơng nắm rõ mình đang giáo dục HS nào? Đặc điểm
tính cách ra sao? Phương pháp nào thích hợp?... Chúng ta mong cần giáo dục
để các em hiểu và nhận thức được những giá trị sống xung quanh các em để

các em thật sự thay đổi từ bản chất, có niềm tin và tư tưởng ổn định để tiếp
tục sống tốt hơn. Muốn thực hiện hiệu quả thì sự cần thiết phải tiếp cận HSCB
các em và khích lệ các em là một việc làm cần thiết trước tiên khơng thể bỏ
qua. Khích lệ để tiếp thêm sức mạnh tinh thần, niềm tin ý chí để các em thấy
được con đường tươi sáng – hy vọng hơn cho bản thân mình, từ đó dần tác
động tới tư tưởng, bản năng, nhận thức của các em, giúp các em quay về với
hướng đi đúng đắn.
* Liệt kê 5 câu nói khơng mang tính khích lệ
+ Em học chẳng có cố gắng, không hề tiến bộ chút nào.
+ Em quá lười.
+ Em chỉ biết quậy phá đem lại rắc rối cho mọi người.
+ Bao giờ em mới chịu thay đổi, nói chuyện với em thật chán và bực mình.
+ Bạn A học tốt hơn em nhiều.
* Đề xuất 5 câu nói mang tính khích lệ HS
+ Em hãy cố gắng hết khả năng của bản thân, cô và cả lớp tin em sẽ tiến bộ.
+ Hơm nay con học tập có tiến bộ, tiếp tục cố gắng thêm nữa nhé con trai
(con gái)!
+ Người duy nhất khơng mắc sai lầm chính là người khơng làm gì cả, đừng
sợ sai lầm miễn là bạn đừng mắc cùng một sai lầm hai lần.
+ Những điều tốt đẹp đến với ai tin tưởng, những điều tốt hơn đến với ai
kiên nhẫn và… những điều tốt nhất chỉ đến với người khơng bỏ cuộc.
+ Có những khi các con cần phải nhìn cuộc sống một cách nhẹ nhàng dưới
những khía cạnh tốt đẹp, nó sẽ giúp các con tự tin, thoải mái, yêu và trân
trọng cuộc sống hơn.
Câu 2: Hãy minh chứng một học sinh cá biệt mà thầy (cô) đã giáo dục.
Cho biết thầy (cơ) đã dùng biện pháp giáo dục gì và đánh giá kết quả, biện
pháp giáo dục đó?
Trả lời
Trong q trình giảng dạy, tôi được phân công làm chủ nhiệm mà trong
lớp tơi có một HS nam – HS khá cá biệt của lớp, em tên NTB, khi nhắc đến

tên em là nhiều GV biết đến với những ấn tượng không mấy tốt. Em đã vi
phạm nội quy trường, lớp nhiều lần nhưng mức độ chưa nghiêm trọng.
Vào một ngày tôi được giám thị mời vào phòng trao đổi rằng em NTB
tham gia đánh HS lớp khác tên TKD, tôi đến gặp em và la em một trận mà
chưa hỏi nguyên nhân và gửi thư mời phụ huynh em ngày hôm sau sẽ trao
đổi. Nhưng đến giờ hẹn mà phụ huynh khơng tới, tơi xuống lớp gọi em ra nói
chuyện, thì biết rằng em không đưa thư mời cho phụ huynh. Lúc bấy giờ tôi
rất giận, tôi đã la em: “Tại sao con lại không mời phụ huynh?”, em không trả
14


lời tơi mà nhìn tơi chằm chằm. Em khóc, tơi nhìn em tơi cảm nhận được rằng
có điều gì đó “bất ổn”, cần phải làm rõ. Tôi chủ động thời gian để trao đổi
thêm với ban cán sự của lớp, với một số HS trong lớp về trường hợp của em
NTB. Sau khi đã tìm hiểu cặn kẽ, rõ ràng từ nhiều thơng tin (ở cả hai phía:
NTB và TKD) tôi biết NTB bị các bạn TKD chê là học yếu, và có những hành
vi – lời lẽ - thái độ xúc phạm. Tôi chủ động mời cả em đến để trao đổi, phân
tích – giảng hịa, tơi gợi ý để bản thân hai em chủ động tường trình lại sự việc,
sau đó giúp các em chủ động phân tích đúng sai, ai có lỗi. Ban đầu, thật sự
khó khăn, nhưng bằng tình cảm chân thành và kiên nhẫn dần dần tôi đã thuyết
phục được hai em chủ động nhận ra lỗi lầm của từng cá nhân. NTB mặc dù là
HSCB nhưng cũng đã nhận ra lỗi, tôi giúp hai em giảng hịa. Tơi xin lỗi em
NTB khi la em mà chưa rõ vì sao. Sau đó, tơi động viên hai em cố gắng học,
NTB đừng vì kết quả hiện tại mà mặc cảm cũng như TKD đừng trêu đùa bạn
(con có thích bị người khác trêu đùa như vậy khơng? Con khơng thích thì bạn
cũng vậy), hãy giúp nhau trong học tập, những hành động và việc làm thiết
thực bằng những nỗ lực và cố gắng hết mình sẽ giúp các con thành công hơn
trong tương lai và vượt qua khó khăn hiện tại. Sau vụ việc đó, hai HS đã dần
có những biểu hiện tốt hơn với nhau, hiện giờ tuy tơi khơng cịn chủ nhiệm
các em nữa, nhưng tôi biết rằng bây giờ NTB học khá tốt.

Để đạt được mục tiêu – hiệu quả giáo dục, khi xử lý các tình huống phải
trực tiếp đi tìm hiểu cụ thể nội dung sự việc để nắm rõ nguyên nhân cặn kẽ, từ
đó sẽ đưa ra cách giải quyết thích hợp, thuyết phục. Khơng chỉ vậy mà người
GV cần phải hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý của HS, tính tình của các em, cách
ứng xử của các em để có thể giáo dục và hướng các em đi theo con đường
đúng đắn nhất. Cách ứng xử có tình – có lý giúp người GV đạt hiệu quả giáo
dục, giúp các em HS khắc phục bớt những khuyết điểm và có những định
hướng đúng đắn cho bản thân.
1.3.
Thầy (cơ) hãy cho biết những khó khăn khi giáo dục học sinh cá biệt, đề
Những xuất biện pháp khắc phục khó khăn trên.
nội
Trả lời
dung
* Những khó khăn khi giáo dục HSCB
khó và
- Lứa tuổi Tiểu học là lứa tuổi mà trí não HS chỉ tư duy một bước: ghi
những nhận, học hỏi; lứa tuổi THCS là tư duy hai bước: ghi nhận và phân tích đúng
đề xuất sai. Nếu trẻ Mầm non và Tiểu học thường bắt chước, làm theo thì ở bậc
về cách THCS các em đã phát triển tốt hơn về tư duy suy luận, cá tính bộc lộ rõ hơn,
thức tổ cùng với xu hướng tự khẳng định mình ngày càng rõ nét. Do đó, lúc này q
chức bồi trình giáo dục thành cơng chính là làm sao để các em tự giáo dục, tự nhận
dưỡng thức và rút ra bài học cho bản thân, vì vậy, trước hết cần để HS phải tự chịu
nhằm trách nhiệm về mọi hành vi của mình.
giải
- Trao đổi, tâm sự của HS (NTH): “Thích giáo dục nhẹ nhàng”. Trên
quyết
thực tế, có những tình huống thầy cơ đã trách sai, trách oan. Khổ nỗi là có
những thầy cơ khơng chịu nghe HS giải thích. Thậm chí có trường hợp HS càng
nội

phân bua càng bị phạt nhiều hơn. “Người trong cuộc” cũng ấm ức, không biết
15


dung
khó này

nói với ai, chỉ có thể tâm sự với bạn bè. Có lẽ tâm lý của HS chúng tơi đứa
nào cũng giống nhau: thích được thầy cơ đối xử, nói năng nhẹ nhàng, ngọt
ngào với mình. Nếu HS có gì sai, thầy cơ hãy gặp riêng và dịu dàng khuyên
nhủ, chứ nếu la mắng trước lớp thì “quê” với tụi bạn lắm. Chưa kể có bạn rất
cá tính, thầy cơ mà la mắng hồi bạn ấy bực là bỏ ngồi tai, khơng chịu thay
đổi gì hết. Thậm chí có trường hợp bạn ấy cịn ghét thầy cơ đó… và dần dần
trở nên hợp tác “hình thức”, “bất trị”...
- Ngồi việc dạy tri thức thì sự quan tâm của GV đến đời sống tinh thần
của HS, hiểu đặc điểm tâm lí và tơn trọng cá tính của các em để giáo dục các
em một cách toàn diện là rất quan trọng. Người GV phải tác động như thế nào
để các em “ổn định về tư tưởng”, thay đổi từ bản chất, có nhận thức đúng đắn
thì mới có hy vọng đạt thành công trong giáo dục; đây là yếu tố then chốt góp
phần thành cơng trong giáo dục HSCB; và đó cũng là một yêu cầu, thách thức
thật sự khó khăn đối với người GV, không phải dễ dàng thực hiện được.
* Biện pháp khắc phục khó khăn trên: “Giáo dục HSCB bằng tình
cảm”, vai trị của người GV trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: vừa
giảng dạy vừa làm cơng tác chủ nhiệm. Mục đích là giáo dục những HS vừa
có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người.
1. Thế nào là học sinh cá biệt?
Trước hết, cần hiểu đúng khái niệm “học sinh cá biệt”. Đó là những HS
có cá tính khác biệt so với số đơng HS bình thường (khơng có nghĩa HSCB là
bất bình thường). HSCB chỉ những HS hoang nghịch thường gây gỗ đánh
nhau, bỏ giờ, trốn học, không chấp hành nội qui nhà trường … thêm vào đó là

sự lơi kéo của bạn bè về phía mình nhằm thỏa mãn cá tính hoặc thỏa mãn nhu
cầu giải tỏa tâm lý bị ức chế về hồn cảnh của bản thân mình. Đó là hiện
tượng tâm lý ở lứa tuổi thanh thiếu niên, nó dễ bị lơi cuốn làm cho HS dễ bị
tiêm nhiễm những thói hư tật xấu dẫn đến tình trạng bỏ học giữa chừng và có
nguy cơ phạm tội là nỗi day dứt của nhà trường, gia đình và xã hội.
2. Yêu cầu đối với GVCN khi lớp có HSCB
* Cơng việc đầu tiên của người GVCN khi có HSCB trong lớp là:
+ Xác định đúng đối tượng thông qua phản ảnh của lớp, của GVBM, cần
thiết tham khảo ý kiến của GVCN cũ.
+ Phân loại: HSCB về học tập, HSCB về đạo đức, lối sống.
+ Tìm hiểu nguyên nhân: Từ gia đình, từ xã hội và từ bản thân HS (Giai
đoạn tâm sinh lý có nhiều biến đổi. Từ tuổi thiếu niên chuyển sang tuổi thanh
niên, HS muốn khẳng định mình bằng sự hiểu biết chưa hồn thiện của mình).
- Bản thân người GVCN phải có tấm gương sáng biết tự hồn thiện
phẩm chất nhân cách của mình. Người GVCN hơn ai hết cần phải có trí tuệ,
có lương tâm, có uy tín, tự trọng và biết giữ chữ tín.
- Hiểu biết tâm lý lứa tuổi của HS mình chủ nhiệm. Cuộc sống nội tâm
của HS ở lứa tuổi này còn nhiều mặt dễ biến đổi. Do các quá trình tâm lý chưa
ổn định và sự tác động rất lớn của xã hội, hoàn cảnh sống....
- Người GVCN phải có tinh thần trách nhiệm cao yêu nghề. Biết sự
16


kiềm chế, bình tĩnh trong mọi tình huống, kiên định thực hiện thiên chức
người kỹ sư tâm hồn. Có sự nhạy cảm sư phạm biết dùng yếu tố tình cảm như
một nghệ thuật sư phạm để cảm hóa HSCB.
3. Những điều nên tránh
- Không cô lập HSCB đối với tập thể. Không xúc phạm và làm tổn
thương danh dự của HS trước tập thể, lời nói cần phải thận trọng.
- Không quá khắt khe xử lý mạnh tay bằng những hình thức kỷ luật

nặng nề, đe dọa, thành kiến khơng dùng lời lẽ nặng nề dao to búa lớn, nói như
một nhà sư phạm “không cần dùng búa để mổ một con gà”.
- Một điều là tối kỵ đối với HSCB, đó là khơng được đánh HS – dù chỉ
là một cái tát tay: “Quả đấm không phải là khoa học”; trong giáo dục không
thể dùng nắm đấm. Nếu HS khơng thuộc bài hoặc khơng làm bài, GV cần tìm
hiểu tại sao như vậy; biết được chính xác nguyên nhân rồi sẽ có cách giải
quyết phù hợp. Sự tìm hiểu, gần gũi, quan tâm đến HS phải thật sự xuất phát
từ tình yêu thương của thầy giáo. Khi HS nhận biết được tình cảm đó thì việc
giáo dục các em sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn rất nhiều.
4. Những điều nên làm
- Đối với HSCB, người GVCN phải biết nhìn bằng con mắt của tình
thương và sự thơng cảm thật sự xem HS như người thân của mình, ta nên có
cái hiền từ bao dung của người mẹ, người cha cái gần gũi cảm thông của
người anh, người chị; và cái thân thiết của một người bạn.
- Có điều kiện tâm tình, gặp gỡ, trao đổi với các em, với gia đình, người
thân của các em... Nhẹ nhàng phân tích những mặt ưu, khuyết, đúng sai trong
nhận thức, suy nghĩ của các em... Giúp các em nhận biết những ưu điểm của
mình và biết phát huy nó. Khơng nên nói những câu phũ phàng, như “Ở em
chẳng có điểm nào tốt cả”, “Người như em thật chẳng ra gì!”, hoặc bi đát hơn
“Cuộc đời em rồi chẳng có ra làm sao đâu”...
- Giúp HSCB khắc phục sửa chữa những sai phạm của mình và chú ý
theo dõi, động viên khích lệ kịp thời. Một lời khen HSCB sẽ có tác dụng hơn
là một tờ tự kiểm. Không bỏ mặt và phủ nhận những chuyển biến của HSCB.
Những thay đổi theo chiều hướng tích cực của HS – dù nhỏ cũng đáng trân
trọng và phải ghi nhận, khích lệ.
- Và điều này thì ai cũng biết: quá cứng thì dễ gãy, q mềm thì khó
uốn. Trong sự nghiệp trồng người thì HSCB giống như cái cây không mọc
thẳng. Đối với loại cây này người GVCN phải gia công nhiều hơn. Thành
công trước mắt là HS ra trường với học lực khá giỏi, hạnh kiểm tốt. Nhưng
lâu dài, sau này HS gặp mình cịn biết gật đầu chào, biết nói một lời thăm hỏi,

biết nhắc lại những sai phạm xưa kia như những gì nơng nổi của một thời tuổi
trẻ. Khi người HS biết nhận lỗi một cách thành khẩn thì có nghĩa là biện pháp
giáo dục của GV phần nào đó đã thành công.
- Không phải lúc nào chúng ta cũng thành công trong việc giáo dục
HSCB. Nhất là trong thời đại như hiện nay, tinh thần tôn sư trọng đạo đã
khơng cịn được như ngày xưa, chưa kể một số phụ huynh phối hợp với nhà
17


trường chưa tốt để giáo dục con. Thầy cô giáo phải tôn trọng các em, không
thể tùy tiện la mắng các em, cư xử làm sao mà để HS của mình mắc cỡ với
bạn bè rồi dẫn đến bất mãn thì các em sẽ chống trả quyết liệt, khơng thể giáo
dục được. GV cần gần gũi, yêu thương HS để hiểu các em hơn, sẵn sàng bỏ
qua những lỗi lầm (có thể) để uốn nắn từ từ; giáo dục một con người là cả một
quá trình, cần cho các em có thời gian để thay đổi dần.
5. Việc giáo dục, xử lý nhiều tình huống khác nhau liên quan tới HS
cần phải tôn trọng một số nguyên tắc:
- Thứ nhất, không bao giờ áp đặt mong muốn của người lớn vào HS một
cách cứng nhắc. Vì nếu làm như vậy các em có thể tn theo nhưng thực chất
khơng phục, khơng tự nguyện, chống đối ngầm... Trái lại, cần tìm hiểu, lắng
nghe và thể hiện cho HS thấy các em đang được chia sẻ, tôn trọng, việc tiếp
cận của người thầy đầy thiện chí và sẵn lịng giúp đỡ các em.
- Thứ hai, khi xảy ra một sự việc liên quan tới hành vi của những HS có
cá tính nổi trội, người thầy không đáp lại bằng phản ứng tức thời, không tạo ra
xung đột, phân thắng thua giữa thầy với trò mà cần tạo một “khoảng lặng”
cho các em HS có cơ hội, thời gian bình tĩnh, nhìn nhận, tự đánh giá. Đôi khi
bản thân GV chúng ta cũng phải “tạm thua nhất thời” để dành “chiến thắng
cuối cùng”.
- Thứ ba, cần nhận thức đúng về việc người lớn không phải lúc nào
cũng đúng. Bởi vậy, người lớn cũng cần kiểm sốt, tự nhìn nhận hành vi của

mình. Việc quy định hình phạt đối với HS có việc làm sai là điều chúng ta cần
nghiên cứu. Nhưng trong khi đề ra các hình phạt cũng cần phải đảm bảo
nguyên tắc không sỉ nhục, xúc phạm và xâm phạm thân thể, tinh thần HS.
Phải làm sao để các em thực hiện hình phạt tự nguyện sau khi nhận ra cái sai
của mình.
Tóm lại, hình thành nhân cách HS – đặc biệt là HSCB – là nhiệm vụ
quan trọng của người GVCN đó khơng chỉ là nhiệm vụ trong một năm học,
một cấp học mà là thiên chức đối với một đời người – một thế hệ. Một năm
học đi qua, một thế hệ HS được chúng ta giảng dạy và chủ nhiệm ra trường.
Cái cuối cùng đọng lại trong tâm hồn các em chính là hình ảnh của thầy cơ
kính yêu dưới mái trường. Hình ảnh ấy sẽ đi suốt cùng các em trong chặng
đường sắp tới, người GVCN chúng ta phải cố gắng xứng đáng là “Người kỹ
sư tâm hồn” với đầy đủ ý nghĩa của nó. Người GVCN – với trái tim chan
chứa tình thương của mình – hãy là chiếc cầu nối góp phần hình thành nhân
cách HS. Đặc biệt là HSCB “Cái gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim”.
1.4
Tự
đánh giá

Bản thân sau khi bồi dưỡng đã tiếp thu và vận dụng được vào thực tiễn
được 76% so với yêu cầu và kế hoạch.

*******************
2. MODULE 14: Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp (10 tiết)
2.1.

Câu 1: Thầy (cơ) hãy cho biết thế nào là dạy học tích hợp? Tại sao phải dạy
18



Kết quả học tích hợp?
đạt
Trả lời
được
* Thế nào là dạy học tích hợp?
Dạy học tích hợp (DHTH) có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên
quan vào quá trình dạy học các mơn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống;
giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục
sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ mơi trường, an tồn giao
thơng...
DHTH là q trình dạy học sao cho trong đó tồn bộ các hoạt động học tập
góp phần hình thành ở HS những năng lực rõ ràng, có dự tính trước những điều
kiện cần thiết cho HS, nhằm phục vụ cho các quá trình học tập tiếp theo và chuẩn
bị cho HS bước vào cuộc sống lao động. Mục tiêu cơ bản của tư tưởng sư phạm
tích hợp là nâng cao chất lượng giáo dục HS phù hợp với mục tiêu giáo dục toàn
diện của nhà trường.
Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp là lồng ghép các nội dung cần
thiết vào những nội dung vốn có của một mơn học, tùy theo từng mơn học mà
lồng ghép tích hợp ở các mức độ như liên hệ, lồng ghép bộ phận, tồn phần,... từ
đó giáo dục và rèn kĩ năng sống, giá trị sống cho HS.
Phương thức tích hợp đưa ra 2 dạng tích hợp cơ bản như sau:
+ Dạng tích hợp thứ nhất: đưa ra những ứng dụng chung cho nhiều mơn học.
Dạng tích hợp này vẫn duy trì các mơn học riêng rẽ, trong khi các ứng dụng chung
được tích hợp vào những thời điểm thích hợp. Đây là cách tích hợp được vận
dụng phổ biến hiện nay.
+ Dạng tích hợp thứ hai: Phối hợp các q trình học tập của nhiều mơn học
khác nhau. Dạng tích hợp thứ hai thường dẫn đến phải phối hợp q trình dạy học
của các mơn học. Dạng tích hợp này nhằm hợp nhất hai hay nhiều mơn học thành
một mơn học duy nhất. Điều này địi hỏi phải nghiên cứu xây dựng chương trình
và tài liệu học tập phù hợp, thường phức tạp.

Dạy tích hợp, liên môn không phải là hai khái niệm tách rời nhau mà chỉ là
một khái niệm duy nhất, đó là dạy học những nội dung kiến thức liên quan đến
hai hay nhiều mơn học. “Tích hợp” là nói đến phương pháp và mục tiêu của hoạt
động dạy học, cịn “liên mơn” là đề cập tới nội dung dạy học. Ở mức độ thấp thì
dạy học tích hợp mới chỉ là lồng ghép những nội dung giáo dục có liên quan vào
quá trình dạy học một mơn học như: Lồng ghép giáo dục đạo đức, lối sống; giáo
dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử
dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ mơi trường, an tồn giao thơng...
Mức độ tích hợp cao hơn là phải xử lý các nội dung kiến thức trong mối liên quan
với nhau, bảo đảm cho HS vận dụng được tổng hợp các kiến thức đó một cách
hợp lý để giải quyết các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống, đồng thời tránh
việc HS phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác
nhau. Chủ đề liên môn là những chủ đề có nội dung kiến thức liên quan đến hai
19


hay nhiều môn học, thể hiện ở sự ứng dụng của chúng trong cùng một hiện tượng,
quá trình trong tự nhiên hay xã hội.
* Tại sao phải DHTH?
Trước hết, do mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều ít nhiều
có mối liên hệ với nhau; nhiều sự vật, hiện tượng có những điểm tương đồng và
cùng một nguồn cội… Để nhận biết và giải quyết các sự vật, hiện tượng ấy, cần
huy động tổng hợp các kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong quá trình phát triển của khoa học và giáo dục, nhiều kiến thức, kĩ
năng chưa hoặc chưa cần thiết trở thành một môn học trong nhà trường, nhưng lại
rất cần chuẩn bị cho HS để họ có thể đối mặt với những thách thức của cuộc sống;
do đó cần tích hợp giáo dục các kiến thức và kĩ năng đó thơng qua các mơn học.
Hiện nay chúng ta sống trong thế giới các bộ môn khoa học ngày càng ăn
nhập vào nhau, vì vậy ngày càng cần những nhóm làm việc đa mơn và địi hỏi con
người cần phải đa năng. Nếu từ khi còn nhỏ tuổi HS quen tiếp cận các khái niệm

một cách rời rạc, HS có nguy cơ sau này tiếp tục suy luận theo kiểu kép kín. Các
nghiên cứu đã chỉ ra trên thế giới có biết bao nhiêu người gọi là những người “mù
chữ chức năng”, tức là những người đã lĩnh hội được kiến thức trường học nhưng
khơng có khả năng sử dụng các kiến thức đó vào cuộc sống hằng ngày. Trong khi
đó, những địi hỏi của xã hội lại cần những người có năng lực và trình độ chun
mơn ngày càng cao. Những người “mù chữ chức năng” sẽ ngày càng khó tìm chỗ
đứng trong xã hội.
Ở trường THCS, HS được học nhiều bộ môn khác nhau, song các môn học
trong nhà trường phổ thơng đều có chung nhau nhiệm vụ là hiện thực hóa mục
tiêu phát triển tồn diện cho HS. Do vậy, khi dạy học người GV phải biết tích hợp
nội dung này một cách cụ thể, phù hợp với nội dung mơn dạy của mình. Trường
học khơng chỉ dạy cho HS kiến thức đơn thuần mà phải tập trung vào việc dạy
học cho HS biết sử dụng kiến thức đã học vào những trường hợp cụ thể, có ý
nghĩa đối với HS. Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp tạo điều kiện
cho HS tự tìm tòi kiến thức, nắm được và mở rộng kiến thức, liên hệ kiến thức
cuộc sống một cách sinh động, dễ hiểu, giải thích các hiện tượng, khái niệm rõ
ràng hơn.
DHTH hướng tới sự tổ chức các hoạt động học tập, trong đó HS học cách
sử dụng phối hợp các kiến thức và kỹ năng trong những tình huống có ý nghĩa gần
với cuộc sống. Trong quá trình học tập như vậy, các kiến thức của HS từ các môn
học khác nhau được huy động và phối hợp với nhau tạo thành một nội dung thống
nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ lý luận và thực tiễn được đề cập trong các
mơn học đó.
DHTH làm cho các q trình học tập có ý nghĩa, bằng cách gắn q trình
học tập vào cuộc sống hằng ngày không làm tách biệt thế giới nhà trường và thế
giới cuộc sống làm cho q trình học tập mang tính mục đích rõ rệt, sử dụng kiến
thức của nhiều môn học và không chỉ dừng lại ở nội dung các môn học.
DHTH phát triển các năng lực, đặc biệt là trí tưởng tượng khoa học và
20




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×